Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.65 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................2
1. Khái niệm về Quản trị.......................................................................................2
2. Các mơ hình trong quản trị doanh nghiệp.........................................................2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.................................................................................4
1. Những tư tưởng của Đức Khổng Tử.................................................................4
2. Vận dụng trong quản lý doanh nghiệp..............................................................8
III. KẾT LUẬN..................................................................................................10
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................11


LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ những giá trị của văn hóa
phương Đơng trong quản lý hiện đại. Điều này được các nhà kinh tế và các nhà
văn hóa thống nhất cho rằng, văn hố nói chung là mục tiêu và là động lực của
sự phát triển kinh tế, kinh doanh. Trong xã hội, văn hoá được xem như là nền
tảng tinh thần đảm bảo sự phát triển bền vững, thì trong kinh doanh chính văn
hoá cũng là nền tảng tinh thần cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh
nghiệp. Một quốc gia đang trong q trình hội nhập tồn cầu nếu xây dựng được
một nền tảng bản sắc văn hóa riêng sẽ góp phần đưa nền kinh tế của quốc gia
mình hội nhập chung với đời sống kinh tế, chính trị trên tồn thế giới. Đối với
doanh nghiệp, văn hóa quản trị đã trở thành một yếu tố quan trọng và ngày càng
trở nên quan trọng đối với không chỉ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà
còn cả đối với quyết định của người tiêu dùng.
Quản lý là một hoạt động mà trong mọi chế độ xã hội đều có, và áp dụng
cho các đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, những hình thức, mơ hình quản lý ngày
nay rõ ràng khác với những gì đã được thực thi các đây hàng ngàn năm. Mặc dù
vậy, chắc chắn sẽ có những điểm tương đồng giữa các hình thức trong quản lý.
Trong bài Tiểu luận này, em muốn nêu lên mối liên hệ của một số nguyên tắc và
phương pháp quản lý của phương Đơng cổ đại, trong đó Đức Khổng Tử là Triết


gia điển hình với quản lý hiện đại theo cách mọi người thường nói là “ơn cố tri
tân”, qua đó đặt vấn đề về cách quản lý ở các doanh nghiệp hiện nay.
Vì vậy, em đã chọn chủ đề “Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử
trong quản lý doanh nghiệp”
Kết cấu bài viết gồm 3 phần:
Phần I: Đặt vấn đề
Phần II: Giải quyết vấn đề
Phần III: Kết luận
Tư tưởng của Đức Khổng Tử bao trùm lên nhiều vấn đề trong cuộc sống.
Trong khuôn khổ của một bài Tiểu luận và hiểu biết có hạn nên bài viết của em
khơng tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy để
bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Qua bài viết này, em xin gửi lời cảm ơn đến thầy, TS Phạm Văn Sinh đã
tận tình giảng và hướng dẫn em hoàn thành bài Tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy!

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

1
Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xây dựng mơ hình, văn hóa trong quản trị doanh nghiệp (QTDN) là biểu hiện
của sự phát triển cao hơn về trình độ quản lý của doanh nghiệp, hoạt động này được
xây dựng và phát triển chuẩn hóa nhằm khơng ngừng đáp ứng ngày càng tốt hơn
những yêu cầu mới trong giai đoạn phát triển mới của doanh nghiệp để doanh nghiệp
tiến xa hơn trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Thế nhưng Quản trị là gì? Quản
trị đóng vai trị như thể nào trong quá trình phát triển của doanh nghiệp? Quản trị bao
hàm những nội dung cụ thể nào? Quản trị doanh nghiệp nên hoạt động theo triết lý

nào? Và để thành công trong quản trị một doanh nghiệp, doanh nghiệp đó cần phải
vượt qua những thách thức, khó khăn nào? Tất cả những câu hỏi đó rất quan trọng
mà bất cứ doanh nghiệp nào mong muốn tồn tại và phát triển đều phải nghiên cứu và
tìm ra câu trả lời.
1. Khái niệm về Quản trị
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản trị, nhưng nhìn chung chúng ta có thể
hiểu theo các cách sau đây. Mary Parker Follett cho rằng “quản trị là nghệ thuật
đạt được mục đích thơng qua người khác”. Cịn Koontz và O’Donnell thì định
nghĩa: “Có lẽ khơng có lĩnh vực hoạt động nào của con người quan trọng hơn là
cơng việc quản lý, bởi vì mọi nhà quản trịở mọi cấp độ và trong mọi cơ sở đều
có một nhiệm vụ cơ bản là thiết kế và duy trì một mơi trường mà trong đó các cá
nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hồn thành các nhiệm vụ và các
mục tiêu đã định”. Trong khi đó James Stoner và Stephen Robbins trình bày như
sau “Quản trị là tiến trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt
động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của
tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra”. Theo Wikipedia, Quản trị là những
cách thức, những thủ đoạn để đưa một tổ chức với những nguồn lực hữu hạn đạt
đến một mục tiêu được đề ra của tổ chức đó.
2. Các mơ hình trong quản trị doanh nghiệp
Mơ hình quản trị kiểu mới, kiểu "con cua"
Quản lý doanh nghiệp nên áp dụng theo mơ hình nào để đạt hiệu quả cao
nhất luôn là vấn đề trăn trở của các doanh nghiệp. Theo truyền thống, nhiều
doanh nghiệp sử dụng mơ hình quản lý theo kiểu đầu tàu, tuy nhiên khi đầu tàu
bị hỏng hoặc hoạt động kém hiệu quả thì tịan bộ đi tàu sẽ bị trì trệ theo. Từ
đó, lợi thế so sánh của mơ hình kiểu mới "con cua" được đánh giá cao, đặc biệt
trong thời điểm hiện nay khi nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng gần như "thốt hiểm" sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Lợi thế  so sánh
Quản lý theo mơ hình đầu tàu, người lãnh đạo sẽ phải đóng vai trò đầu tàu,
vừa định hướng, vừa chạy mở đường, kéo theo tồn bộ "toa tàu" phía sau, vì thế

khơng thể chạy nhanh và cũng không đủ sức để tham gia cuộc đua đường dài.
Thêm vào đó là những bất cập khi lãnh đạo thiếu sáng suốt, đầu tàu sẽ chạy
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

2
Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp


lệch, dẫn đến toàn bộ các toa nhân viên sẽ bị "trật đường ray" và khi cần tìm
người thay thế cũng không ai đảm đương nổi. Từ bỏ  gánh nặng quản lý theo mơ
hình "đầu tàu" và phát huy ưu điểm của mơ hình “Con cua”, nhà quản lý sẽ tạo
được sức mạnh tổng thể trong doanhnghiệp.  
Quan sát sự di chuyển của con cua sẽ thấy, chúng di chuyển theo chiều
ngang, phối hợp tất cả 8 cẳng và 2 càng cùng lúc rất nhịp nhàng và đồng bộ.
Nếu không may mất đi 1 - 2 càng hoặc chân, sự di chuyển của chúng vẫn không
bị ảnh hưởng nhiều. Nếu  xem doanh nghiệp như một con cua, lãnh đạo là 2 cái
càng, các phịng ban và nhân viên là các chân thì hoạt động của doanh nghiệp
chắc chắn sẽ rất nhịp nhàng, đồng bộ và chắc chắn sẽ tạo hiệu quả cao.
Mơ hình quản lý định hướng quá trình
Gần đây, các chuyên gia tư vấn về quản trị thường nói đến cách tiếp cận quá
trình trong hệ thống quản lý doanh nghiệp.Vậy điểm lợicủa mơ hình quản lý này
là gì? Liệu nó có thể giúp doanh nghiệp tăng lợi thế cạnh tranh ngay lập tức so
với các mơ hình quản lý truyền thống hay khơng?
Ngun tắc tổ chức quản lý theo mơ hình truyền thống hay còn gọi cách tiếp
cận theo hàng dọc là chun mơn hóa dựa trên chức năng các phịng ban, bộ phận
trong cơng ty và tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực. Trong mơ hình này các
trưởng bộ phận kiểm sốt nắm rất chắc cơng việc của phịng, ban mình cũng như
các nhân viên hiểu rất sâu về cơng việc mình đảm trách. Và như vậy chúng ta sử
dụng tối ưu các nguồn lực của tổ chức. Còn nguyên tắc tổ chức mới, đang được
áp dụng rộng rãi tại Tây Âu và Bắc Mỹ hay còn gọi là cách tiếp cận theo hàng

ngang, là thơng qua các q trình kinh doanh và chú trọng vào giá trị cung cấp
cho khách hàng cũng như giảm tới mức thấp nhất thời gian sản xuất. Theo
nguyên tắc mới này, mọi hoạt động của cơng ty đều được xem như các q trình,
trong đó q trình kinh doanh là chủ đạo, cịn các q trình khác sẽ cung cấp sự
lãnh đạo cùng các nguồn lực cần thiết cho quá trình kinh doanh. Đây cũng chính
là điểm chung giữa nguyên tắc tổ chức mới và hệ thống quản lý chất lượng ISO
9001 phiên bản 2000: thơng qua các q trình và nhắm tới giá trị cao nhất cho
khách hàng, hay nói theo ngơn ngữ của ISO là mọi hoạt động trong công ty phải
luôn định hướng tới
Quản lý doanh nghiệp theo mơ hình chữ V
Theo Michael Eskew, Chủ tịch Hội đồng quản trị tập đoàn United Parcel
Service (UPS) Nhân viên phải là người có tinh thần vươn tới thành công và luôn
chiến đấu với các đối thủ khác trên thương trường bằng tốc độ công việc.
Michael Eskew cho rằng, ngày nay doanh nghiệp nào có tốc độ đáp ứng nhanh
chóng nhu cầu của khách hàng và bắt kịp xu thế của thời đại... sẽ dễ dàng tiếp
cận với thành công hơn so với các đối thủ khác.
Khẩu hiệu chính mà cơng ty này đưa ra là: "Đến với chúng tôi, mọi bưu
phẩm, bưu kiện sẽ được chuyển phát đi trong một thời gian ngắn nhất với sự an
toàn tuyệt đối. Thời gian vận chuyển và cước phí đã được chúng tơi đưa ra một
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

3
Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp


cách hợp lý". "Vì vậy, mọi hoạt động từ trên Tổng công ty xuống đến dưới từng
bộ phận phải được nhất quán một cách triệt để", Eskew nói. Và cách quản lý
kinh doanh phải theo Định dạng V như cách bay của một đàn chim.
Eskew cho rằng, đàn chim bay hình chữ V như một mũi tên, có một con
chim dẫn đầu, những con bay theo sau đều bay theo một trật tự sắp xếp nhất

định, khơng có sự hỗn loạn. Có như vậy đàn chim mới tạo ra được một tốc độ
nhanh nhất, con đằng trước không che tầm nhìn của con đằng sau. Nhưng con
bay sau vẫn ln quan sát được đường dẫn của con bay đầu đàn. "Quản lý kinh
doanh cũng phải theo công thức như vậy"- Michael Eskew nhận xét. Vì vậy,
mặc dù khơng điều hành công ty trực tiếp tại Hong Kong, nhưng Michael Eskew
vẫn nắm rõ mọi chi tiết hoạt động của nó.
Với cách làm việc như vậy, năm 2002, UPS đã thu về hơn 31,3 tỷ USD.
Eskew vẫn tin tưởng rằng, công ty sẽ còn tiến xa hơn nữa.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Những tư tưởng của Đức Khổng Tử
Nói đến nền văn hóa truyền thống Trung Quốc không thể không nói đến
một nhân vật đó là Khởng Tử. Khổng Tử cịn gọi là Khổng Phu Tử sinh 27
tháng 8 âm, 551, mất 479 TCN) là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi
tiếng người Trung Hoa, các bài giảng và triết lý của ơng có ảnh hưởng rộng lớn
đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa Đông Á. Người đời sau đã tôn
xưng ông là Vạn thế Sư biểu (Bậc thầy của muôn đời). Trong thập niên 70 của
thế kỷ trước, một học giả Mỹ đã xếp Khổng Tử ở ngôi vị thứ 5, chỉ sau chúa
Giê-xu, Thính-ca-mâu-ni...trong số 100 nhân vật có ảnh hưởng trong lịch sử.
Đối với người Trung Quốc mà nói sự ảnh hưởng của Khổng Tử có thể phải xếp
thứ nhất. Mỗi người ít nhiều đều chịu sự ảnh hưởng của học thuyết Khổng Tử.
Khổng Tử cho rằng quản lý là một hệ thống lớn, trong đó quan trọng nhất
là: hồ, trung dung, nhân, phú dân, đức trị, giáo hố, chính kỷ, lễ, chính danh,
nghĩa lợi, tín, cầu hiền, … Hạt nhân của hệ tư tưởng quản lý của Không Tử là
chữ “nhân”, lấy con người làm gốc hay gọi là “dân bản”, nó xuyên suốt từng bộ
phận trong tư tưởng quản lý của Khổng Tử.
Mục đích trực tiếp của dân bản là được lòng người. Trong khi tư tưởng
quản lý của Khổng Tử là tìm sự ổn định vì ổn định là cơ sở của mọi xã hội, mọi
tổ chức tiến lên và cải cách, khơng có sự ổn định, hài hồ thì mọi sự thay đổi
đều mất chỗ dựa thì tư tưởng quản lý của phương Tây là tạo ra sự thay đổi. Có
thể nói đó là tư tưởng dân bản của Khổng Tử và nhân bản của phương Tây.

Tư tưởng quản lý cổ đại của phương Tây là coi trọng vật chất, khinh
thường con người, thậm chí chỉ nhìn thấy vật chất mà khơng nhìn thấy con
người, con người phụ thuộc vào vật chất. Tư tưởng này có thể coi là “vật bản”.
Đến giữa thế kỷ 20, tư tưởng quản lý của phương Tây có sự thay đổi lớn, địa vị
con người ngày càng nổi bật, từ đó tư tưởng quản lý chuyển sang “nhân bản”.
“Dân bản” của Khổng Tử khác với “nhân bản” của phương Tây như thế nào?
“Dân” trong tư tưởng “dân bản” là quần thể nhân loại, lấy gia đình, quốc gia,
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

4
Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp


dân tộc, xã hội làm đơn vị chứ không phải con người cá thể. Đạo đức đối với cá
thể phải là nghĩa vụ đối với quần thể. Khổng Tử nói: “khắc kỷ phục lễ”, nghĩa
là, phải làm cho mình phù hợp với lễ, cụ thể hơn là” phi lễ vật thị, phi lễ vật
thính, phi lễ vật ngơn, phi lễ vật động” (khơng phù hợp với lễ thì khơng nhìn,
khơng nghe, khơng nói, khơng làm). Con người cá thể khơng phải là cá thể độc
lập có ý thức tự nguyện, khơng thể độc lập ngồi lợi ích, hành vi của quần thể.
Chủ nghĩa “nhân bản” của phương Tây lấy cá thể làm gốc, coi tự do cá nhân,
độc lập chủ quyền là đòi hỏi của nhân sinh, còn xã hội phục vụ cho cá thể. Khoa
học hành vi (behavior) là đại biểu cho chủ nghĩa “nhân bản” trong lĩnh vức quản
lý. Khoa học hành vi nghiên cứu chủ yếu là hành vi cá thể, nhu cầu và sự thoả
mãn của con người để điều động tính tích cực của cá thể.
Trong quản lý một tổ chức, sức mạnh tổng thể có được là nhờ: Nâng cao
năng lực tiềm ẩn của cá nhân từ đó phải chiêu mộ, bồi dưỡng nhân tài; Biến
năng lực tiềm ẩn thành hiện thực; Hướng vào mục tiêu chung của tổ chức – tư
tưởng quần thể.
Trong quản lý, Khổng Tử cũng coi trọng chữ “hoà” (hoà vi q). “Hồ”
khác với “đồng”. Khổng Tử nói: “Qn tử hồ mà khơng đồng, tiểu nhân đồng

mà khơng hồ”. Yến Anh (Tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu) giải thích với
Tề Cảnh Cơng : “Hồ như là canh vậy, nước, lửa, mắm, muối, mỡ, để hầm thịt
cá, rau quả. Người đầu bếp hoà chúng để lấy vị, bổ sung cái thiếu, vứt bỏ cái
thừa tạo ra cái cân bằng. Vua tơi cũng vậy, vua nói là được nhưng tơi có thể cho
là không được, tôi hiến cái được để loại cái khơng được là để chính trị cân bằng,
lịng dân n ổn. Nếu vua nói được, tơi cũng nói được, vua nói khơng được, tơi
cũng nói khơng được, như nước bổ sung cho nước, ai mà ăn được?. Nếu đàn sáo
chỉ có một loại, nghe sao được. Đồng khơng được cũng như vậy thơi”.
Theo đó Nhân hồ là sự hài hồ các mối quan hệ trong một tổ chức cũng
chính là “nhân hồ”. Mạnh Tử nói: ”Thiên thời khơng bằng địa lợi, địa lợi
khơng bằng nhân hồ”, như vậy nhân hồ là thứ q nhất trong ba ngơi: trời, đất,
người trong vũ trụ. Ngơ Khởi (Chiến quốc) nói: “khơng hồ trong nước, khơng
được xuất qn, khơng hồ trong qn, khơng được xuất trận, khơng hồ trong
trận, khơng được tiến đánh, khơng hồ trong đánh, khơng được quyết chiến”.
Trung dung cũng nằm trong tư tưởng về quản lý của Khổng Tử. Xét về
hành vi, ông chia con người thành ba loại: cấp tiến, chính trực và trung dung.
Người cấp tiến có hồi bão cao, tự tin, khơng cực đoan, lời nói và việc làm có
thể khơng thống nhất. Người chính trực có những việckhơng làm, giữ khí tiết,
khơng có lý tưởng hồi bão cao. Cả hai loại này đều khơng hồn mỹ. Trung
dung là thể hiện nhân cách lý tưởng của Khổng Tử. “Qúa như bất cập” thể hiện
quan điểm này. Khổng Tử nói: “chất thắng văn tắc dã, văn thắng chất tắc sử .
Văn chất bận bận nhiên hậu quân tử” (nếu cái bên trong thắng cái hình thức bên
ngồi thì trở thành thơ thiển, nếu cái hình thức bên ngồi thắng cái bên trong thì
trở thành giả dối, phù phiếm. Chỉ có bên ngồi và bên trong ở mức độ vừa phải
thì mới thành quân tử).
Trong triết lý của mình về quản lý, Khổng Tử cũng nhấn mạnh về Đức trị.
Khổng Tử nhấn mạnh đức trị, hạt nhân của đức trị là giáo hoá. Khổng Tử coi
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

5

Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp


trọng làm giàu, nhưng trước, trong và sau khi làm giàu thì phải giáo dục. Theo
Khổng Tử , nhân tính con người gồm “tính” và “tập”. “Tính” chỉ tư chất tự
nhiên, bản năng, trời cho. “Tập” là do môi trường sống mang lại. “Tính của con
người là gần nhau”, “Tập là xa nhau” (Tam tự kinh). Một số nhà quản lý phương
Tây coi “tính” của con người chủ yếu là tiêu cực (lý thuyết X), bởi vậy phải
dùng pháp chế để trị. Khổng Tử coi nhân tính của con người có cả thiện và ác,
bởi vậy phải vừa giáo dục, đức trị, vừa phải có pháp chế.
Nói về Chính kỷ, Khổng Tử cho rằng một người quản lý tốt trước hết phải
quản lý tốt bản thân. Hạt nhân của đức trị là giáo hoá, việc giáo hoá chủ yếu là
bằng việc làm của người quản lý. Khổng Tử nói: ”Thân đoan chính, khơng lệnh
mà làm; thân bất chính, tuy lệnh khơng theo”. Muốn vậy người quản lý phải
“chính kỷ” (sửa mình) cho ngay. “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”, câu nói này ai
cũng rõ. “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” là như vậy.
Ngồi ra vấn đề Nghĩa và lợi trong xây dựng, quản lý được Khổng Tử
xem ”Quân tử dụ vu nghĩa, tiểu nhân dụ vu lợi”, hàm ý quân tử phải thông hiểu
về nghĩa, định hướng phải là nghĩa trước lợi sau, còn đối với dân chúng thì phải
mang lại lợi cho họ trước và giáo dục sau. Từ đây suy ra: Người quản lý nhấn
mạnh xem nhẹ lợi riêng, coi trọng lợi chung, việc đầu tiên là phải sửa mình.
“quân tử dĩ nghĩa vi thượng”. “Phóng vu lợi nhi hành đa oan” (chun vì lợi ích
mà hành động thì gây nhiều ốn giận) . Lưu ý rằng Khổng Tử khơng phủ định
lợi ích riêng, coi trọng nghĩa trước chính là “khổ trước sướng sau”.
Trong quản lý, chữ Tín cũng được Khổng Tử xem trọng. Chữ tín của
Khổng Tử bao gồm sự tín nhiệm của dân chúng và sự trung thực của người quản
lý. “Dân vô tín bất lập”, “dân tín” theo Khổng Tử cịn đứng trên cả “thực túc”,
“binh cường”. Tín nhiệm là sự tin tưởng tới mức giám phó thác vận mênh của
họ cho nhà quản lý. Mất dân tâm thì mọi thứ mà nhà quản lý đưa ra đều vơ
nghĩa. Để có “dân tín” trước tiên phải có chữ “tín” của bản thân: coi trọng trung

tín, nói lời phải giữ lấy lời, quan hệ “ngôn-hành” rất quan trọng, “Tiên hành kỳ
ngôn” (làm trước khi nói), khơng được qn cam kết.
Về tuyển chọn nhân tài, Khổng Tử cho rằng, để quản lý tốt đất nước cần
có ba điều quyết định: Minh quân, hiền thần, dân tâm. Minh quân, hiền thần là
nhân tài. “Vi chính tại nhân” là điểm cốt lõi. Quan điểm của Khổng Tử khi chọn
người là :
Tài nan: chọn người tài rất khó. Xá tiểu qúa, cử hiền tài: khi cử hiền tài, bỏ
qua những lỗi nhỏ, nhân vơ thập tồn, nhiều tài lắm tật. Nhiệm nhân duy hiền:
Chọn người, chủ yều là người hiền tài, không kể thân sơ, xuất thân. Tri nhân:
Muốn cử được nhân tài, trước hết phải “tri nhân” (biết người). Khơng biết người
thì đối với với người có tài năng chính trực lại khơng gần gũi họ, với người
khơng có tài năng, chính trực lại khơng thể tránh xa. Dục tài: Muốn có nhân tài,
ngồi việc tuyển chọn, thu phục nhân tài có sẵn, cần có bồi dưỡng, đào tạo. Về
việc này, Khổng Tử là một nhà đào tạo vĩ đại. Sự học đối với Khổng Tử là việc
số một. Khổng Tử nói : Hiếu nhân bất hiếu học, kỳ tế dã ngu. Hiếu tri bất hiếu
học, kỳ tế dã đãng. Hiếu tín bất hiếu học, kỳ tế dã tặc. Hiếu trực bất hiếu học, kỳ
tế dã giảo. Hiếu dũng bất hiếu học, kỳ tế dã loạn. Hiếu cương bất hiếu học, kỳ tế
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

6
Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp


dã cuồng. ( Muốn trở thành nhân mà không muốn học, thì mối hại là bị người
khác lừa gạt. Muốn trở thành người trí mà khơng muốn học, thì mối hại là ln
bị sao lãng. Muốn chữ tín mà khơng muốn học, thì mối hại là khơng biết đúng
sai. Muốn chính trực mà khơng muốn học, thì mối hại là nói năng gay gắt. Muốn
chữ dũng mà khơng muốn học, thì mối hại là hay gây loạn. Muốn rắn rỏi
(cương) mà khơng muốn học, thì mối hại là trở thành cuồng) Khổng Tử cũng
nhắc nhở “Bất hoạn nhân chi bất dĩ tri, hoạn kỳ bất năng dã” ( không sợ người

khác khơng biết mình, chỉ sợ mình khơng có tài). Trong đào tạo, không chỉ đào
tạo chuyên môn, nghiệp vụ mà cả đạo đức, tư tưởng. Theo Khổng Tử đó là
“Văn, hạnh, trung, tín”. Học khơng chỉ ở trường mà ở mọi nơi “tam nhân hành
tất hữu ngã sư yên” (ba người cùng đi sẽ có người thày) “ Điều gì biết thì nói là
biết, điều gì khơng biết thì nói là khơng biết, thế mới gọi là biết “(Tri chi vi tri
chi, bất chi vi tri, thị tri dã)
Xét về Chính danh trong quản lý, Khổng tử cho rằng Danh phải thực
thực. Nghĩa là trong quản lý, trách nhiệm quyền hạn phải được xác định rõ ràng
cùng với những qui định, thủ tục rõ ràng nghĩa là phải có “danh” rõ ràng. Danh
chính thì ngơn mới thuận. Tuy nhiên cái danh và cái “thực” phải đi với nhau.
Người có danh phải đáp ứng được cái danh, muốn vậy phải có đủ những tố chất
nội tại để phát huy, đó là năng lực, phẩm chất phù hợp với cái danh. Danh (trách
nhiệm) phải kèm theo “quyền”. Quyền không đủ cũng khơng hồn thành cái
“thực”. Quyền q thừa sẽ nảy sinh hiện tượng lạm dụng quyền lực. Muốn làm
được cái “thực”, người quản lý phải “chính kỷ”. Ngồi ra, làm quản lý cũng
phải biết Tập quyền và giao quyền. Khổng Tử nói “vơ vi nhi trị” – ngồi rũ áo
khoanh tay mà thiên hạ trị bình. Người lãnh đạo tốt phải nắm cái cơ bản, phát
huy đầy đủ tác dụng của các tầng lớp, bộ phận chức năng. Như vậy “vô vi nhi
trị” là theo quan điểm trao quyền. Tất nhiên mọi sự thái quá đều bất cập. Tuỳ
theo qui mô, đặc điểm, tính chất của từng tổ chức mà có sự trao quyền thích
hợp, mới khiến cho lãnh đạo “vơ vi nhi trị”.
Triết lý của Khổng Tử trong quản lý cũng đề cao việc Thu thập thông tin.
Khổng Tử luôn quan tâm đến thu thập mọi tình hình những nơi ông sẽ đến: “Đa
văn, đa kiến”, “ Nghe nhiều, nhưng nếu có điều cịn hồ nghi thì tạm thời gác lại,
chỉ phán đốn những gì đã nắm được, mới ít sai lầm. Nhìn nhiều, song phải gác
lại những gì nghi vấn, chỉ phán đốn và làm những gì đã nắm vững mới ít phải
hối hận”. “ơn cố tri tân” là những câu nói của Khổng Tử. Tơn Vũ nói “Biết
người, biết mình, trăm trận trăm thắng” nói lên tầm quan trọng của thu thập
thông tin và “quyết định dựa trên sự kiện”.
Về Đạo mà nói, Khổng Tử coi Đạo là một tư tưởng trọng tâm trong triết

lý của mình về quản lý. Ông coi đạo quan trọng hơn cuộc sống thướng ngày
“Quân tử mưu đạo bất mưu thực”. Đạo có nghĩa rất rộng, xét theo quan điểm
quản lý, có thể hiểu là tư tưởng, chính sách, văn hố doanh nghiệp. “Đạo bất
đồng, bất tương vị mưu” “Chí vu đạo” cũng nói lên quan trọng của đạo. Tuy
nhiên đắc đạo khơng phải là mục đích, đắc đạo là để hành đạo. Đạo luôn luôn
phát triển qua các thời đại. Khổng Tử nói : “Cùng học nhưng có thể khơng cùng
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

7
Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp


đi đến đạo, cùng đi đến đạo nhưng có thể khơng cùng lập, cùng đi đến lập nhưng
có thể cùng quyền”.
2. Vận dụng trong quản lý doanh nghiệp
Hạt nhân của hệ tư tưởng quản lý của Không Tử là chữ “nhân”, lấy con
người làm gốc hay gọi là “dân bản”, nó xuyên suốt từng bộ phận trong tư tưởng
quản lý của Khổng Tử. Mục đích trực tiếp của dân bản là được lòng người.
Trong quản lý nhân sự, doanh nghiệp càn phải coi trọng tài năng, trí tuệ, giá trị
của người lao động. Xét cho cùng thì sức mạnh của doanh nghiệp là sức mạnh
của cả tập thể nhưng từng người lao động làm lên sức mạnh tập thể đó. Nếu
doanh nghiệp chỉ nhấn mạnh quá mức nghĩa vụ và cống hiến của người lao động
mà coi nhẹ tự do, quyền lợi, nhân cách của họ thì sẽ ảnh hưởng tới sự hình thành
và phát huy sức mạnh của doanh nghiệp đó. Trong quản lý doanh nghiệp, sức
mạnh tổng thể có được là nhờ nâng cao năng lực tiềm ẩn của cá nhân từ đó phải
chiêu mộ, bồi dưỡng nhân tài, biến năng lực tiềm ẩn thành hiện thực và hướng
vào mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Trong quản lý, Khổng Tử cũng coi trọng chữ “hoà” (hoà vi quý). Soi vào
quản trị doanh tại doanh nghiệp thì điều hịa các mối quan hệ trong doanh nghiệp
cũng chính là để giả iquyết chữ “hoà”. Các bộ phận trong một doanh nghiệp phải

hỗ trợ, hài hồ với nhau, khơng thể tiêu diệt nhau, tát cả phải vì mục tiêu, ké haochj
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp của mình. Với doanh nghiệp chữ “hồ” có
thể hiểu như sau. Nhân hồ là sự hài hoà giữa các mối quan hệ trong doanh nghiệp.
Người lao động khơng hịa hợp với nhau dẫn đến đấu đá nội bộ, mất đoàn kết để
cho đối thủ cạnh tranh lợi dụng tình thé vượt lên chiếm lĩnh thị trường. Doanh
nghiệp hài hồ với mơi trường, khách hàng, người cung cấp, đối thủ cạnh tranh,
cộng đồng, cơ quan chính quyền sở tại. Vì thế doanh nghiệp phải có phân cơng rõ
ràng, các chính sách, mục tiêu, thủ tục, qui định, quản lý phải phù hợp.
Trung dung cũng nằm trong tư tưởng về quản lý của Khổng Tử. Xét theo
quản lý hiện đại trung dung nghĩa là mọi quyết định đều phải đúng mức độ, không
thái quá, trong xây dựng hệ thống quản lý doanh nghiệp, nhiều văn bản quá sẽ gây
bệnh giấy tờ, hệ thống quản lý bị cồng kềnh, kém linh hoạt, ít văn bản q sẽ khơng
đủ để kiểm sốt chặt chẽ. Chỉ coi trọng khuyến khích vậtt chất hay khuyến khích
tinh thần cũng là bất cập. Hoàn toàn theo quản lý phương Tây, bỏ qua yếu tố dân
tộc, hay chỉ coi trọng bản sắc dân tộc, bỏ qua phương pháp quản lý phương Tây
cũng nên. Khen thưởng tràn lan hay chỉ chú trọng khiển trách cũng phải . Chỉ tiêu
kinh doanh, sản xuất quá cao hay thấp q đều khơng được.
Trong triết lý của mình về quản lý, Khổng Tử cũng nhấn mạnh về Đức trị.
Quản lý đức trị hồ hỗn được các mâu thuẫn, hình thành sức mạnh nội lực, làm
cho quan hệ cấp trên, cấp dưới thoát khỏi quan hệ mệnh lệnh, phục tùng. Đó
cũng chính là ngun tắc “sự lãnh đạo” và “sự tham gia của mọi người”, đó
cũng chính là xây dựng nền văn hố doanh nghiệp. Nền văn hố doanh nghiệp
địi hỏi xây dựng một giá trị chung cho các thành viên. Quan niệm về giá trị có
thống nhất thì hành động mới có thể thống nhất, khi đó đứng trước vấn đề phải
giải quyết, tổ chức không cần sử dụng nhiều kỷ luật, mệnh lệnh, động viên tại
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

8
Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp



từng cấp, tồn thể cơng nhân viên sẽ có thái độ giống nhau. Hạt nhân của văn
hố doanh nghiệp khơng phải là đạo đức mà là quan niệm giá trị được mọi
người trong tổ chức tiếp nhận.
Nói về Chính kỷ, Khổng Tử cho rằng một người quản lý tốt trước hết phải
quản lý tốt bản thân. Trong các doanh nghiệp, người lãnh đạo có vai trị hết sức
quan trọng, mà muốn lãnh đạo được bản thân người lãnh đạo phải có được
những phẩm chất, năng lực nhất định.
Ngồi ra vấn đề Nghĩa và lợi trong quản lý được Khổng Tử xem ”Quân tử
dụ vu nghĩa, tiểu nhân dụ vu lợi”, hàm ý quân tử phải thông hiểu về nghĩa, định
hướng phải là nghĩa trước lợi sau, còn đối với dân chúng thì phải mang lại lợi
cho họ trước và giáo dục sau. Nếu coi cầu lợi trong kinh doanh là “lấy”, “nghĩa”
là cho, nếu chỉ muốn “lấy mà không muốn “cho” thì khơng thể hoạt động lâu dài
được. Trong quan hệ với khách hàng, doanh nghiệp muốn “lấy” của khách hàng
thì phải “cho” trước bằng cách trao đổi thơng tin, xem xét nhu cầu, tăng cường
các dịch vụ quản lý, thoả mãn moi u cầu đã cơng bố hay cịn tiềm ẩn. Muốn
có sản phẩm ổn định, một yếu tố quan trọng là phải có đầu vào ổn định. Muốn
“lấy” đầu vào ổn định, phải xây dựng môi quan hệ với người cung ứng, khi cần
phải giúp đỡ họ về kỹ thuật, phương pháp, bao gồm cả phương pháp quản lý,
nghĩa là phải “cho”; ở đây, “nghĩa” lại đi trước “lợi”, “lợi” lại ở trong “nghĩa”,
nghĩa lợi thâm nhập lẫn nhau, hài hồ với nhau. Những hình thức kinh doanh
gian trá, đưa sản phẩm không phù hợp cho khách hàng hy vọng khách hàng
khơng phát hiên ra chính là chỉ thấy “lợi” mà quên “nghĩa”. Phải chăng có thể
thấy đó cũng chính là nguyên tắc “hướng vào khách hàng” và “xây dựng mối
quan hệ cùng có lợi với người cung ứng”
Trong quản lý, chữ Tín cũng được Khổng Tử xem trọng. Chữ tín của
Khổng Tử bao gồm sự tín nhiệm của dân chúng và sự trung thực của người quản
lý. Chữ tín trong kinh doanh ngày nay bao gồm cả tín trong chất lượng, hợp
đồng, giá cả, quảng cáo, tiền tệ, bao bì, đo lường, phục vụ. Nếu người tiê dùng
khơng cịn niềm tin họ sẽ chuyển sang dùng sản phảm, dịch vụ của doanh nghiệp

khác.
Về tuyển chọn nhân tài, Khổng Tử cho rằng, để quản lý tốt đất nước cần
có ba điều quyết định: Minh quân, hiền thần, dân tâm. Doanh nghiệp có nhân sự
tài giỏi sẽ đảm bảo kinh doanh thành công hơn nhưng doanh nghiệp phải đầu tư
để tìm kiếm nhân tài, trong q trình cơng tác cũng phải có kế hoạch cho người
lao động có cơ hội học hỏi tiến thân, bỏ qua những lỗi nhỏ, nhân vơ thập tồn,
nhiều tài thì lắm tật. Doanh nghiệp lựa chọn người nên chọn người có biểu hiện
tốt, khơng kể thân sơ, xuất thân mà lãng phí mát nguồn nhân lực quý. Doanh
nghiệp cũng có chế độ đnáh giá, khen thưởng kịp thời cho người lao động.
Xét về Chính danh trong quản lý, Khổng tử cho rằng Danh phải thực
thực. Trong quản lý, trách nhiệm quyền hạn phải được xác định rõ ràng cùng với
những qui định, thủ tục rõ ràng nghĩa là phải có “danh” rõ ràng. Danh chính thì
ngơn mới thuận. Tuy nhiên cái danh và cái “thực” phải đi với nhau. Quyền
khơng đủ cũng khơng hồn thành cái “thực”. Quyền quá thừa sẽ nảy sinh hiện
tượng lạm dụng quyền lực. Muốn làm được cái “thực”, người quản lý phải
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

9
Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp


“chính kỷ”. Trong thực tế hiện nay, một tổ chức chỉ có danh mà khơng có thực
cũng khơng thể tồn tại lâu. Quảng cáo quá nhiều để lấy danh mà khơng có chất
lượng có nghĩa là danh khơng đi với thực.
Triết lý của Khổng Tử trong quản lý cũng đề cao việc Thu thập thông tin.
Doanh nghiệp phải thu thập được nhiều thông tin về sản phẩm định phát triển
hiện có trên thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, nguồn cung chats liệu, đối thủ
cạnh tranh vì “biết người, biết ta trăm trận trăm thắng”.
Về Đạo mà nói, Khổng Tử coi Đạo là một tư tưởng trọng tâm trong triết
lý của mình về quản lý. Đạo là một tư tưởng trọng tâm của Khổng Tử, Ông coi

đạo quan trọng hơn cuộc sống thướng ngày “Quân tử mưu đạo bất mưu thực”.
Đạo có nghĩa rất rộng, xét theo quan điểm quản lý, có thể hiểu là tư tưởng, chính
sách, văn hố doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải có đạo đức trong kinh
doanh mới duy trì được vững bền.
Ta có thể lấy ví dụ về những nhà quản lý danh tiếng trên thế giới thành
công nhờ áp dụng triết lý Khổng Tử vào trong sự nghiệp kinh doanh của
mình.Tạp chí Fortune đã có loạt bài tìm hiểu những bí quyết sử dụng thời gian
nhằm thực hiện công việc một cách hiệu quả, đạt được sự nghiệp chính trị hay
kinh doanh lẫy lừng của một số nhà lãnh đạo chính trị và quản lý danh tiếng như
Thượng nghị sĩ John McCain, Chủ tịch Công ty Starbucks-Howard Schultz,
Tổng giám đốc Nissan và Renault-Carlos Ghosn, Tổng giám đốc Goldman
Sachs-Hank Paulson…
III. KẾT LUẬN
Các tư tưởng và mơ hình quản lý đều được nảy sinh trong một mơi trường
văn hố xác định nào đó, nó phản ánh dấu ấn của dân tộc và văn hoá của dân tộc
đó. Hiện nay tại Việt Nam, các doanh nghiệp đã và đang áp dụng các mơ hình
quản lý khác nhau trong đó phổ biến là các mơ hình quản lý của các nướ phát
triển như Châu Âu, Mỹ hay Nhật. Tuy nhiên, những tư duy, mơ hình đó khơng
hẳn đã phù hợp với văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy các doanh nghiệp Việt
Nam nên cân nhắc và tìm hiểu cho kỹ trước khi áp dụng hay làm theo một mơ
hình, tư tưởng quản lý phi truyền thống để áp dụng cho doanh nghiệp mình.
Điều này đã được chúng minh ở các nước phát triển hơn Việt Nam. Ví dụ Trung
Quốc, Nhật Bản sau Thế chiến thứ II đã cử người ra nước ngồi học tập, và sau
đó trở về nước xây dựng mơ hình quản lý phù hợp với hồn cảnh quốc gia mình.
Thế giới đang chứng kiến những bước phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc,
chắc chắn trong thành cơng đó khơng hẳn khơng có dấu ấn về tư duy, mơ hình
quản lý hiện đại bên cạnh tư duy về quản lý hết sức sâu của dân tộc mình mà
Khổng Tử là một Triết gia điển hình. Với các doanh nghiệp Việt Nam, nằm
trong khối văn hóa phương Đơng, chúng ta khơng nên chỉ tìm kiếm các mơ hình,
tư duy quản lý hiện đại từ các nước phát triển mà cũng nên tận dụng những tư

duy Á Đông về quản lý cho doanh nghiệp mình vì dẫu gì Việt Nam, con người
Việt Nam cũng là nhân tố của nền văn hóa Á Đơng.

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

10
Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách, báo:
- Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh khơng
thuộc chun ngành Triết học)
- Giáo trình Văn Hóa Doanh Nghiệp - Đại học Kinh tế quốc dân
- Tứ Thư - Luận Ngữ, NXB QĐND 2003
- Thời Báo Kinh Tế Sài Gịn
- Những mơ hình quản trị kinh điển - Tác giả: Paul Pietersma - Van Den
Berg - Marcel Van Assen Nhà xuất bản: Đại học kinh tế Quốc Dân
2. Website:
- Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc-CRI
/> />
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

11
Vận dụng tư tưởng của Đức Khổng Tử trong quản lý doanh nghiệp



×