Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tiểu luận cao học, Thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.24 KB, 30 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển cách mạng việt nam, ở mỗi giai đoạn Đảng và nhà
nước ta luôn quan tâm xác định xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước pháp quyền.
Nhất là trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới hiện nay. Để xây dựng một
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân, là điều mà các
nhà lãnh đạo của chúng ta vô cùng trăn trở. Đảng và nhà nước phải phát huy quyền
làm chủ thực sự của nhân dân, phát huy dân chủ trong xây dựng bộ máy nhà nước.
thực hiện triệt để công tác dân vận,dân biết,dân bàn,dân làm,dân kiểm tra.xây dựng
từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
hàng đầu của đảng và nhà nước.Để nhà nước ta thực sự trong sạch, vững mạnh. Là
cơng cụ và là tiếng nói tiêu biểu cho ý chí của nhân dân “là của quí báu của nhân
dân”. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vấn đề xây dựng nhà nước
pháp quyền đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại với các nhà tư tưởng
nổi tiếng như kan tơ, hê ghen họ đã thấy được sự cần thiết để xây dựng nhà nước
pháp quyền. Nhân loại trải qua mỗi hình thái kinh tế xã hội ứng với nó là một loại
hình nhà nước thể hiện ý chí của một giai cấp tiến bộ. Chủ nghĩa mác lê nin soi
sáng cho lịch sử nhân loại, đã nhấn mạnh vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền là
vấn đề vô cùng cấp thiết cho mọi nhà nước. Các ông đã đứng trên lập trường của
giai cấp vô sản và hướng tới xây dựng chủ nghĩa cộng sản một chế độ xã hội tốt
đẹp. Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế xã hội_chủ nghĩa cộng
sản. Điều đó có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với việt nam, lê nin cho rằng đối
với các nước mà tư bản chủ nghĩa phát triển chưa đầy đủ hoặc bỏ qua tư bản chủ
nghĩa khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng hình thái kinh tế xã hội
chủ nghĩa cộng sản cần phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài lên chủ nghĩa xã
hội. Việt nam một nước thuộc địa nửa phong kiến qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
1


nghĩa của dân,do dân,vì dân tức là một nhà nước kiểu mới không nguyên nghĩa.


Một nền dân chủ thực sự cho quần chúng nhân dân trong khi trươc đó nước ta duy
trì tồn tại một nền quân chủ chuyên chế trong một thời gian dài chưa trải qua một
nền dân chủ nào trước đó. Xây dựng nhà nước pháp quyền là một khó khăn thách
thức khơng nhỏ đối với đảng và nhà nước ta, một giai đoạn xây dựng, cải biến,
hoàn thiện bộ máy nhà nước, giai đoạn quá độ chính trị gay go phức tạp. Từng
bước khắc phục và xóa bỏ những dấu vết của bộ máy cũ. Vấn đề xây dựng nhà
nước pháp quyền không chỉ là nguyện vọng, cũng không đơn thuần là một chủ
trương, một quyết sách với sự ra đời và đang đi dần vào cuộc sống của hiến pháp
năm 1992. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền việt nam đã là một văn bẳn pháp lý
có giá trị cao nhất. Để chi phối các q trình xã hội và có ý nghĩa như một điều
kiện tiên quyết. Thực hiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở việt nam từ năm 1996
đến nay. Đảng và nhà nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần vào
xây dựng cuộc sống xã hội phát triển. Song bên cạnh đó vẫn tồn tại những khó
khăn, khuyết điểm cần phải khắc phục phải tiếp tục sửa chữa và đổi mới cho phù
hợp với thực tiễn đặt ra. Nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng và nhà nước, phát
huy dân chủ trong nhân dân. Bởi vậy mà vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở
việt nam là một vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết nhất là trong điều kiện mới
việt nam đứng trước công cuộc đổi mới hiện nay .
2. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, kết cấu của bài Tiểu luận gồm có 3
chương :
Chương 1: Quan điểm của Mác – Lênin, của Đảng ta và của Hồ Chí Minh về vấn
đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
Chương 2 : Thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân từ năm 1986 đến nay.
2


Chương 3 : Phương hướng và giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân


3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ NIN ,CỦA ĐẢNG TA
VÀ CHỦ TỊCH HƠ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN

1. Quan điểm của Mác - Lê nin về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
1.1. Các khái niệm về nhà nước pháp quyền
1.1.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền ?
Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và theo
pháp luật phải trở thành nguyên tắc cơ bản nhằm tổ chức thực thi quyền lực nhà
nước tổ chức cuộc sống cộng đồng của tồn xã hội, điều hịa, phối hợp hành vi ứng
xử của các thành viên trong cộng đồng .
1.1.2. Khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ?
Mang toàn bộ đặc điểm của nhà nước pháp quyền. Trong đó nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa gắn với nền dân chủ thực sự, gắn với pháp luật đề cao pháp
luật. Pháp luật xã hội chủ nghĩa với tư cách là một đại lượng phổ biến, bình đẳng
đảm bảo tính cơng bằng xã hội. Mối quan hệ giữa quyền lực và con người với tư
cách là phương thức cai trị, quản lỳ xã hội. Xã hội ln khẳng định mối quan hệ
giữa con người và chính quyền khi đề cập tới nhà nước pháp quyền tức là nói về
mối quan hệ giữa nhà nước và cơng dân phải trên cơ sở pháp luật. Những giá trị
đảm bảo sự bình đẳng,dân chủ, việc xây dựng nhà nước pháp quyền dựa trên tiền
đề rất quan trọng là: Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, quyền lực
thuộc về nhân dân là yếu tố quan trọng trong nhà nước pháp quyền. Mọi thiết chế
và phương thức điều hành của nhà nước phải đặt trên nền tảng của pháp luật. Quan
hệ giữa nhà nước và công dân phải có những thiết chế nhằm đảm bảo cho nhân dân

thực hiện quyền làm chủ. Nguyên tắc tổ chức ba quyền lập pháp, hành pháp, tư
4


pháp là sản phẩm của nhà nước pháp quyền. Thiết chế nhà nước là những mặt khác
của vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mac - Lê nin về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Tư tưởng về nhà nước có một vị trí quan trọng trong hệ thống lý luận của V.I
Lênin. Bởi nó khơng thuần túy là những lý thuyết khoa học mà gắn bó chặt chẽ với
quan điểm chính trị. Nó cũng khơng đơn giản là những suy nghĩ tinh thần mà gắn
liền với nó là những hoạt động thực tiễn sinh động của ơng.Chính vì vậy tìm hiểu
những tư tưởng của Lênin về nhà nước sẽ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong q
trình xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội Việt Nam hiện nay. Lý
luận của Mac - Lênin đem lại vũ khí lý luận sắc bén cho cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân, giành lấy, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Lý luận khẳng
định rằng nhà nước là một hiện tượng lịch sử sự tồn tại và tiêu vong của nó là tùy
thuộc vào những điều kiện cụ thể. Lênin khẳng định “Nhà nước là một tổ chức
thông trị của một giai cấp” và “Bất cứ nhà nước nao cũng là một bộ máy của giai
cấp này trấn áp giai cấp khác”.
Về bản chất giai cấp của nhà nước, Lênin khẳng định: “nhà nước là sản
phẩm và biểu hiệu của những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được. Bất cứ
đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về khách quan, những mâu thuẫn giai cấp khơng
thể điều hịa được thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước
chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được”. Như vậy quan
điểm của Mác_Lênin về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bao gồm :
Thứ nhất, nhà nước là một hiện tượng lịch sử nó được hình thành từ những
xã hội xác định và bị quy định bởi xã hội đã sản sinh ra nó. Tất nhiên giữa các quốc
gia dân tộc có những điểm chung nhất định mang tính phổ biến. Vì vậy nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa với tính cách là nhà nước pháp quyền thì cũng mang

những đặc điểm chung ấy. Tuy vậy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải
5


phản ánh được những đặc điểm kinh tế, văn hóa xã hội của quốc gia ấy. Nó vừa có
những điểm tương đồng vừa có nét khác biệt với các quốc gia khác.
Thứ hai, dù quan niệm về nhà nước pháp quyền như là một nhà nước. Một
cách thức tổ chức quyền lực nhà nước hay một nhà nước mang những tính chất xác
định, thì đã làm nhà nước mang tính giai cấp - kể cả nhà nước pháp quyền đó là
một quy định lịch sử, việc khơng nhìn ra bản chất giai cấp của nhà nước pháp
quyền là một biểu hiện của nhận thức ấu trĩ mơ hồ hay cơ hội chính trị. Khơng thể
có nhà nước siêu giai cấp chúng ta thừa nhận có nhà nước pháp quyền tư sản thì có
nghĩa là nhà nước pháp quyền ấy xét về bản chất là công cụ quyền lực trong tay
giai cấp tư sản và trước hết phục vụ cho lợi ích cho giai cấp tư sản như vậy xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với việc chúng ta phải tính
tới những đặc trưng nhất định góp phần phân biệt cái gọi là nhà nước pháp quyền
với các mơ hình khác hay các cách thức tổ chức nhà nước khác, song chúng ta cần
nhớ rằng nhà nước ấy là nhà nước của nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và
phải phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Đó là đặc trưng bản chất của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, nền tảng và nội dung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là phải dân chủ. Thực ra nhà nước ấy cần phải được hiểu đó là một
phương thức thực hiện dân chủ một cách hữu hiệu trong lĩnh vực chính trị và nó
được hình thành cùng với sự trưởng thành của xã hội dân chủ. Nhà nước pháp
quyền tổ chức theo cách quyền lực của nhà nước bằng hệ thống chính trị trong đó
trước tiên và trực tiếp là bộ nhà nước
Như vậy có thể nói rằng những quan điểm trên đây về nhà nước pháp quyền
là hoàn toàn đúng đắn, khoa học, toàn diện và rất biện chứng. Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phải mang lại nền dân chủ thực sự cho nhân dân.
Là nhà nước của dân, do dân, vì dân, quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng nhà

nước pháp quyền đảm bảo tơt khâu luật hóa quyền lực của nhân dân, xây dựng và
ngày càng hoàn thiện hệ thống hiến pháp, pháp luật là một thước đo hình thành nhà
6


nước pháp quyền. Chúng ta càng trưởng thành bao nhiêu nghĩa là vai trò của các
thiết chế nhà nước trong hệ thống chính trị trong việc đảm bảo thực thi quyền lực
của nhân dân dươi hình thức luật càng lớn bấy nhiêu. Điều này có nghĩa là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam chính là nhà nước q độ của một thời
kì q độ và nó càng hồn thiện thì càng có nghĩa đang tiến nhanh trên con đường
đi đến tự tiêu vong đung theo lôgic mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác_Lênin từng
chỉ rõ khi chúng ta tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
1.3 Tiêu chí của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để từ đó định hướng
mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Thứ nhất, thừa nhận và tơn trọng tính tối cao của luật trước hết là hiến pháp
như là các đạo luật cơ bản có giá trị pháp lý cao nhất, hiến pháp, luật và những văn
bản dưới luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được xử lý
Thứ hai, quyền lực nhà nước phải được phân định theo ba chức năng cơ
bản:lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba chức năng đó được giao cho ba cơ quan
quyền lực khác nhau nhằm kiểm soát, kiềm chế lẫn nhau trong thực thi quyền lực ,
tránh sự tùy tiện và lạm quyền trên cơ sở độc lập cần có cơ chế phối hợp và giám
sát giữa ba hình thức quyền lực nhà nước. Cơ sở tồn tại của các cơ quan quyền lực
nhà nước phải là pháp luật, các mối quan hệ qua lại giữ các cơ quan quyền lực cũng
phải do pháp luật quy định.
Thứ ba, con người là mục tiêu và giá trị cao nhất do đó nhà nước đảm bảo
cho cơng dân sự an toàn pháp lý được hưởng các quyền và tự do cơ bản. Và bảo vệ
họ trong trường hợp các quyền và tự do cơ bản đó bị xâm phạm, kể cả từ phía các
cơ quan nhà nước và những người có chức vụ. Xây dựng một xã hội đồng trách
nhiệm giữ cơng dân và nhà nước, cơng dân có trách nhiệm với nhà nước thì nhà

nước có trách nhiệm với cơng dân. Trong xã hội cần có hệ thống tư pháp tiện lợi
nhất cho nhu cầu tố tụng, tranh tụng của nhân dân.
7


Thứ tư, trong quan hệ quốc tế của một nhà nước pháp quyền phải đảm bảo
thực hiện một cách tận tâm các cam kết và nghĩa vụ quản lý xuất phát từ các điều
ước quốc tế mà nhà nước đó ký kết hoặc công nhận, thừa nhận giá trị ưu tiên của
các cam kết và ngĩa vụ đó đối với pháp luật trong nước.
Với những tiêu chí hay đặc điểm cơ bản nêu trên nhà nước pháp quyền dĩ
nhiênn là một nhà nước dân chủ, một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Trong đó tất cả các quyền lực phải thậ sự thuộc về nhân dân, nhà nước phải
được xây dựng một cách hợp lý, khoa học để thực thi một cách có hiệu quả nguyên
lý này. Chính vì lẽ đó lịch sử nhân loại khơng thừa nhận các kiểu nhà nước chiếm
hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, cũng như chế độ độc tài phát xít, phân biệt chủng
tộc mà phải thay vào đó một chế độ xã hội tiến bộ là nhà nước pháp quyền.
1.4.

Những căn cứ để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
khách quan hợp lý với quy luật phát triển của lịch sử. Vì vậy việc xây dựng một nhà
nước ứng với nó là một tất yếu. nhà nước pháp quyền là một nhà nước tiến bộ.
Thứ hai, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật. Dựa trên cơ sở ý chí nguyện vọng của nhân dân đảm bảo
cơng bằng xã hội. Đây cũng là điểm tiến bộ hơn so với xã hội trước đó.
Thứ ba, Đảng và nhà nước quản lý xã hội có chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh soi sáng. Đảng lại là lực lượng tiên phong của giai cấp công
nhân, người duy nhất bảo vệ quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân.
Thứ tư, giai cấp công nhân phải xây dựng được bộ máy nhà nước đảm bảo
lợi ích của giai cấp mình, lợi ích của nhân dân lao động của tồn dân tộc của toàn
xã hội. Đồng thời hệ thống pháp luật được xây dựng thể hiện nguyện vọng đông
đảo của đại đa số quần chúng nhân dân.
8


Thứ năm, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân ở nước ta hiện nay là một quá trình hình thành và từng bước hoàn thiện bộ
máy. Đem lại nền dân chủ thực sự cho nhân dân làm sao để cho nhân dân tham gia
đông đảo vào bộ máy nhà nước.
2. Quan điểm của Đảng ta và Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
2.1. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân
Quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền bao gồm 5 luận
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân. Quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân tổ
chức quyền lực nhà nước, kiểm sốt quyền lực nhà nước. mỗi cơng dân phải có
quyền tham gia thực hiện quyền lực nhà nước, kiểm soát cách thức tổ chức quyền
lực nhà nước. Cũng như quyền tham gia vào việc ấn định những giới hạn của bộ
máy nhà nước.
Thứ hai, xây dựng một nhà nước dân chủ, kết hợp dân chủ đại diện với dân
chủ trực tiếp trong 50năm xây dựng nhà nước Chủ Tịch Hồ Chí Minh cùng các
đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước đã tiếp thu nền dân chủ Xô Viết, đánh giá nền
dân chủ phương Tây và phương Đông, chắt lọc các yếu tố hợp lý xử dụng trong các
điều kiện cụ thể về chính trị, kinh tế, dân trí và tâm lý của người Việt Nam. Nhà
nước ta trong những năm qua đã chấp nhận những nhân tố hợp lý của dân chủ đại

diện nhưng vẫn tìm tịi các hình thức về dân chủ trực tiếp phù hợp với Việt Nam.
Ngày 06/01/1946 lần đầu tiên nhân dân cả nước ta hân hoan đi bầu cử như một
ngày hội mặc dù điều kiện nước ta “nhân tâm phân tán”, thù trong giặc ngồi, nhân
dân bị nạn đói, nạn dốt hồnh hành. Mọi người đều có quyề ứng xử tự do theo đơn
vị dân cư đã chứng minh một chế độ bầu cử riêng có ở Việt Nam.
9


Thứ ba, Quản lý xã hội bằng pháp luật và để thực thi pháp luật nhà nước phải
hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước.
Hiến pháp và pháp luật địi hỏi nhà nước và tất cả các cơ quan đều phải tuân theo
và chấp hành một cách nghiêm túc. Muốn thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật
cần đặt ra chế độ trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước trong những trường hợp
bản thân những cơ quan đó vi phạm pháp luật.
Thứ tư, nhà nước tổ chức thống nhất quyền lực, phân công rõ rệt và phối hợp
chặt chẽ giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước thống nhất quyền lực
khơng phân lập mà có sự phân công hợp lý phối hợp chặt chẽ giữa các quyền đó.
Thứ năm, nhà nước thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong mọi hoạt động
lập pháp, hành pháp, tư pháp, nguyên tắc này được áp dụng phổ biến trong tất cả
các tổ chức thuộc hệ thống chính trị ở nước ta.
Thứ sáu, phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền phương thức nổi bật sự lãnh đạo là các cơ quan Đảng, các
Đảng viên phải thông qua nhà nước trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng lãnh đạo thông qua nhà nước mặt khác bằng
các tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc, Cơng Đồn, Đồn thanh niên, Hội
phụ nữ, Hội nông dân…
2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
Trước hết, nếu nhà nước pháp quyền là xuất phát từ yêu cầu dân chủ, thì ở
Hồ Chí Minh đó phải là một nền dân chủ triệt để. Hồ Chí Minh cũng kế thừa tư

tưởng triết học phương Tây và phương Đông về “đề cao nhân dân”, khẳng định
nguồn gốc sâu xa của quyền lực nhân dân. Trong quan hệ với nhân dân thì nhà
nước chỉ là cơ quan đại diện được nhân dân trao quyền, quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, nhân dân trao quyền lực nhà nước thông qua bầu cử theo ngun tắc “
phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Trong Hiến pháp 1946, đã khẳng
10


định chế độ trưng cầu dân ý rằng “ những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ
đưa ra nhân dân phán quyết” (Điều 32). Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
một nền dân chủ triệt để cả trong dân chủ đại diện cũng như dân chủ trực tiếp đều
phải phát huy dân chủ đến cao độ mới có thể tạo nên sức mạnh to lớn, bền vững
cho nhà nước và cách mạng. Mặt khác, người thường nhấn mạnh: “ dân chủ ở đây
là dân chủ thực sự” và rằng “nước ta phải đi đến dân chủ thực sự” ( Hồ Chí Minh
tồn tập), hoặc “chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội để nâng cao
đời sống nhân dân”. Trong quá trình lãnh đạo và xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam
cũng có lúc Người nói đến chun chính nhưng chun chính ở đây phương tiện,
mà dân chủ mới là mục tiêu và động lực của chuyên chính nhằm xây dựng và phát
triển nền dân chủ. Người viết “ chế độ nào cũng có chun chính vấn đề là ai
chun chính với ai?...như cái hịm đựng của cải thì phải có khố, nhà phải có
cửa…dân chủ là của cải quý báu nhất của nhân dân, chun chính là cái khố, cái
cửa để đề phịng kẻ phá hoại…thế thì dân chủ cũng cần phải có chun chính để
giữ dân chủ”.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là một nhà nước hợp Hiến, hợp pháp. Chính vì
vậy mà chỉ một ngày sau khi đọc “ Tuyên ngôn độc lập”, ngày 3/9/1945 trong
phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Người đã nêu ra 6 nhiệm vụ cấp bách
hơn cả trong đó có hai nhiệm vụ trực tiếp liên quan đến xây dựng nhà nước pháp
quyền là xác lập nền tảng dân chủ và pháp quyền cho chế độ nhà nước kiểu mới, đó
là tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp dân chủ để đảm bảo nhà nước ta là

nhà nước hợp Hiến, hợp pháp.
Thứ ba, nếu nhà nước đề cao pháp luật thì ở Hồ Chí Minh đó là một hệ thống
pháp luật dân chủ, nhân văn. Trong buổi đầu của chế độ mới, điều mà Người quan
tâm là làm rõ bản chất dân chủ của pháp luật kiểu mới. Người viết “ luật pháp của
chúng ta là ý chí của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, pháp luật của ta hiện
nay bảo vệ quyền lợi của hàng triệu lao động, pháp luật của ta là pháp luật thật sự
11


dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân
dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỉ luật mỗi người có tự do của riêng minh
nhưng phải tơn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của
mình quá mức mà phạm tới tự do của người khác là phạm pháp. Khơng thể có tự do
cho bọn Việt gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự do của nhân dân ta”. Như vậy
trong chế độ mới, pháp luật của ta là pháp luật thực sự dân chủ, Người cũng nói rõ
giới hạn của tự do, bên cạnh đề cao tính nghiêm minh của pháp luật. Người chủ
trương kết hợp chặt chẽ pháp luật với đao đức, với tình thương và sự khoan dung
vốn là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Thứ tư, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát triển con người. Như chúng ta đã biết C. Mác
và Ph. ĂngGhen khi đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới đã hướng tới phát triển tự
do tối đa và sự phát triển toàn diện của con người. Trong điều kiện mới Hồ Chí
Minh có cách tiếp cận vấn đề quyền con người mới mẻ và sâu sắc. Từ thực trạng
nhân dân bị áp bức bóc lột nặng nề của địa chủ phong kiến và thực dân đế quốc thì
vấn đề con người khơng chỉ là quyền cá nhân mà cịn là quyền bình đẳng dân tộc,
độc lập dân tộc, giải phóng con người. Theo Người, muốn “ mưu cầu hạnh phúc
cho loài người chỉ có theo con đường chủ nghĩa xã hội, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
cứu được nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn
gốc của sự tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết ấm no trên trái đất”. Khi đã giành
được độc lập, xây dựng nhà nước kiểu mới trách nhiệm của cơ quan nhà nước và

viên chức phải là những “ công bộc” của nhân dân, gánh vác công việc chung phục
vụ nhân dân. Có trách nhiệm bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công
dân. Như vậy mặc dù Hồ Chí Minh khơng dùng khái niệm nhà nước pháp quyền
nhưng tư tưởng của Người về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
rất phong phú, thể hiện rõ nét trong tư tưởng về dân chủ, nhà nước, pháp luật và
nhâ quyền. Đó là những tư tưởng mà Đảng ta vận dụng và phát huy trong quá trình

12


xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm chăm lo cho con người, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người.
3. Nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện đất nước
đang trong quá trình đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng thì nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay cần tập trung vào một số nội dung chủ
yếu sau:
Một là, khẳng định vai trò tối thượng của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật
Việt Nam. Mục tiêu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thực tế là yêu
cầu của các cơ quan nhà nước kể cả các cấp cao nhất đều phải tuân thủ Hiến pháp.
Với vị trí đặc biệt đó vai trị của tối thượng của Hiến pháp thể hiện trong các định
chế và phương thức ban hành, sửa đổi, bổ sung và bảo vệ Hiến pháp. Hiến pháp
1946 là bản Hiến pháp đầu tiên đặt nền móng cho pháp luật Việt Nam được tiếp tục
bổ sung và hoàn thiện từng bước ở Hiến pháp 1959, 1980, 1992 (và bản Hiến pháp
sửa đổi năm 2001 và 2003 trên cơ sở của Hiến pháp 1992).
Hai là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở khơng ngừng hồn
thiện hệ thống pháp luật, hướng vào phát huy các quyền dân chủ. Khi nghiên cứu
soạn thảo, ban hành một văn bản pháp luật cần phải phát huy quyền dân chủ của

nhân dân trong việc đóng góp ý kiến của mình với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Pháp luật đảm bảo cơng bằng xã hội, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công
dân theo Hiến pháp đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Tác động của pháp luật
đến nền kinh tế thị trường và ổn định xã hội phải đảm bảo tính hợp lý và hợp pháp.
Hệ thống pháp luật phải thể hiện sự nhất qn cơng bằng giữa lợi ích của nhà nước,
cơ quan, cá nhân và tổ chức trong xã hội. Một quy định pháp luật, một chế định
pháp luật không tôn trọng các quyền dân chủ, gây khó khăn phiền hà cho công dân
13


sẽ làm cho hệ thống pháp luật đi chệch con đường xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Ba là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải có một nền hành chính
mạnh, đặt mình dưới pháp luật. Các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương
đến Địa phương phải có sự thống nhất khơng chồng chéo giữa các chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Quản lý hành chính nhà nước phải trên cơ sở pháp
luật và để tiến hành thực thi pháp luật trong đời sống xã hội.
Bốn là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải có một nền tư pháp đảm
bảo cơng lý, thẩm phán xét sử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nền tư pháp nước
ta bao gồm nhiều cơ quan: Toà án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, trọng tài tư
pháp, các tổ chức hành chính bổ trợ tư pháp (như công chứng, giám định, thi hành
án, luật sư…). Nền tư pháp khách quan, công bằng, vô tư, tuân thủ pháp luật là nền
tư pháp bảo đảm cơng lý bình đẳng trong xét xử trên ngun tắc: mọi cơng dân đều
bình đẳng trước pháp luật.
Năm là, xây dựng một chế độ công vụ đề cao kỉ luật, nghĩa vụ và trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức. Một đội ngũ cán bộ công chức thành thạo
chuyên môn nghiệp vụ được bổ nhiệm liên tục, ổn định, ít thay đổi, được phân biệt
với các nhân vật chính trị là một yêu câu tối thiểu của một nền hành chính và một
nền tư pháp hiện đại. Đồng thời phải phân biệt công chức với những cán bộ làm
việc trong các đoàn thể, các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan Đảng vì đó là điều

kiện căn bản đặt ra chế độ vụ và đó chính là điều kiện để xây dựng nền hành chính,
nền tư pháp của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Sáu là, giáo dục pháp luật cho toàn dân để nâng cao tri thức, hiểu biết giá trị
của pháp luật và các quy định của pháp luật, từ đó hình thành niềm tin và xây dựng
văn hoá ứng xử pháp luật. Kết quả của giáo dục pháp luật là hình thành ý thức pháp
luật của con người, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
14


Bảy là, hình thành và nhanh chóng hồn thiện các tổ chức tư vấn pháp luật
cho nhân dân. Luật sư bào chữa và luật sư tư vấn như là cầu nối đưa pháp luật đến
từng người, từng doanh nghiệp làm cho họ hiểu pháp luật và hướng họ tới những
hành vi theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó hoạt động bào chữa trước
tồ của luật sư là hoạt động quan trọng trong việc thực hiện dân chủ và bảo vệ
quyền lợi chính đáng của cơng dân.
4. ý nghĩa
Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác_Lênin, của Đảng, của Hồ
Chí Minh và những nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nuớc ta giup Đảng ta va Nhà Nước có một cái nhìn tồn diện, khach quan, đúng
đắn và biện chứng trong qua trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Nó
chính là cương lĩnh là cơ sở, phương châm và là mục đích cuối cùng để Đảng ta,
nhân dân ta xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Những quan điểm của Đảng ta và Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là thể hiện sự thấm nhuần những quan điểm khách
quan, toàn diện, hệ thống, khoa học, biện chứng, lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin
về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời thể hiện sự vận dụng linh
hoạt, sáng tạo những quan điểm đó vào điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ

NGHĨA TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

1. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta từ năm
1986 đến nay
Trải qua hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước ( từ Đại hội VI
tháng 12-1986), Đảng và Nhà nước đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên mọi mặt của
đời sống xã hội: về nhận thức lý luận, hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp,
15


hoạt động tư pháp, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân. Bên
cạnh đó trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chúng ta
cũng gặp khơng ít những tồn tại, khuyết điểm địi hỏi chúng ta phải khắc phục. Đây
chính là tính hai mặt của một vấn đề, địi hỏi chúng ta khi xem xét, nghiên cứu vấn
đề đó cần phải có những đánh giá một cách đúng đắn nhất trên cơ sở khách quan,
khoa học, biện chứng, xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra. Trên cơ sở
đó, đề ra những phương hướng và những giải pháp khắc phục để xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong quá trình hội nhập
hiện nay.
1.1. Thành tựu
1.1.1.Về nhận thức lý luận
Quá trình đổi mới tư duy và hình thành quan điểm tư tưởng về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân gắn liền với q trình hoạch
định và đổi mới tồn diện đất nước và xuất phát từ những tiền đề kinh tế - chính trị
- xã hội, và những ảnh hưởng tác động của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận
thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình lâu dài
phức tạp. Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới cho đến nay, chúng ta đã có được
những bước tiến chắc chắn trong nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và xây dựng nó để đổi mới tổ chức, hoạt động của nhà nước ta theo hướng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Bắt đầu chỉ là
những nhận thức ngày càng rõ ràng hơn về vai trò của pháp luật trong quản lý xã
hội, xây dựng nhà nước…rồi cao hơn chính là việc thừa nhận khái niệm của nhà
nước pháp quyền với những thuật ngữ khác nhau “nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa”, “nhà nước pháp quyền Việt Nam”, “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân”, nhưng đều có chung bản chất. Tổng kết lý luận của
Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân ở nước ta đã nêu lên:
16


Thứ nhất, Đảng ta nhất quán chỉ rõ bản chất của nhà nước ta là nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực của nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Thứ hai, Đảng ta xác định rõ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước phải tuân thủ nguyên tắc: quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân cơng,
phối hợp, chặt chẽ giữa ba quyền lập pháp – hành pháp – tư pháp.
Thứ ba, bảo đảm quyền con người, quyền công dân nâng cao trách nhiệm
pháp luật giữa nhà nước và công dân. Mở rộng dân chủ đồng thời với tăng cường kỉ
cương pháp luật.
Thứ tư, Đảng ta khẳng định vai trò, vị trí của pháp luật trong quản lý nhà
nước, đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp trong đời sống xã hội.
Thứ năm, từng bước ý thức được đầy đủ trách nhiệm của nhà nước trong việc
thực hiện các cam kết quốc tế, trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Thứ sáu, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà
nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân.
1.1.2. Hoạt động lập pháp
Một là, quốc hội có những đổi mới quan trọng từ khâu bầu cử đại biểu quốc
hội đến hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và phuơng thức hoạt động. Để xứng đáng là
cơ quan quyền lực cao nhất do dân bầu ra như tăng cường bộ phận chuyên trách,

làm tốt hơn chức năng lập pháp, công tác giám sát và quyết định các vấn đề trọng
đại của đất nước. Quốc hội hoạt động thường xuyên hơn, ngày càng dân chủ hơn.
Hai là, về hoạt dộng lập pháp quốc hội đã tiếp tục sửa đổi bổ sung hiến pháp
và pháp luật (Bộ luật, Pháp lệnh…) liên quan đến việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, thể chế hố đường lối chính sách của
Đảng quy định hoá Hiến pháp nhằm tăqng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, quy
trình xây dựng pháp luật được cải tiến. Sự chuẩn bị phối hợp giữa các cơ quan soạn
thảo luật và cơ quan kiểm tra luật có bước tiến bộ rõ rệt. Việc lấy ý kiến nhân dân
17


về các dự án luật ngày càng được đề cao, cũng như việc xem xét các dự án luật tại
các kỳ họp Quốc hội luôn được cải tiến, chú ý tập trung nâng cao chất lượng văn
bản nên khi thông quan đã thuận lợi và nhanh hơn. Đã thông qua 58 Luật và 43
Pháp lệnh mới tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước, vận hành phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế.
Ba là, về hoạt động giám sát: Quốc hội đã quan tâm giám sát việc thực hiện
các giải pháp chống tham nhũng, quan liêu, xa rời quần chúng cậy quyền cậy thế và
tha hoá đạo đức của một số cán bộ đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà
nước. Nhờ hoạt động giám sát của Quốc hội đã đảm bảo cho Hiến pháp - Pháp luật
và các chính sách của Nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh cũng như khắc phục
những thiếu sót và sai lầm trong hoạt động của Nhà nước.
1.1.3. Hoạt động hành pháp: Đã tăng cương một bước tổ chức và hoạt động
của bộ máy Nhà nước, phân định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ quyền hạn trách
nhiệm của Chính phủ của các Bộ ngành và chính quyền các cấp, đồng thời thực
hiện sự phân cấp nhiều hơn. Các hoạt động Tư pháp và cải cách tư pháp có nhiều
chuyển biến tích cực. Chính phủ là cơ quan tổ chức, thi hành pháp luật, cơ quan
hành pháp cao nhất của Nhà nước, đã tạo ra được các cơ sở phúc lợi phục vụ lọi ích
cơng cộng, tất cả mọi cơng dân đều được hưởng bình đẳng các lợi ích, phúc lợi

chung của xã hội do Chính phủ thực hiện trên ngun tắc cơng bằng và bình đẳng.
Chính phủ đã thực hiện sự phân cấp, phân quyền, uỷ quyền cho từng cấp, bộ ngành.
Qua sắp xếp bộ máy Chính phủ từ 76 đầu mối giảm xuống còn 39 trong đó có 17
Bộ, 6 cơ quan ngang bộ, 13 cơ quan thuộc Chính phủ. Bộ máy cấp tỉnh từ trên dưới
40 đầu mối nay còn 20 đầu mối, cấp huyện từ trên 20 đầu mối nay còn trên 10 đầu
mối. Nhờ đó việc điều hành của Chính phủ ngày càng nhanh nhạy, kịp thời và hiệu
quả hơn. Đối với cải cách một bước nền hành chính thì Nhà nước ta đã đổi mới hệ
thống pháp luật hành chính, đơn giản hố mọi thủ tục pháp lý hành chính. Nhờ đó
mà các cấp chính quyền nhà nước đã từng bước xây dựng được thể chế của nền
18


hành chính dân chủ để thực hiện quyền lực của dân, thực sự hoạt động vì nhân dân,
đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
1.1.4. Hoạt động Tư pháp: theo hướng đảm bảo sự độc lập của Toà án, các
cấp toà án sơ thẩm, phúc thẩm, Giám đốc thẩm không phụ thuộc nhau về hành
chính. Các mối quan hệ giữa các cấp toà án đều là mối quan hệ tố tụng về phối hợp
đấu tranh phòng chống tội phạm, giải quyết các tranh chấp dân sự góp phần giữ
vững ổn định và trật tự an toàn xã hội. Mạng lưới tổ chức các cơ quan tư pháp như:
Luật sư công chức, giám định và tổ chức tư vấn pháp luật cho mọi công dân.
1.1.5. Hoạt động của Mặt trận tổ quốc và Đoàn thể nhân dân ngày càng thiết
thực. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được mở rộng và có hiệu quả hơn
nhất là xã, phường. Cơng tác dân tộc, tôn giáo, vận động người Việt Nam ở nước
ngồi có tiến bộ.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị xã hội có nhiều tiến bộ
trong việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Luôn coi trọng công tác
giáo dục vận động và tập hợp nhân dân tham gia thi đua đẩy mạnh san xuất, xố
đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần, giữ gìn trật tự trị an, chống
các biểu hiện tiêu cực, góp phần tích cực xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thời kỳ đổi mới. Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam và các đồn thể chính trị xã hội luôn là cầu nối giữa Đảng Nhà nước và
nhân dân, luôn đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản
lý nhà nước, quản lý xã hội. Mặt trận đã phát huy tốt truyền thống đồn kết tồn
dân, góp phần tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân, tham
gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Phát huy tốt các nguồn lực vật
chất, trí tuệ và tinh thần của các tầng lớp nhân dân trong hoạt động kinh tế xã hội
tạo niềm tin cho nhân dân, để nhân dân thấy được cơng lao của mình trong việc
thấy được cơng lao của mình trong việc xây dựng Nhà nước do mình lâp ra.

19


Mặt trận đã cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân
dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, nghiêm chỉnh thi hành
Hiến pháp và Pháp luật. Tham gia giám sát mọi hoạt động của các cơ quan chính
quyền nhà nước, đại biểu dân cư và cán bộ nhà nước trong viêc phối hợp với Chính
phủ, hoạt động của Mặt trận đã tạo ra sức mạnh và uy tín rất lớn trong việc động
viên mọi cơng dân đóng góp ý kiến đối với đường lối, quan điểm của Đảng cũng
như các văn bản pháp luật, các chính sách và giải pháp phát triển kinh tế xã hội của
Nhà nước. Mặt trận đã làm tốt cơng tác tun truyền, giải thích các chủ trương các
chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như tơn trọng quyền được thơng tin của dân,
góp phần nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực làm chủ của nhân dân trong việc
xây dưng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Nguyên nhân của những thành tựu:
- Đường lối lãnh đạo của Đảng là nhân tố quan trọng quyết định mọi thành
công của đất nước. Trong những năm qua Đảng ta đã khơng ngừng bổ sung và
hồn thiện lí luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân, đổi mới và hồn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước. Đảng lãnh đạo có hiệu quả hoạt động lập pháp và giám sát của Quốc Hội, đã
đổi mới hệ thống chính trị và quản lí nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của

toàn dân, đảm bảo cho nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang đúng bản chất
là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
- Sự quản lí thống nhất theo pháp luật của nhà nước, sự điều hành có hiệu quả
của Chính phủ và năng lực lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Các cấp chính
quyền ở cơ sở ngày một kiện tồn một cách có hệ thống. Việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh mới phải theo nguyên tắc “ tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Nhà nước đảm bảo quyền công dân, quyền con
người, nâng cao trách nhiệm pháp lí giữa nhà nước và công dân, đồng thời tăng cường
kỉ cương, kỉ luật trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân cơng và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp20



×