Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận cao học, Phương hướng và giải pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động lập pháp, lập quy ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.67 KB, 16 trang )

Lời mở đầu
Điều 12, Hiến pháp 1992 quy định : “ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. “ – phản ánh tinh thần
trọng pháp, coi pháp luật là tối thượng, theo phương châm “ thượng tôn pháp
luật “ , để nghiêm trị mọi hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật .
25 năm qua, kể từ Đại hội VI ( 1986 ) với sự nỗ lực phấn đấu của mình, tổ
chức và hoạt động của Nhà nước được đổi mới một bước, đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo thế và lực đưa đất nước bước vào thời kỳ phát
triển. Tuy nhiên, trước u cầu của thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá, hội nhập quốc tế…, bộ máy Nhà nước nhất là bộ máy hành chính cịn bộc lộ
nhiều khuyết tật, trong đó hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, mâu thuẫn, chồng
chéo; kỷ cương, kỷ luật lỏng lẻo .
Để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đòi hỏi phải có một hệ thống
pháp luật hồn chỉnh. Do đó, cần phải tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong hoạt động lập pháp, lập quy. Pháp chế thường được hiểu là sự hiện diện của
pháp luật và yêu cầu về sự tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, chính xác.
Với nội dung ấy, pháp chế là một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước và xã hội. Hoạt động của Nhà nước rất đa dạng, phong
phú, trong đó lập pháp, lập quy là một dạng hoạt động quan trọng, cơ bản. Trước
tình hình thế giới và khu vực diễn biến hết sức phức tạp; trong nước nền kinh tế
trình độ thấp, thiên tai, dịch bệnh xảy ra ở nhiều nơi; nhu cầu đòi hỏi pháp luật
của nhân dân, mà theo Hồ Chí Minh : “ Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân
dân “, “ Trong thế giới khơng gì nhanh bằng sức mạnh đồn kết của tồn
dân”(1)(1) . Vì vậy, tăng cường pháp chế trong hoạt động lập pháp, lập quy là một
yêu cầu thực tế khách quan không chỉ ở phương diện lý luận mà ở cả phương
diện thực tiễn .
Xuất phát từ những đòi hỏi trên, từ thực trạng pháp chế về lập pháp, lập quy
ở nước ta, em xin chọn đề tài : “ Phương hướng và giải pháp tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động lập pháp, lập quy ở Việt Nam hiện nay . “

Nội dung


(1)(1)

Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb CTQH, Hà Nội, 1996, T12, tr.249

1


I . Cơ sở lý luận về pháp chế trong hoạt động lập pháp, lập quy :
1 . Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa :
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị
xã hội, trong đó tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên Nhà nước và mọi công dân đều phải
tôn trọng Hiến pháp, thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để,
chính xác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích của
tập thể, của cơng dân đều bị xử lý theo pháp luật .
2 . Khái niệm về lập pháp, lập quy :
 Lập pháp : theo từ điển Luật học, được hiểu theo nghĩa rộng và hẹp.
Nghĩa rộng : quyền của Quốc hội quy định những vấn đề chung, quan trọng
của cả nước bằng hình thức Hiến pháp, luật ( các luật, bộ luật, nghị quyết )
một trong ba mặt của quyền lực Nhà nước ( quyền : lập pháp, hành pháp, tư
pháp ); nghĩa hẹp : chế định ra pháp luật, sửa đổi luật.
 Lập quy : theo từ điển Luật học ( quyền lập quy ) là hoạt động của cơ
quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền (2)(2).
Lập pháp, lập quy là: hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật .
3 . Mối quan hệ giữa pháp chế và hoạt động lập pháp, lập quy :
Trong các mối quan hệ khác nhau, pháp chế có nội dung riêng, cụ thể, tạo
thành pháp chế trong lĩnh vực ấy. Còn trên lĩnh vực lập pháp, lập quy, pháp chế
có những nội dung đặc thù. Pháp chế trong hoạt động lập pháp, lập quy là một bộ
phận tạo thành nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, nó u cầu trong q trình hoạt

động cần nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật. Các chủ thể ban hành
luật đúng thẩm quyền, không chồng chéo, bảo đảm tính thống nhất trong hệ
thống pháp luật, bảo đảm tính khoa học, hợp lý, dân chủ và có tính khả thi cao .
4 . Khái niệm pháp chế trong hoạt động lập pháp, lập quy :
Pháp chế về họat động lập pháp, lập quy là một bộ phận độc lập tương
đối cấu thành pháp chế xã hội chủ nghĩa nói chung, trong đó, Nhà nước và các
(2)(2)

Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, HN-1999

2


chủ thể khác tham gia hoạt động lập pháp, lập quy đều thực hiện đúng quy
định của Hiến pháp, luật. Nhà nước là chủ thể quan trọng, quyết định trong
hoạt động lập pháp, lập quy. Tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức chính trị – xã hội và mọi công dân đều phải chấp hành triệt để, nghiêm
chỉnh, chính xác những văn bản quy phạm pháp luật; các quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, các tổ chức và mọi công dân được bảo vệ bằng pháp luật
và các cơ quan bảo vệ pháp luật .
II . Thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động lập pháp,
lập quy ở Việt Nam hiện nay :
1.Những thành tựu :
Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới đã giành nhiều thời gian và công sức
cho hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Vì vậy, gần 20 năm
qua, một số lượng lớn các văn bản pháp luật đã được ban hành. Trong đó, tỷ lệ
văn bản luật và pháp lệnh rất cao.
Theo thống kê, trong 5 năm của giai đoạn đầu ( từ 1987 đến 1991 ), Nhà
nước ta đã ban hành 909 văn bản pháp luật các loại .
( từ 2001 đến 6-2002 ), thời gian được coi là có bước tiến rõ rệt trong

hoạt động lập pháp, lập quy của Nhà nước ta, có 1180 văn bản pháp luật các
loại(3)(3).
Nhưng không chỉ tăng về số lượng mà điều quan trọng hơn chính là nội
dung của các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành đều thể chế hoá đúng
đường lối đổi mới của Đảng; phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân
( VD : Luật Phòng, chống tham nhũng… ); một hệ thống pháp luật phục vụ
cho u cầu đổi mới được hình thành, ngày càng hồn thiện và đang phát huy
tác dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng của thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam .
Nhìn từ góc độ pháp chế xã hội chủ nghĩa, hoạt động lập pháp, lập quy
trong thời gian qua có những ưu điểm sau :
Thứ nhất, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp. Lịch sử Quốc hội nước ta
(3)(3)

Bộ Tư pháp: Nguồn thống kê từ cơ sở dữ liệu Quốc gia về pháp luật

3


đã trải qua 61 năm. Trong khoảng thời gian ấy, Quốc hội đã ban hành 4 bản
Hiến pháp : 1946, 1959, 1980, 1992, và mọi văn bản pháp luật khác đều phù
hợp với Hiến pháp .
Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động lập pháp, lập quy. Là
làm sáng tỏ những vấn đề như thẩm quyền lập pháp, lập quy; ngôn ngữ dùng
trong lập pháp, lập quy; hiệu lực pháp lý văn bản... từ đó làm cho hoạt động
lập pháp, lập quy của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có chất lượng cao
hơn.
Thứ ba, bảo đảm tính thứ bậc hiệu lực pháp lý trong hoạt động lập pháp,
lập quy. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, Hiến pháp, bộ luật, luật, Nghị quyết là văn bản
có tính thứ bậc cao nhất. Tất cả các văn bản khác của các cơ quan Nhà nước
khi ban hành đều phải phù hợp với Hiến pháp, luật, không được trái, nếu trái
sẽ bị bãi bỏ. Ngoài chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tính thứ bậc
của văn bản còn được xem xét từ cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý văn bản
trái pháp luật .
Thứ tư, tuân thủ chặt chẽ quy trình lập pháp, lập quy( được quy định cụ
thể trong luật ) việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã có những tiến
bộ, hợp lý, dân chủ và có tính khả thi hơn .
2. Những hạn chế :
Bên cạnh những ưu điểm chủ yếu nêu trên, nhìn từ góc độ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, hoạt động lập pháp, lập quy cịn có những nhược điểm sau :
Thứ nhất, vẫn cịn tình trạng hoạt động lập pháp, lập quy khơng đúng
thẩm quyền, khơng có sự phân biệt rõ ràng và thống nhất thẩm quyền về nội
dung cũng như thẩm quyền về hình thức .
Thứ hai, cịn tình trạng chắp vá, mâu thuẫn chồng chéo, thiếu sự thống
nhất nội tại trong từng loại văn bản cũng như trong các văn bản. Dẫn đến việc
áp dụng pháp luật trong cuộc sống nhiều lúc trở nên lúng túng.
Thứ ba, thuật ngữ pháp lý dùng trong văn bản còn chưa phổ biến, chưa
thống nhất. Đây là một đòi hỏi hết sức quan trọng nhằm đảm bảo tính chính
xác, hiệu quả của văn bản cần soạn thảo .
4


Thứ tư, tồn tại nhiều kẻ hở pháp lý. Nhiều mảng quan hệ xã hội quan
trọng chưa được quy định, điều chỉnh kịp thời làm cho người dân phải tự xử –
tự quyết định một cách tự phát, gây hậu quả về mặt kinh tế, chính trị, văn hố
- xã hội và tâm lý .
Thứ năm, quy định của pháp luật, pháp lệnh phần lớn chỉ dừng lại ở
nguyên tắc chung, thiếu cụ thể, mang tính chất khung, buộc phải có nhiều quy

định bổ sung, chi tiết hố, hướng dẫn mới thi hành được, làm giảm hiệu lực
thực tế văn bản, làm cho văn bản chậm đi vào thực tế cuộc sống .
3. Nguyên nhân của những hạn chế :
a. Nguyên nhân khách quan :
Việt Nam đang ở trong giai đoạn của sự chuyển đổi cơ chế, chính sách;
tình hình kinh tế – xã hội phát triển rất nhanh, ngày càng mở rộng và đi vào
chiều sâu. Có thể nói, nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật
rất lớn, rất khẩn trương và bức xúc. Vì vậy, khi pháp luật không theo kịp các
quan hệ kinh tế, xã hội mới, sẽ dẫn tới sự bất cập của hệ thống pháp luật trước
yêu cầu thực tiễn .
Hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước ta về các lĩnh vực như : kinh
tế, văn hoá, xã hội, tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước... chưa đầy đủ,
đồng bộ, ổn định, có những lĩnh vực cịn thử nghiệm. Vì thế mà hoạt động lập
pháp, lập quy cũng diễn ra như vậy .
b . Nguyên nhân chủ quan :
Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ là những
cơ quan hành chính, có nhiệm vụ quản lý và trực tiếp điều hành mọi lĩnh vực
của đời sống kinh tế – xã hội của đất nước, nhưng lại được giao nhiệm vụ xây
dựng pháp luật rất nặng nề .
Nhà nước ta tuy đã có kế hoạch lập pháp tổng thể dài hạn. Kế hoạch làm
luật đã được các kỳ họp Quốc hội đề ra. Song cịn mang tính chất bị động,
chạy theo thực tiễn. Vì vậy, chương trình xây dựng pháp luật chưa sát với thực
tế hoặc có nhu cầu phát sinh ở từng thời điểm nhất định phải điều chỉnh
nhiều .
Trình độ quả lý và kỹ thuật lập pháp, lập quy của các nhà chuyên môn và
5


các thành viên của các cơ quan chuyên môn nghiệp vụ pháp lý tuy đã được
nâng lên trong những năm gần đây, nhưng chưa đồng đều, còn thiếu kinh

nghiệm trong hoạt động lập pháp, lập quy .
Khối lượng đồ sộ văn bản do các cơ quan khác nhau ban hành dẫn đến một
nguy cơ thực tế về sự trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định pháp
luật .
Công tác rà soát và hệ thống hoá văn bản pháp luật ở các cấp địa phương
còn nhiều bất cập. Cán bộ trực tiếp rà soát văn bản chưa phân biệt được văn
bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật... , chưa nhận thức
được ý nghĩa, mục đích của đợt tổng rà sốt .
Thiếu cụ thể về thẩm quyền, thủ tục, trình tự và trách nhiệm của các cơ
quan trong việc ban hành văn bản .
4 . Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động lập pháp,
lập quy là đòi hỏi cấp thiết trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay :
Bởi vì, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động lập pháp,
lập quy ở Việt Nam hiện nay là một tất yếu. Tính tất yếu đó bắt nguồn từ
những đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới hiện nay. Vì vậy, nắm vững các địi hỏi
ấy có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định đúng đắn phương hứơng và giải
pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa .
Thứ nhất, tăng cường pháp chế trong hoạt động lập pháp, lập quy là do
yêu cầu thể chế hoá đúng đường lối của Đảng trong điều kiện mới .
Thứ hai, tăng cường pháp chế trong hoạt động lập pháp, lập quy góp
phần phát huy dân chủ, giữ vững trật tự kỷ cương .
Thứ ba, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật trong nền kinh tế thị trường đòi
hỏi phải tăng cường pháp chế trong hoạt động lập pháp, lập quy .
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải tăng
cường pháp chế trong hoạt động lập pháp, lập quy .
III)

Phương hướng & giải pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong hoạt động lập pháp, lập quy ở Việt Nam hiện nay :


Xuất phát từ địi hỏi khách quan nói trên và từ thực trạng nước ta hiện nay,
có thể nói rằng : tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động lập
6


pháp, lập quy phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, khơng tách rời với
q trình xây dựng Nhà nước pháp quyền theo phương hướng sau :
1.Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam : là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật :
Văn kiện đại hội Đảng IX, khẳng định: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Để trở thành
Nhà nước pháp quyền, vấn đề cơ bản là phải có một hệ thống pháp luật hồn
chỉnh, có chất lượng cả về nội dung và hình thức .
Phương hướng:
Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Đảng cầm quyền, thông qua các văn kiện, nghị quyết,
chính sách của mình. Vì vậy, Nhà nước phải thể chế hoá đúng đường lối lãnh
đạo của Đảng thành pháp luật. Từ đó, thực hiện được mục tiêu của Đảng và
Nhà nước: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức,
cán bộ, cơng chức, mọi cơng dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp
luật .
Hai là, cải cách phương thức hoạt động của Nhà nước về lập pháp, lập
quy. Quốc hội cần nâng cao hiệu quả hoạt động trọng tâm là công tác lập
pháp. Muốn vậy :
Phải đổi mới quy trình ban hành luật bằng cách tăng cường pháp chế
trong lập pháp uỷ quyền; hoạt động giám sát xây dựng luật; tăng cường đại
biểu quốc hội chuyên trách…
Hoạt động của Chính phủ trong lĩnh vực phối hợp lập pháp, như: trình dự
án luật; ban hành nghị định, quyết định, đúng với Hiến pháp, luật, văn bản của
cơ quan cấp trên.

Tăng cường sự phối hợp của các Bộ trong lĩnh vực trình dự án luật, thẩm
tra luật, nghị định của Chính phủ… đặc biệt là Bộ Tư pháp.
Ba là, phát huy dân chủ vì nó là cái chìa khố vạn năng có thể giải
quyết mọi khó khăn, xây dựng đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực hoạt động lập
pháp, lập quy, nhất là đại biểu Quốc hội, huy động tối đa các chuyên gia tham
gia vào lĩnh vực này. Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, cùng với
7


nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .
Giải pháp :
Một là, thường xuyên rà soát và hệ thống hoá các văn bản quy phạm
pháp luật, loại bỏ những văn bản pháp luật khơng cịn hiệu lực hoặc chồng
chéo, trùng lặp. Vấn đề này cần đẩy mạnh theo hướng :
Kịp thời nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện các quy định về xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật. Đây là một cơng việc phức tạp, khó khăn vì khối
lượng văn bản rất lớn ( từ 1976 đến nay). Cho nên, cần quán triệt cho đội ngũ
cán bộ chun mơn khơng nên nóng vội và từng bước nâng cao năng lực, trình
độ, nhận thức cho họ. Để họ nhận thức được đây là một công việc thường
xuyên, liên tục.
Sắp xếp, phân loại hợp lý các chuyên đề, chuyên nghành từng lĩnh vực
nhằm tạo điều kiện cho cán bộ và nhân dân có điều kiện hơn, dễ dàng hơn
trong việc tiếp xúc, tìm hiểu, để thực thi pháp luật, áp dụng pháp luật, góp
phần đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa .
Hai là, tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật. Cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung theo hướng:
Đơn giản hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Đảm bảo thực hiện
cơ chế luật được thi hành ngay khi có hiệu lực .
Phân định rõ phạm vi trách nhiệm xem xét, cho ý kiến trong quy trình dự
thảo luật giữa các cơ quan: Quốc hội, Chính phủ, Ban soạn thảo và cơ quan, tổ

chức thẩm định, thẩm tra .
Quy định phương thức ban hành một luật sửa đổi nhiều đạo luật liên quan
để đảm bảo tính đồng bộ vể nội dung, gọn nhẹ, nhanh chóng và đỡ tốn kém .
Quy định chế độ đăng ký quốc gia đối với văn bản quy phạm pháp luật
do các Bộ, nghành và địa phương (cấp tỉnh) ban hành .
Cần quy định rõ trách nhiệm pháp lý của cơ quan Nhà nước .
Ba là, đổi mới quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cần chú
ý : tăng cường pháp chế trong hoạt động uỷ quyền lập pháp; đổi mới chương
trình xây dựng pháp luật.
Bốn là, tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội trong hoạt động lập
8


pháp, lập quy, là một q trình có tính lịch sử và phụ thuộc vào điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hố - xã hội .
Cần có chương trình, kế hoạch giám sát hàng năm của Quốc hội. Các kỳ
họp Quốc hội là hình thức thực hiện quyền giám sát .
Tăng thẩm quyền cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và
các Uỷ ban Quốc hội trong lĩnh vực giám sát .
Về lâu dài, cần thành lập hội đồng giám sát Hiến pháp với chức năng và
quyền hạn giống như Toà án hiến pháp ở một số nước .
Năm là, đổi mới tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và điều kiện làm việc của
đại biểu trong hoạt động lập pháp và hoạt động giám sát .
Các đại biểu Quốc hội cần đáp ứng những yêu cầu sau : đại biểu Quốc hội
phải thực sự là người đại diện cho ý chí của nhân dân, hiểu, phản ánh được
nguyện vọng chính đáng của nhân dân và đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng đó;
Phải am hiểu hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và thực tiễn cuộc sống.
Điều kiện làm việc : phải bảo đảm trụ sở tốt, phương tiện cơ động; tạo
điều kiện bố trí công việc sau khi họ hết nhiệm kỳ; cần chú ý phân biệt quyền
hạn đại biểu chuyên trách và không chuyên trách .

2. Hoạt động lập pháp, lập quy ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản :
Phương hướng :
Đảng cộng sản trong hệ thống trính trị nước ta vừa là một thành viên, vừa
là lực lượng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị. Hiến pháp, đạo luật tối cao
của nhà nước ta ghi nhận: “ Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ CHí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. “. Trong đó
có Đảng lãnh đạo hoạt động lập pháp, lập quy .
Đảng đưa ra các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo hoạt động lập pháp, lập quy.
Đảng xác định phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của hoạt động lập pháp, lập
quy. Đảng ta xác định thời gian trước mắt: “ Hồn thiện hệ thống pháp luật,
tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng
9


và hồn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp Hiến và hợp pháp trong các
hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền” (4)(4), “ Dần dần có đủ
các đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội theo đường lối, quan
điểm của Đảng, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa”(5)(5)
Giải pháp :
Một là, đổi mới tư duy pháp lý, đổi mới phong cách lãnh đạo đối với cơ
quan lập pháp, lập quy. Cần nghiên cứu pháp luật trong tổng thể các mối liên
hệ với các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ nhất, giữa xã hội và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ. Pháp luật là
phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đối với nước ta, pháp luật cần phải
đảm bảo kết hợp hài hoà ba lợi ích: lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích cá
nhân.
Thứ hai, mối quan hệ pháp luật và các quy phạm xã hội trong hoạt động xây

dựng pháp luật; cần tìm hiểu giá trị phù hợp cuộc sống đã chứa đựng trong tập
quán, đạo đức, tôn giáo để thể chế hoá thành pháp luật, như vậy pháp luật mới
dễ đi xâu vào cuộc sống .
Thứ ba, Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện nền lập pháp, lập quy mở. “ Hợp
tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước khơng phân biệt chế độ
chính trị – xã hội khác nhau trên cơ sở cùng tồn tại hồ bình”(6)(6).
Hai là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan hoạt động lập
pháp, lập quy: là một nguyên tắc. Văn kiện đại hội Đảng cũng đã chỉ rõ cần
nâng cao, đổi mới chất lượng công tác lập pháp và giám sát hoạt động lập
pháp của Quốc hội. Đối với cơ quan quản lý nhà nước, cần tăng cường cơng
tác lập quy nhằm cụ thể hố chính xác Hiến pháp, luật của Quốc hội để nhanh
chóng đưa luật vào cuộc sống .
Trong điều kiện hiện nay, phải đổi mới cả nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động lập pháp, lập quy :
Thứ nhất, Đảng đề ra yêu cầu “ Quy định cụ thể mối quan hệ về lề lối làm
Văn kiện Đại hội Đảng X
Đảng Cộng sản Việt Nam: nghị quyết hội nghị lần thứ VIII BCHTW Đảng khoá VII, HN1995, tr.27
(4)(4)
(5)(5)

(

ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, NXb Sự thật,
HN-1991, tr.18
(6)(6)

10


việc giữa Đảng với Nhà nước với toàn thể nhân dân ở các cấp, trước hết là ở

trung ương”(7)(7).
Nội dung cần thể chế hoá là các vấn đề liên quan đến chức năng lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước về hoạt động lập pháp, lập quy, hoạt động quản lý
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; nội dung, hình thức, phương pháp,
nguyên tắc phối hợp để làm chuẩn mực cho hành động .
Thứ hai, khắc phục phương thức lãnh đạo theo kiểu áp đặt, bao biện làm thay
cơ quan lập pháp, lập quy. Đảng ta là một Đảng cầm quyền, nhưng tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng không phải dựa vào uy quyền, mệnh lệnh mà ở trí tuệ,
năng lực của Đảng. Giữ vững vai trò là chiến sĩ tiên phong trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội .
3. Đất nước mở cửa, hội nhập quốc tế, đổi mới sự phối hợp, phân
công giữa các chủ thể hoạt động lập pháp, lập quy là một tất yếu :
Phương hướng :
Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương VIII, khố VII của Đảng, nhấn
mạnh: “ Đổi mới quy trình lập pháp và lập quy. Cải tiến sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ để đảm bảo tính kịp thời và
nâng cao chất lượng xây dựng luật. Tăng cường công tác lập quy của Chính
phủ nhằm cụ thể hố và triển khai luật được nhanh chóng, có hiệu quả .“
Giải pháp:
Một là, tổ chức biên soạn dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Trước
hết, cần phải xác định được nguyên tắc chỉ đạo: bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng trong hoạt động lập pháp, lập quy; quyền cao nhất của Quốc hội trong
việc quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh
tế - xã hội,…
Giải pháp trước mắt: là mở rộng việc nghiên cứu, soạn thảo các văn bản
bằng nhóm các chuyên gia chuyên ngành cũng như tăng cường trách nhiệm,
tính khách quan của cơ quan thẩm định dự thảo văn bản .
Giải pháp về lâu dài: Là Chính phủ sẽ giao trách nhiệm chủ trì đề án
soạn thảo cho một cơ quan chuyên trách .
(7)(7)


Văn kiện Đại hội Đảng VII

11


Trong quá trình biên soạn dự thảo, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa địi
hỏi Bộ tư pháp có trách nhiệm thẩm định các dự án luật, dự án pháp lệnh để Chính
phủ xem xét trước khi quyết định trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội .
Hai là, lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định. Cần đảm
bảo các điều kiện sau:
Các chủ thể có quyền sáng kiến lập pháp .
Các chủ thể có quyền đề nghị xây dựng nghị định .
Trình tự, thủ tục, lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, nghị
định.
Ba là, đổi mới công tác soạn thảo dự thảo luật, pháp lệnh, nghị định .
Thành lập ban soạn thảo, bảo đảm việc soạn thảo dự án luật, pháp lệnh,
dự thảo nghị định có chất lượng, nội dung các điều khoản của văn bản phải
được quy định cụ thể, rõ ràng để khi văn bản có hiệu lực thì được thi hành
ngay; xác định tên văn bản dự kiến bị bãi bỏ, thay thế .
Tổ chức nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự
án. Kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo để xử lý sớm các vấn đề liên quan đến
dự án. Tổ chức lấy ý kiến, cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan bằng hình thức
thích hợp tuỳ theo tính chất và nội dung của dự án.Để đảm bảo chất lượng của
dự án luật… Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa địi hỏi cơng bố các dự án
để lấy ý kiến của nhân dân. Đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động lập pháp
của nước ta .
Ban soạn thảo phải chuẩn bị tờ trình và tài liệu liên quan đến dự án, trong
đó phải nêu rõ sự cần thiết phải ban hành, mục đích, yêu cầu… của dự án .
Soạn thảo nghị định cần tuân theo các bước: tổng kết tình hình thi hành

pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan; tổ
chức nghiên cứu, xây dựng dự thảo; lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức cá nhân
hữu quan; tập hợp ý kiến và chỉnh lý dự thảo; chuẩn bị tờ trình cùng với dự
thảo và các tài liệu cần thiết khác để trình Chính phủ .
4.Nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ công chức tham
gia vào hoạt động lập pháp, lập quy :
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của một cuộc cách mạng.
12


Lênin chỉ rõ: “ Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh
tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ năng lực tổ chức và lãnh đạo
phong trào “(8)(8). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: “ Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc” và “ công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém”(9).
Phương hướng :
Xuất phát từ yêu cầu trên, lập pháp, lập quy là một hoạt động quan trọng
của nhà nước, hoàn thành tốt hay kém cũng do cán bộ quết định. Vì thế, ở
nước ta hiện nay, tăng cường đội ngũ cán bộ công chức tham gia trực tiếp vào
quá trình lập pháp, lập quy cần đặt trong “ chiến lược” xây dựng và phát triển
làm sao cán bộ công chức của Nhà nước pháp quyền không chỉ làm luật mà
cịn có những cán bộ quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật .
Giải pháp :
Một là, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và những kiến thức khác.
Trước hết, người cán bộ trong hoạt động lập pháp, lập quy phải có phẩm
chất chính trị vững vàng; phải có đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí
cơng vơ tư; có kiến thức, năng lực, trình độ tham gia quyết định những vấn đề
quan trọng; có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn đồn kết thống nhất, được nhân
dân tín nhiệm… Các yếu tố trên phải là một thể thống nhất, không được coi

nhẹ mặt nào .
Tiếp đến là đòi hỏi về mặt khoa học đối với cán bộ hoạt động lập pháp,
lập quy. Thứ nhất, khoa học pháp lý cung cấp những luận cứ để nghiên cứu
chính sách chiến lược và chương trình xây dựng pháp luật phù hợp với điều
kiện của đất nước; Thứ hai, khoa học lịch sử nói chung và lịch sử lập pháp, lập
quy nói riêng cung cấp cho cán bộ những sự kiện của thế giới, đất nước và
những kinh nghiệm lập pháp, lập quy; Thứ ba, bộ môn kỹ thuật văn bản đào
tạo ra những cán bộ biết trình bày nội dung, hình thức từng loại văn bản trong
hệ thống pháp luật Việt Nam; Thứ tư, phát triển môn luật học so sánh. Đây là
bộ môn cung cấp những cơ sở lý thuyết để tiến hành so sánh pháp luật .
Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, T4, tr.476
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, HN-1995, T5, tr.269,273

(8)(8)
(9)

13


Hai là, nâng cao chất lượng cán bộ trong hoạt động lập pháp, lập quy .
Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội phải là những
người tương đối “ tồn diện” , nghĩa là, phải có cả Đức và Tài .
Nâng cao chất lượng cán bộ lập quy. Đối với cán bộ trung ương như
Chính phủ, các Bộ cần có chỉ tiêu sau: có bằng cao cấp lý luận chính trị; hoặc
cử nhân chính trị; tốt nghiệp một bằng đại học chuyên ngành và biết kiến thức
pháp lý. Nếu là Vụ trưởng, Vụ phó phụ trách pháp chế các bộ phải có bằng
tiến sĩ luật học chuyên ngành. Cán bộ sở tư pháp cần có bằng đại học luật.
Giám đốc sở tư pháp cần có bằng tiến sĩ luật học; có bằng cao cấp lý luận
chính trị…
5 . Hoàn thiện Quốc hội để xứng đáng là cơ quan quyền lực cao nhất

của nhân dân, “ tiêu biểu cho ý chí thống nhất của dân tộc – một ý chí sắt
đá khơng gì lay chuyển nổi”
Phương hướng :
Trải qua 11 khoá, tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam gắn liền với
những sự kiện quan trọng, đánh dấu bước ngoặt của sự phát triển và đổi mới thể chế
ở nước ta. 60 năm một thời gian không dài so với Quốc hội trên thế giới. Nhìn lại
lịch sử, có thể thấy Quốc hội nước ta chia làm 2 thời kỳ rõ rệt. Thứ nhất, từ khi có
Quốc hội đến 30-4-1975 gọi là Quốc hội cứu quốc. Thứ hai, gọi là Quốc hội đổi
mới.
Cụ thể, từ những năm 90 trở lại đây,Quốc hội ngày càng khẳng định
được vai trò quan trọng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ln ln
gắn bó máu thịt với nhân dân. Phấn đấu làm theo lời dạy của Bác là: “ Phải ra
sức giữ vững độc lập của tổ quốc, ra sức mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào.
Phải luôn nhớ và thực hiện câu: Vì lợi nước, quên lợi nhà. Vì lợi chung, quên
lợi riêng. Phải làm cho xứng đáng với đồng bào, với tổ quốc. “ và “ không
phải đại diện cho một đảng phái nào, mà là đại biểu cho toàn thể quốc dân
Việt Nam.(10)(10)” Nhưng để xứng đáng là cơ quan quyền lực cao nhất của
nhân dân, phải không ngừng hồn thiên Quốc hội.
Văn phịng Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh với Quốc hội và HĐND, Nxb CTQG, HN1998, tr.18
(10)(10)

14


Giải pháp :
Một là, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Quốc hội với nhân dân.
Đây là điều kiện cơ bản bảo đảm Quốc hội là của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; đồng thời cũng là điều kiện tiên quyết để Quốc hội hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ của mình .

Hai là, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa để đảm bảo năng lực giám
sát tối cao của Quốc hội .( Đây là quyền hiển định, chỉ có Quốc hội mới được
giao quyền này và nó được thực hiện tại các kỳ họp Quốc hội. )
Ba là, đổi mới hoạt động của Quốc hội trong việc quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước.
Bốn là, cần trẻ hoá độ tuổi, cần nâng cao tri thức của đại biểu Quốc hội.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đất nước đổi mới, là thành viên của tổ
chức thương mại quốc tế WTO .

KẾT LUẬN

15


“ Nhà nước pháp quyền, nói một cách khái quát là hệ thống các tư
tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước và trong đời sống xã hội…Đó là Nhà nước mà tất cả các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức, kể cả các tổ chức Đảng đều phải hoạt động tuân
theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các
hoạt động của mình. Mọi cơng dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và
pháp luật, phải sống và làm việc theo pháp luật.”(11)(11)
Có nghĩa là: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân, là một trong những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn tới. Nhưng để thực hiện được nhiệm vụ đó cần phải có
một hệ thống pháp luật hồn chỉnh. Đây là công việc phải làm trong nhiều
năm với những bước đi vững chắc, gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế – xã
hội, củng cố quốc phòng an ninh, phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa và đổi
mới hệ thống chính trị. Yêu cầu xuyên suốt trong q trình hồn thiện hệ
thống pháp luật là bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động lập pháp, lập quy.


Trần Đức Lương, Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN…, Tạp chí Cộng sàn (số 12002), tr.67
(11)(11)

16



×