Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

HIỆP ĐỊNH CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VÀ NHỮNG THÁCH THỨC KHI VIỆT NAM TRỞ THÀNH THÀNH VIÊN WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171 KB, 32 trang )

viện Đại học mở Hà Nội
khoa luật
--- o0o ---

TIỂU LUẬN
MÔN: LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Đề tài:
HIỆP ĐỊNH CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VÀ NHỮNG THÁCH THỨC
KHI VIỆT NAM TRỞ THÀNH THÀNH VIÊN WTO

Họ và tên
Líp
Khóa
Hệ

HÀ NỘI – 2007

: NGUYỄN TRUNG THỰC
: LUẬT KINH TẾ
: K2
: ĐẠI HỌC TỪ XA


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, dịch vụ ngày càng đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế
thế giới cũng như của mỗi quốc gia. Thương mại dịch vụ tăng nhanh, vượt tốc
độ tăng của thương mại hàng hóa, khiến tỷ trọng thương mại dịch vụ trong
thương mại quốc tế không ngừng tăng lên. Chính vì vậy, cộng đồng quốc tế


khơng chỉ quan tâm đến việc nới lỏng và tiến tới dỡ bỏ các hàng rào thương
mại đối với hàng hóa mà cả đối với dịch vụ. Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ (GATS), mét trong những hiệp định cơ bản thuộc hệ thống các hiệp
định cấu thành WTO, quy định những nguyên tắc điều chỉnh thương mại dịch
vụ quốc tế, nội dung mở cửa thị trường dịch vụ, cam kết mà các thành viên
phải thực hiện. Mục tiêu của WTO là nhằm tạo ra một thị trường dịch vụ sẽ là
một trong những nội dung chủ yếu của các vòng đàm phán tới của WTO.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh
tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu. Cơ cấu kinh tế đã từng bước chuyển
dịch theo hướng hợp lý, tích cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: "Phát triển nhanh khu
vực dịch vụ đáp ứng yêu cầu và phù hợp với tiềm năng còn rất lớn của
nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới, tận dụng tốt thời cơ hội
nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ
cao hơn tốc độ tăng GDP, phấn đấu đạt 7,7-8,2%/năm.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực, nước ta đã từng bước
thực hiện cam kết về hợp tác dịch vụ trong khuôn khổ khối ASEAN năm
1995, năm 1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn hợp
tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) tháng 2/2000, Việt Nam và Hoa
Kỳ đã ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Ngày 07/11/2006, Việt Nam đã trở
thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Gia nhập
WTO tạo điều kiện cho chóng ta mở rộng mơi trường hàng hóa và dịch vụ,
Nguyễn Trung Thực

Khóa 21 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
mở rộng thị trường xuất khẩu ra quy mơ tồn cầu. Bên cạnh đó, chúng ta sẽ
gặp những thách thức, khó khăn như sức Ðp cạnh tranh tăng, một số các tác

động tiêu cực về mặt xã hội…
Trong lĩnh vực dịch vụ nước ta xét tổng thể vẫn ở trình độ phát triển
thấp, thương mại dịch vụ chủ yếu là quy mô nhỏ, nhiều tiềm năng dịch vụ
chưa được khai thác hiệu quả. Bên cạnh đó, hiệu quả quản lý nhà nước đối
với dịch vụ và thương mại dịch vụ chưa cao, hệ thống pháp luật về thương
mại dịch vụ chưa thực sự đồng bộ, chưa đầy đủ, nhiều quy định hiện hành còn
bất cập với nguyên tắc của WTO. Hơn nữa, khu vực dịch vụ có những đặc thù
riêng bởi tính chất chất nhạy cảm với vấn đề chủ quyền, an ninh quốc gia và
bản sắc văn hóa dân tộc; tính chất đa dạng của các loại hình dịch vụ. Chính vì
vậy, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ nói chung, gia nhập
GATS nói riêng một mặt tạo cho nước ta cơ hội để phát triển, nhưng mặt khác
cũng đặt ra nhiều thách thức, khó khăn, mà một trong những thách thức lớn
thì phải thích ứng chính sách, pháp luật về thương mại dịch vụ với quy định
của GATS.
Xuất phát từ thực tế đó, em đã chọn vấn đề "Hiệp định của Tổ chức
thương mại thế giới về thương mại dịch vụ và những thách thức khi Việt
Nam trở thành thành viên của WTO" làm đề tài cho Tiểu luận của mình.
Trên cơ sở phân tích các quy định của WTO về thương mại dịch vụ, xem xét
thực trạng pháp luật về thương mại dịch vụ ở Việt Nam hiện nay, tiểu luận
xin đề xuất một số giải pháp mà Việt Nam cần thực hiện để thích ứng với quy
định của WTO về thương mại dịch vụ.
"Mỗi thành viên phải đảm bảo các luật lệ, quy tắc và quy định hành
chính của nước mình tương thích với các nghĩa vụ được quy định trong
các hiệp định, phụ lục của WTO"

Nguyễn Trung Thực

Khóa 22 - Đại học Luật



Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế

PHẦN I
NỘI DUNG HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
CỦA WTO
Đầu thập kỷ 70, do sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và sự
điều chỉnh mang tính tồn cầu về kết cấu công nghiệp, lợi thế so sánh của các
nước trong công nghiệp phát triển, đặc biệt là Mỹ chuyển từ các ngành công
nghiệp truyền thống sang ngành dịch vụ và có xu hướng xuất siêu lớn trong
thương mại dịch vụ. Chính vì vậy, ngay tại vịng đàm phán Tokyo (19731979) trong khuôn khổ hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT),
Mỹ đã đề nghị đưa vấn đề thương mại dịch vụ vào nội dung đàm phán. Uỷ
ban hợp tác và phát triển kinh tế thuộc Liên hợp quốc đã căn cứ vào đề nghị
này quyết định bắt đầu nghiên cứu thí điểm loại bỏ các trở ngại thương mại
trong lĩnh vực dịch vụ kỹ thuật công trình xây dựng, ngân hàng, vận tải và
bảo hiểm. Sau nhiều thảo luận, các nước phát triển quyết định đưa vấn đề
thương mại dịch vụ vào nội dung đàm phán tại vòng đàm phán Urugoay
(1986-1995). Xuất phát từ lợi Ých kinh tế của mình, các nước đang phát triển
lúc đầu không đồng ý đàm phán về thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, do sức Ðp
từ phía các nước phát triển nên họ đã chấp nhận đàm phán với điều kiện phải
tách đàm phán thương mại dịch vụ ra khỏi đàm phán thương mại hàng hóa.
Trong q trình đàm phán tại vòng Urugoay, mục tiêu của các nước phát
triển là định ra một hệ thống quy tắc quốc tế về thương mại dịch vụ, theo đó
dỡ bỏ hồn tồn những trở ngại và hạn chế đối với thương mại dịch vụ.
Ngược lại, các nước đang phát triển rất thận trọng trong đàm phán thương mại
dịch vụ. Họ e ngại rằng mở cửa thị trường dịch vụ cho các nước phát triển sẽ
nguy hại tới chủ quyền và an ninh quốc gia, khơng thực hiện được chính sách
phát triển kinh tế của mình. Nhiều ngành dịch vụ ở những nước đang phát
triển cịn "non trẻ" nên năng lực cạnh tranh khơng cao, nếu mở cửa hồn tồn

Nguyễn Trung Thực


Khóa 23 - Đại học Luật


Tiểu luận mơn Luật thương mại quốc tế
thì các ngành dịch vụ đó tất yếu bị "bóp chết". Vì vậy, lập trường của các
nước đang phát triển là từng bước mở cửa thị trường dịch vụ, nhưng bảo hộ
hợp lý một số ngành dịch vụ then chốt như viễn thông, ngân hàng, vận tải.
Kết thúc vòng đàm phán Urugoay, cùng với sự ra đời của WTO thay thế
cho GATT, Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) đã được thơng
qua. GATS là hiệp định khung mang tính quốc tế đầu tiên điều chỉnh thương
mại dịch vụ. Đây cũng là một hiệp định bắt buộc phải tham gia đối với các
nước thành viên của WTO. Trong gần 5 năm qua, các nước thành viên WTO
đã tích cực thảo luận, xây dựng và thông qua các quy định mới về thương mại
dịch vụ nhằm hoàn thiện hơn khung pháp lý do thương mại dịch vụ quốc tế,
đó là Hiệp định về các dịch vụ tài chính và Hiệp định về các dịch vụ viễn
thông cơ bản được đông đảo các nước thành viên WTO tham gia.
Mục tiêu của GATS là:
- Thiết lập một khuôn khổ đa biên cho những nguyên tắc và quy tắc của
thương mại dịch vụ nhằm mở rộng thương mại trong lĩnh vực này trong điều
kiện minh bạch và tự do hóa dần dần và là một cơng cụ thúc đẩy tưng trưởng
kinh tế của tất cả đối tác trong thương mại và vì sự phát triển của các nước
đang phát triển.
- Đạt được tự do hóa thương mại dịch vụ ở mức ngày càng cao hơn
thông qua những vòng đàm phán đa biên liên tiếp nhằm tăng cường lợi Ých
của các bên tham gia trên cơ sở cùng có lợi và bảo đảm sự cân bằng chung về
quyền và nghĩa vụ, đời thời tôn trọng các mục tiêu trong chính sách quốc gia.
- Tạo thuận lợi để các nước đang phát triển tham gia ngày càng nhiều
hơn vào thương mại dịch vụ và mở rộng xuất khẩu dịch vụ của mình, trong đó
có phần nhờ vào tăng cường năng lực dịch vụ trong nước, hiệu quả và khả

năng cạnh tranh.
Nội dung của GATS bao gồm:
- Nguyên tắc và quy định chung
Nguyễn Trung Thực

Khóa 24 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
- Các phụ lục
- Danh mục các cam kết cụ thể
1. Những nguyên tắc và quy định chung
1.1. Phạm vi áp dụng:
Phạm vi áp dụng của GATS được quy định tại điều I, theo đó Hiệp định
áp dụng đối với các biện pháp tác động tới thương mại dịch vụ của các nước
thành viên. Đó là những biện pháp về:
- Mua, thanh tốn hay sử dụng một dịch vụ.
- Sự tiếp nhận hay sử dụng các dịch vụ gắn liền với việc cung cấp dịch
vụ, các dịch vụ được các thành viên đó yêu cầu phải đưa ra phục vụ công
chúng một cách phổ biến.
- Sự hiện diện, bao gồm cả hiện diện thương mại, của những người thuộc
một thành viên để cung cấp dịch vụ trên lãnh thổ của một thành viên khác.
Tuy nhiên GATS không điều chỉnh mọi biện pháp tác động tới thương
mại dịch vụ mà chỉ điều chỉnh những biện pháp tác động tới thương mại dịch
vụ được áp dụng bởi:
- Chính quyền trung ương, khu vực hoặc địa phương.
- Các cơ quan phi Chính phủ trong việc thực hiện thi quyền hạn được
chính quyền Trung ương, khu vực hoặc địa phương giao cho.
Thương mại dịch vụ, theo GATS được hiểu là sự cung cấp dịch vụ theo
4 phương thức sau:

- Cung cấp qua biên giới: dịch vụ được cung cấp qua lãnh thổ của một
thành viên đến lãnh thổ của một thành viên khác. Ví dụ: dịch vụ viễn thơng,
vận tải…
- Tiêu dùng ở nước ngồi: dịch vụ được cung cấp trên lãnh thổ của một
thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của thành viên khác. Ví dụ dịch vụ
điều ước lịch.
- Hiện diện thương mại: dịch vụ được cung cấp bởi một người cung cấp
Nguyễn Trung Thực

Khóa 25 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
dịch vụ của một thành viên thông qua sự hiện diện thương mại trên lãnh thổ
của thành viên khác. Ví dụ dịch vụ tài chính, bảo hiểm..
- Hiệp định của thể thân: dịch vụ được cung cấp bởi một người cung cấp
dịch vụ của một thành viên thông qua sự hiện diện thể nhân trên lãnh thổ của
thành viên khác. Ví dụ dịch vụ tư vấn, kiểm toán…
Như vậy GATS chỉ điều chỉnh những biện pháp của các nước thành viên
tác động tới thương mại dịch vụ được thực hiện thông qua bốn phương thức
cung cấp dịch vụ nói trên. Dịch vụ được cung cấp qua những phương thức đó
là bất kỳ loại dịch vụ nào, ngoại trừ dịch vụ cung cấp trong khi thi hành thẩm
quyền của chính phủ (những dịch vụ được cung cấp không trên cơ sở thương
mại, hoặc không trên cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều người cung cấp
dịch vụ).
1.2. Những nguyên tắc điều chỉnh thương mại dịch vụ.
a. Nguyên tắc tối huệ quốc (Most Favored National Trêatmnt - MFN).
Nguyên tắc tối huệ quốc được quy định tại điều II của GATS với nội
dung như sau: Mỗi thành viên phải ngay lập tức và không điều kiện dành cho
dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác đãi ngộ mà

thành viên đó đã và sẽ dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự
của bất kỳ nước nào khác.
Cùng với nguyên tắc đối xử quốc gia (NT), nguyên tắc tối huệ quốc
(MFN) là nền tảng của thể chế thương mại dịch vụ đa biên. Nội dung của
nguyên tắc này yêu cầu mọi nước thành viên phải thực hiện đối xử (ưu đãi
hoặc hạn chế) bình đẳng giữa dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của các
nước thành viên khác nhau trên lãnh thổ của mình.
Theo quy định của GATS, chế độ đối xử tối huệ quốc phải được áp dụng
ngay lập tức và vô điều kiện. Tuy nhiên chế độ đối xử tối huệ quốc bị hạn chế
trong một số trường hợp nhất định.
Thứ nhất: GATS cho phép các nước thành viên được miễn trừ đối xử tối
Nguyễn Trung Thực

Khóa 26 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
huệ quốc đối với những biện pháp nhất định thông qua đàm phán. Các thành
viên phải được quy định rõ trong Danh mục miễn trừ đối xử tối huệ quốc
những biện pháp được miễn trừ và thời hạn miễn trừ. Về nguyên tắc, các miễn
trừ không được vượt quá thời hạn 10 năm. Danh mục tiễn trừ đối xử tối huệ
quốc là bộ phận không thể tách rời của GATS.
Thứ hai: Các nước thành viên có thể dành cho các nước lân cận (chung
đường biên giới) những thuận lợi nhằm thúc đẩy thương mại dịch vụ trong
phạm vi vùng cận biên. Trong các khu vực tự do mậu dịch cận biên, các nước
thành viên có chung đường biên giới có thể dành những ưu đãi cho nhau mà
không phụ thuộc vào nghĩa vụ thực hiện đối xử tối huệ quốc đã cam kết trong
danh mục cam kết cụ thể.
b. Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment - NT) và tiếp cận
thị trường.

Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) được quy định tại điều 17 của GATS,
theo đó trong lĩnh vực được ghi trong Danh mục cam kết cụ thể, mỗi thành
viên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ nước thành
viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà thành viên
đó đã đang và sẽ dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của nước mình.
Sự đối xử không thoả mãn yêu cầu của nguyên tắc NT là sự đối xử làm cho
điều kiện cạnh tranh có lợi hơn cho dịch vụ hay người cung cấp dịch vụ nước
ngồi.
Ngun tắc MFN được áp dụng ngay lập tức, vơ điều kiện mà mọi thành
viên GATS phải chấp nhận, nhưng có ngoại lệ. Khác với nguyên tắc MFN,
việc áp dụng đãi ngộ quốc gia không phải là nghĩa vô chung mà là nghĩa vụ
có điều kiện và được đàm phán trong quá trình gia nhập. Kết quả đàm phán về
mở cửa thị trường và đối xử quốc gia được ghi nhận trong Danh mục cam kết
cụ thể.
Thực chất nội dung của nguyên tắc đối xử quốc gia là các nước thành
viên phải dỡ bỏ những hạn chế và phân biệt đối xử đối với người cung cấp
Nguyễn Trung Thực

Khóa 27 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
dịch vụ nước ngoài, tạo điều kiện cho họ thâm nhập (tiếp cận - access) thị
trường trong nước. Do đó, mức độ cam kết thực hiện nguyên tắc NT phải
được quy định rõ ràng trong Danh mục cam kết cụ thể. Cam kết tiếp cận thị
trường hoặc đối xử quốc gia chỉ được áp dụng cho những dịch vụ được quy
định trong Danh mục cam kết cụ thể. Danh mục này này được xây dựng
thông qua đàm phán gia nhập của các nước thành viên.
Theo quy định của GATS, các thành viên phải loại bỏ 6 hạn chế sau đây
trong những lĩnh vực có cam kết mở cửa thị trường.

- Các hạn chế về số lượng người cung cấp dịch vụ dưới hình thức hạn
ngạch.
- Độc quyền, toàn quyền cung cấp dịch vụ hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu
kinh tế.
- Hạn chế về tổng giá trị các giao dịch dịch vụ tài sản dưới hình thức hạn
ngạch hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế.
- Hạn chế số lượng các hd dịch vụ hoặc số lượng dịch vụ đầu ra tính theo số
lượng đơn vị dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế.
- Hạn chế số lượng nhân có thể được tuyển dụng trong một lĩnh vực cụ
thể hoặc người người cung cấp dịch vụ được phép tuyển dụng cần thiết hoặc
trực tiếp liên quan tới việc cung cấp dịch vụ cụ thể dưới hình thức hạn ngạch
hoặc yêu cầu về nhu cầu kinh tế.
- Hạn chế về tỷ lệ góp vốn của các bên nước ngoài bằng việc quy định
giới hạn phần trăm tối đa cổ phần của các bên nước ngoài hoặc tổng giá trị
đầu tư nước ngồi tính đơn hoặc tính gộp.
Kể từ khi GATS có hiệu lực tới nay, số lượng các ngành dịch vụ được
đưa vào danh mục cam kết cụ thể ngày càng mở rộng hơn. Hơn 70 nước
thành viên WTO đã lập lộ trình cam kết áp dụng nguyên tắc NT cho dịch vụ
chuyên môn, dịch vụ du lịch, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và các
dịch vụ tài chính khác; khoảng 30 nước đã lập lộ trình cam kết cho dịch vụ
Nguyễn Trung Thực

Khóa 28 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
giáo dục, dịch vụ văn hóa, thể thao. Sự mở rộng phạm vi các ngành dịch vụ
được cam kết áp dụng nguyên tắc NT là một trong những thách thức đối với
các nước chậm phát triển đang đàm phán gia nhập GATS, trong đó có Việt
Nam.

c. Ngun tắc cơng khai, minh bạch hóa (publicity, transparency):
Mục đích của ngun tắc cơng khai, minh bạch hóa là nhằm đảm bảo
một mơi trường kinh doanh rõ ràng, có thể tiên liệu trước (predictability), tạo
điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư phát triển. Các thành viên
GATS phải bảo đảm tính minh mạch của chính sách, pháp luật những quy
định về thủ tục, tiêu chí xét duyệt, cơ chế giải quyết khiếu kiện phải rành
mạch, rõ ràng.
Theo quy định của GATS, các thành viên phải cơng bố mọi chính sách,
quy định có tác động tới thương mại dịch vụ trước khi những chính sách, quy
định đó có hiệu lực thi hành. Những thoả thuận song phương hoặc đa phương
liên quan đến thương mại dịch vụ mà các thành viên tham gia cũng phải được
công bố. Hàng năm, các thành viên phải được thông báo Ýt nhất một lần cho
Hội đồng Thương mại dịch vụ về việc ban hành, hoặc sửa đổi những quy
định, chính sách có tác động đến thương mại thuộc các lĩnh vực có cam kết cụ
thể.
Các thành viên có quyền yêu cầu thành viên khác khẩn trương thơng báo
cho mình những thơng tin cụ thể về những quy định, chính sách có tác động
tới thương mại dịch vụ. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp
cận những thông tin về quy định, chính sách thương mại của nhau, mỗi thành
viên sẽ phải lập những điểm cung cấp thông tin về quy định, chính sách
thương mại trong vịng 2 năm kể từ khi Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực.
Đối với các nước đang phát triển, các thành viên có thể thoả thuận thời hạn
linh hoạt thích hợp cho việc thành lập những điểm thơng báo đó.
Ngun tắc cơng khai, minh bạch hóa khơng u cầu các thành viên phải
Nguyễn Trung Thực

Khóa 29 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế

cung cấp thông tin mà việc tiết lộ chúng có thể cản trở việc thi hành pháp luật,
hoặc trái với lợi Ých công cộng hoặc phương hại tới quyền lợi thương mại
hợp pháp của một doanh nghiệp nào đó.
d. Nguyên tắc tự do hóa từng bước:
Việc thừa nhận nguyên tắc tự do hóa từng bước trong GATS là kết quả
đấu tranh của các nước đang phát triển trong đàm phán về thương mại dịch vụ
tại Vòng đàm phán Urugoay. Cơ sở thực tiễn của ngun tắc này chính là sự
khơng đồng nhất về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia. Hơn
nữa, hiện tại khoảng cách về trình độ phát triển, xét cả về tổng thể nền kinh tế
cũng như từng lĩnh vực dịch vụ cụ thể, giữa các nước phát triển và đang phát
triển là rất lớn. Vì vậy, q trình tự do hóa thương mại dịch vụ phải được tiến
hành từng bước phù hợp với thực tiễn phát triển của mỗi quốc gia.
Theo quy định của GATS: "Tiến trình tự do hóa được tiến hành với sự
quan tâm đúng mức đến mục tiêu chính sách quốc gia và trình độ phát triển
của mỗi thành viên". Mục tiêu của nguyên tắc này là nhằm đạt được mức độ
tự do hóa thương mại dịch vụ ngày càng cao hơn, hướng tới giảm hoặc loại bỏ
những trở ngại đối với thương mại dịch vụ trên cơ sở cùng có lợi và bảo đảm
cân bằng tổng thể quyền lợi và nghĩa vụ. Tiến trình tự do hóa từng bước được
đẩy mạnh thông qua từng vùng đàm phán (song phương hoặc đa biên) theo
hướng tăng dần mức độ của các cam kết cụ thể.
e. Nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước thành
viên đang phát triển hoặc đang trong quá trình chuyển đổi.
Tổ chức tiền thân của WTO là GATT đã có những ưu đãi nhất định dành
cho các nước thành viên đang phát triển thông qua hệ thống các đối xử đặc
biệt và khác biệt. Tuy nhiên, chỉ đến khi WTO ra đời, sự đối xử đặc biệt và
khác biệt dành cho các nước thành viên đang phát triển mới được khẳng định
là nguyên tắc cơ bản điều chỉnh hệ thống thương mại đa biên. Nguyên tắc này
không chỉ kế thừa những quy định ưu đãi của GATT về thương mại hàng hóa
Nguyễn Trung Thực


Khóa 10
2 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
dành cho các nước đang phát triển mà còn mở rộng áp dụng cho thương mại
dịch vụ, đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ. Đây là thành quả đấu tranh liên tục
của các nước đang phát triển qua những vòng đàm phán trong khn khổ
GATT, đặc biệt là vịng đàm phán với Urugoay. Bởi vì một trong những
nguyên tắc cơ bản trong Quốc tế nói chung, thương mại Quốc tế nói riêng là
bình đẳng và cùng có lợi. Trong khi đó bất lợi thuộc về các nước đang phát
triển do khoảng cách lớn về trình độ phát triển với các nước phát triển. Vì
vậy, ngun tắc bình đẳng khơng phân biệt đối xử chỉ có ý nghĩa đối với các
nước đang phát triển khi họ được hưởng ưu đãi nhất định hơn so với các nước
phát triển, nhờ đó thúc đẩy họ tham gia vào hệ thống thương mại đa biên, hạn
chế phần nào bất lợi và tận dụng được những lợi Ých của hệ thống thương
mại đa biên.
Theo quy định của GATS, nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt dành
cho các nước thành viên đang phát triển thể hiện ở những nội dung sau đây:
Thứ nhất: Những cam kết cụ thể đạt được thông qua đàm phán phải bảo
đảm các nước thành viên đang phát triển tăng cường năng lực cạnh tranh của
các ngành dịch vụ, nâng cao khả năng tiếp cận các kênh phân phối và hệ
thống thông tin, đồng thời mở cửa thị trường trong các lĩnh vực và đa phương
thức cung cấp gắn liền với mối quan tâm xuất khẩu của các nước thành viên
đang phát triển.
Thứ hai: Về đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ, những nước phát triển
phải áp dụng biện pháp loại trừ (khơng mở cửa lĩnh vực nào thì phải liệt kê
trong Danh mục cam kết cụ thể và những lĩnh vực còn lại đều phải mở cửa)
nhưng các nước đang phát triển được áp dụng phương pháp "chọn - cho".
Nghĩa là mở cửa lĩnh vực nào thì liệt kê lĩnh vực đó trong Danh mục cam kết

cụ thể, các lĩnh vực không liệt kê là không cam kết. Hơn nữa các thành viên
đang phát triển được hưởng sự linh hoạt thích đáng trong việc mở cửa thị
trường với Ýt lĩnh vực hơn, tự do hóa Ýt loại hình gio dịch hơn. Tuy nhiên,
Nguyễn Trung Thực

Khóa 11
2 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
việc chọn lĩnh vực dịch vụ để cam kết không được thực hiện một cách tuỳ ý
mà phải thông qua đàm phán. Thực tế cho t hấy các nước phát triển thường
gây áp lực để các nước đang phát triển đưa nhiều lĩnh vực dịch vụ vào cam
kết mở cửa thị trường.
Thứ ba: Trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực,
các nước thành viên phát triển và các thành viên khác, tuỳ theo khả năng, sẽ
lập những điểm liên lạc để tạo điều kiện cho những người cung cấp dịch vụ
của các nước thành viên đang phát triển tiếp cận thông tin về thị trường của
những trước đó.
Việc ghi nhận sự đối xử ưu đãi dành cho các nước đang phát triển trong
các nước hiệp định của WTO nói chung, GATS nói riêng thể hiện sự tiến bộ
trong quan hệ thương mại Quốc tế hiện nay. Tuy nhiên phần lớn những ưu đãi
được quy định chỉ mang tính định hướng, thiếu tính cụ thể và khả thi. Chẳng
hạn như điều 19 của GATS quy định: "Sù linh hoạt thích đáng cho các thành
viên đang phát triển trong việc mở cửa thị trường với Ýt lĩnh vực hơn, tự do
hóa Ýt loại hình giao dịch hơn…" Những ưu đãi nhìn chung chưa phản ánh
đúng khoảng cách lớn về trình độ phát triển giữa các nước thành viên phát
triển và đang phát triển. Ví dụ, hiệp định dịch vụ viễn thông cơ bản cho phép
các nước thu nhập thấp kéo dài thêm 6 năm so với các nước phát triển trong
việc mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông nhưng thực tế các nước đó lạc hậu

hơn các nước phát triển trong lĩnh vực này từ 20-30 năm.
1.3. Quy định về sự công nhận.
GATS cho phép các nước thành viên được quy định cấp phép đối với
việc cung cấp dịch vụ trong những lĩnh vực cam kết cụ thể, những yêu cầu về
chuyên môn, thủ tục, tiêu chuẩn kỹ thuật để được cấp phép không tạo thành
những trở ngại cho thương mại dịch vụ. Những yêu cầu như vậy phải bảo
đảm:
- Dựa trên những tiêu t hức khách quan và minh bạch, như năng lực và
Nguyễn Trung Thực

Khóa 12
2 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
khả năng cung cấp.
- Không rườm rà hơn mức cần thiết để bảo đảm chất lượng dịch vụ.
- Trong trường hợp có thủ tục cấp phép, không trở thành hạn chế cung
cấp dịch vụ.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp phép cho người cung cấp dịch vụ
nước ngoài, một thành viên có thể cơng nhận giấy phép hoặc chứng chỉ do
một nước thành viên khác cấp là đáp ứng toàn bộ hoặc một phần những yêu
cầu cấp phép ở nước mình. Khi áp dụng các tiêu chuẩn, tiêu thức để được cấp
phép hoặc chứng nhận người cung dịch vụ, nước thành viên sẽ không sử dụng
sự công nhận để tạo ra sự phân biệt đối xử hoặc hạn chế trá hình đối với
thương mại dịch vụ. Việc công nhận giấy phép hoặc chứng chỉ do một nước
thành viên khác cấp có thể được tiến hành trên cơ sở một hiệp định về sự
công nhận như trên. Các nước thành viên phải thông báo cho Hội đồng
thương mại dịch vụ về những biện pháp công nhận hiện hành và những biện
pháp công nhận mới được áp dụng, những hiệp định về công nhận mà mình

đang hoặc sẽ tham gia.
1.4. Quy định về thể chế:
Hội đồng thương mại dịch vụ chịu sự chỉ đạo chung của Đại hội đồng,
có chức năng giám sát việc thực hiện các quy định của GATS. Để thực hiện
chức năng được giao, Hội đồng Thương mại dịch vụ có thể thành lập những
cơ quan trực thuộc nếu thấy cần thiết. Các thành viên có thể cử đại diện tham
gia Hội đồng Thương mại và các cơ quan của Hội đồng. Các nước thành viên
bầu Chủ tịch Hội đồng.
Khác với GATT, WTO có một hệ thống giải quyết tranh chấp mang tính
định chế cao, được xem là một yếu tố trung tâm đảm bảo cho hệ thống thương
mại đa biên vận hành "an tồn và có tính khả đốn". Tranh chấp giữa các
thành viên GATS phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình do
Cơ quan giải quyết tranh chấp giải quyết theo trình tự, thủ tục được quy định

Nguyễn Trung Thực

Khóa 13
2 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
tại Thoả thuận về Quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp.
Khi có tranh chấp xảy ra, các thành viên không được hành động đơn phương
mà phải đưa ra giải quyết tại DSB (Dispute Settlement Body - DSB)và tuân
thủ các quy định và phán quyết của DSB. Nếu xét thấy tranh chấp đã nghiêm
trọng tới mức độ cần có một hành động, DSB có thể cho phép các thành viên
đình chỉ thi hành những nghĩa vụ cam kết cụ thể theo quy định của DSU
(Sisputu Settlement Understanding).
Cần lưu ý rằng tranh chấp theo mét quy định của WTO là tranh chấp
giữa các quốc gia thành viên phát sinh trong quá trình thực hiện những

nguyên tắc và quy định của WTO chứ không phải là tranh chấp giữa những
người cung cấp dịch vụ của các nước thành viên. Phán quyết của DSB đói với
một tranh chấp là buộc một (hoặc nhiều) nước thành viên có liên quan phải
điều chỉnh chính sách, quy định của mình sao cho phù hợp với quy định của
WTO.

Nguyễn Trung Thực

Khóa 14
2 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
PHẦN II
NHỮNG THÁCH THỨC TRONG NGÀNH DỊCH VỤ
KHI VIỆT NAM ĐÃ VÀO WTO
Toàn cầu hóa là xu thế khách quan được thúc đẩy bởi sự phát triển mạnh
mẽ của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ hiện đại. Tồn cầu hóa làm gia
tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia thông qua liên kết kinh tế. Liên
kết kinh tế diễn ở ở nhiều cấp độ và phạm vi khác nhau, trong đó liên kết
trong khn khổ WTO là sự liên kết kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Nhận thức
được xu thế phát triển khách quan của thời đại, Đảng và Nhà nước ta nhất
quán chính sách chủ động hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X chỉ rõ: năm năm tới (2006-2010) là một thời kỳ quan trọng về
hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là nước ta phải thực hiện đầy đủ các cam kết
AFTA và gia nhập WTO. Do vậy, cần thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp
chủ yếu sau:
Một là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù
hợp với chiến lược phát triển đất nước từ ngay đến 2010 và tầm nhìn đến năm
2020. Để thực hiện nhiệm vụ này cần:

- Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do
song phương, đa phương.
- Thúc đẩy quan hệ hợp tác tồn diện và có hiệu quả với các nước
ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương.
- Củng cố và phát triển các quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các
đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa các thách
thức, rủi ro khi nước ta trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới
(WTO).
Hai là, tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy,
sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật tương đối đủ về số lượng, bảo

Nguyễn Trung Thực

Khóa 15
2 - Đại học Luật


Tiểu luận mơn Luật thương mại quốc tế
đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch.
- Cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các nguồn vốn FDI, ODA, đầu tư
gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác.
- Xác định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy nhanh việc giải ngân vốn
ODA, cải tiến phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế
hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài hợp lý, an toàn.
Ba là, phát huy vai trị chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sp mới
và thương hiệu mới.
- Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với nước
ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngồi.

1. Cơ hội:
Thứ nhất, gia nhập WTO nói chung, GATS nói riêng sẽ thúc đẩy cơng
cuộc đổi mới kinh tế của đất nước, thúc đẩy xây dựng, hoàn thiện hệ thống
chính sách pháp luật, tạo mơi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh. Bởi
để ra nhập GATS, chóng ta phải chấp nhận những quy định, nguyên tắc điều
chỉnh thương mại dịch vụ của GATS. Trong khi đó, hệ thống chính sách,
pháp luật về thương mại dịch vụ ở nước trong q trình xây dựng, từng bước
hồn thiện. Chính vì vậy, việc thực hiện cam kết trong khn khổ GATS buộc
chúng ta phải đẩy mạnh quá trình xây dựng, hồn thiện chính sách, pháp luật
sao cho thích ứng với quy định của GATS.
Thứ hai, mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết sẽ tạo động lực thúc
đẩy cạnh tranh lành mạnh, đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường dịch vụ,
qua đó hạn chế tác động tiêu cực của độc quyền kinh doanh, cung cấp cho
người tiêu dùng những dịch vụ có chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn. Môi
trường cạnh tranh mới buộc các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam phải cải
cách, cơ cấu lại tổ chức, hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh, hiệu
Nguyễn Trung Thực

Khóa 16
2 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
quả kinh doanh. Đồng thời, tăng hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp
dịch vụ, đặc biệt các doanh nghiệp viễn thông, vận tải, ngân hàng sẽ gián tiếp
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác
của nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, gia nhập GATS sẽ góp phần cải thiện mơi trường đầu tư, bảo
đảm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vốn và công nghệ vào các
ngành dịch vụ ở Việt Nam. Hiện nay, nhu cầu đầu tư để mở rộng và hiện đại

hóa trong những ngành dịch vụ giữ vai trị quan trọng đối với nền kinh tế như
viễn thơng, vận tải, ngân hàng, du lịch… rất lớn. Do nguồn vốn trong nước
hạn chế nên vốn đầu tư nước ngoài vào những ngành này là cần thiết, tạo ra
năng lực sản xuất mới, qua đó thúc đẩy tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Thứ tư, thông qua mở cửa thị trường dịch vụ, giảm thiểu những hàng rào
và biện pháp hạn chế, xóa bỏ những phân biệt đối xử trong thương mại dịch
vụ, các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam có thể tiếp cận nhiều thị trường mới,
có thêm cơ hội và đối tác để phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Trong
điều kiện hợp tác, cạnh tranh ở mơi trường rộng lớn, chúng ta có thể tìm ra
hướng đi để phát huy lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu dịch
vụ, đặc biệt là xuất khẩu dịch vụ.
Hơn nữa, là thành viên của WTO, Việt Nam có thể tận dụng và phát huy
hiệu ứng "kéo - đẩy" giữa thương mại hàng hóa, đầu tư và thương mại dịch
vụ. Bởi vì sự phát triển của thương mại hàng hóa, đầu tư sẽ kéo theo sự phát
triển của thương mại dịch vụ, ngược lại, sự phát triển của thương mại dịch vụ
thúc đẩy sự phát triển của thương mại hàng hóa, đầu tư.
Thứ năm, những cam kết trong khuôn khổ GATS tạo điều kiện cho Việt
Nam cải thiện quan hệ song phương với các nước, nhất là trong lúc chúng ta
chưa đạt được những thoả thuận về thương mại, tài chính và đầu tư với nhiều
nước. Tham gia với GATS còn giúp Việt Nam hội nhập thực sự và khai thác
tốt các thoả thuận về dịch vụ trong khn khổ ASEAN, APEC và trong những
Nguyễn Trung Thực

Khóa 17
2 - Đại học Luật


Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
chừng mực nhất định cải thiện quan hệ với các tổ chức quốc tế khác.
Đặc điểm nổi bật của tồn cầu hóa hiện nay là ưu thế thuộc về các nước

tư bản phát triển. Những nước này với sức mạnh kinh tế của mình lợi dụng
q trình tự do hóa thương mại, đầu tư để chi phối nền kinh tế thế giới, áp đặt
quan hệ bất bình đẳng đối với các nước khác. Vì vậy, WTO là diễn đàn, ở đó
Việt Nam thơng qua đoàn kết với các nước đang phát triển và chậm phát triển
đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
2. Thách thức
Thứ nhất, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam khi gia nhập GATS là
xuất phát điểm và trình độ của nước ta cịn thấp so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới. Về cơ bản, nước ta vẫn chưa thoát khỏi một nền kinh tế
tiểu nông lạc hậu. Mặc dù nông nghiệp chỉ tạo ra 26% GDP nhưng vẫn chiếm
hơn 70% lực lượng lao động xã hội. Dự báo vào khoảng năm 2020 nước ta
bắt đầu có thể có cơ cấu kinh tế ngành phù hợp với nền kinh tế cơng nghiệp
hóa. Gia nhập GATS, Việt Nam phải tuân thủ "luật chơi" của cơ chế thị
trường toàn cầu áp dụng chung cho tất cả thành viên, "buộc phải đấu với
những võ sỹ hạng nhất là các nước phát triển trên cùng một võ đài". Rõ ràng,
thách thức này là rất lớn nhưng Việt Nam khơng thể chờ đến khi có nền kinh
tế phát triển thì mới gia nhập GATS, mà ngược lại chúng ta phải quyết tâm
tìm ra những quyết sách biến hội nhập thành cơng cụ thực hiện thắng lợi cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, khả năng cạnh tranh của các ngành dịch vụ ở nước ta nói chung
cịn thấp bởi cơng nghệ lạc hậu, trình độ quản lý và kinh nghiệm kinh doanh
hạn chế. Chẳng hạn, bưu chính viễn thông là một trong những ngành dịch vụ
đã tạo dựng được cơ sở vật chất khá hiện đại, nhưng khả năng cạnh tranh vẫn
không cao, năng xuất lao động thấp.
Hơn nữa, do được bổ hộ trong thời gian dài nên tâm lý "ỷ lại" vào sự bảo
hộ của Nhà nước khơng thể nhanh chóng xóa bỏ ngay được. Các doanh
Nguyễn Trung Thực

Khóa 18
2 - Đại học Luật



Tiểu luận môn Luật thương mại quốc tế
nghiệp (kể cả doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phi nhà nước)
thường giành lấy sự bảo hộ của nhà nước càng nhiều càng tốt, Ýt quan tâm
đến nâng cao năng lực cạnh tranh. Thậm chí u cầu địi bảo hộ và bao cấp có
xu hướng tăng lên khi nền kinh tế nước ta gặp khó khăn trong vài năm gần
đây. Vì vậy, khi gia nhập GATS, bản thân mỗi doanh nghiệp, dịch vụ trong
nước phải tự đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, xóa bỏ tư tưởng chờ đợi
vào sự bảo hộ của nhà nước, loại bỏ kiểu kinh doanh "chộp dựt". Mỗi doanh
nghiệp cần xây dùng cho mình chiến lược phát triển đầu tư cho nghiên cứu và
phát triển (R&D) để thích ứng với mơi trường cạnh tranh khốc liệt và sự phát
triển nhanh chóng của khoa học công nghệ.
Thứ ba, các quốc gia thành viên GATS phải bảo đảm luật lệ, quy định
của mình tương thích với các nghĩa vụ đã cam kết. Đây cũng là một thách
thức lớn đối với Việt Nam nếu chúng ta muốn gia nhập GATS. Bởi vì, khác
với các nước khác, hệ thống chính sách, pháp luật thương mại nói chung,
chính sách, pháp luật về thương mại dịch vụ nói riêng của Việt Nam chịu sự
tác động của cơ chế, kế hoạch hóa tập trung trước đây. Chính vì vậy, hệ thống
pháp luật nước ta trở nên bất cập với luật chơi của nền kinh tế thế giới, nền
kinh tế thị trường ở quy mơ tồn cầu. Gia nhập GATS tức là chấp nhận những
nguyên tắc, chuẩn mực của GATS, theo đó phải bảo đảm thiết lập một khuôn
khổ pháp lý công khai, minh bạch, bình đẳng. Do đó, cơng tác chuẩn bị cho
gia nhập GATS rất nặng nề, bao gồm nghiên cứu các quy định của GATS
(WTO), xây dựng, điều chỉnh khung pháp lý; đào tạo cán bộ, nâng cao kiến
thức và năng lực quản lý vĩ mơ..
Mặt khác, tính chất cơ bản của nền kinh tế nước ta hiện nay là đang
chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Vì vậy, chúng ta phải xử lý
nhiều mối quan hệ phức tạp: giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng

XHCN, giữa hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, giữa hợp
Nguyễn Trung Thực

Khóa 19
2 - Đại học Luật



×