Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Giải pháp phát triển việc làm trong quá trình đô thị hóa của Thành phố Việt trì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.66 KB, 68 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Việt Trì là Thành phố thuộc tỉnh Phú Thọ, đây là thành phố mới đựơc
thành lập ngày 04 tháng 06 năm 1962 trên cơ sở khu công nghiệp Việt Trì.
Tuy nhiên, Thành phố Việt Trì đã có những vượt bậc đáng kể. Sau 42 năm
thành lập, năm 2004 Thành phố Việt Trì đã được công nhận là đô thị loại II
(theo quyết định số 180/2004/QĐ – TTg của thủ tướng Chính phủ ngày
14/10/2004), điều này chứng tỏ Thành phố Việt Trì có tốc độ đô thị hoá tương
đối cao. Nhưng vấn đề lao động và việc làm của thành phố Việt Trì còn nhiều
bất cập. Lao động chủ yếu là lao động nông, lâm nghiệp tỷ trọng lao động
trong nông, lâm nghiệp chiếm tỷ trọng cao hơn so với tiêu chuẩn của đô thị
loại II. Hơn nữa tỷ lệ thất nghiệp của Việt trì cũng đang ở mức báo động cao
hơn nhiều so với tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước. Đặc biệt là năm 2008
với ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam
nói riêng thì tỷ lệ thất nghiệp của Việt Trì tăng lên đáng kể. Vì vậy, tôi lựa
chọn đề tài “Giải pháp phát triển việc làm trong quá trình đô thị hóa của
Thành phố Việt trì” nhằm tìm hiểu thực trạng việc làm của thành phố và đưa
ra một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động giảm tỷ lệ thất nghiệp
cho Thành phố Việt Trì.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu trong phạm vi của Thành phố Việt Trì và
trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến 2008.
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

1
Luận văn tốt nghiệp
3. Vấn đề cần nghiên cứu
Các câu hỏi cần nghiên cứu:
3.1. Quá trình đô thị hoá tại Việt Trì có ảnh hưởng như thế nào đến việc
làm


• Dân số, lao động của Việt Trì thay đổi như thế nào?
• Bao nhiêu người được giải quyết việc làm, bao nhiêu người chưa có
việc, tỷ lệ thất nghiệp?
3.2 Cần giải quyết vấn đề việc làm như thế nào?
Để giải quyết vấn đề trên đề tài nghiên cứu gồm 4 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Đánh giá thực trạng phát triển việc làm của thành phố Việt Trì
Chương 3: Một số giải pháp phát triển việc làm cho Thành phố Việt Trì
Chương 4: Một số kiến nghị
4. Nguồn tài liệu
Các báo cáo của phòng lao động thương binh xã hội thành phố Việt Trì.
Niên giám thống kê thành phố Việt trì.
Giáo trình: Kinh tế đô thị, quản lý đô thị, Bách khoa toàn thư.
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

2
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.Những lý luận về lao động và nguồn lao động
1.1. Lao động
1.1.1. Khái niệm lao động
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của
cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất
lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước
(1)
.
Lao động đô thị chủ yếu lao động phi nông nghiệp, phần lớn lao động
đô thị và thu nhập của họ có nguồn gốc từ các ngành sản xuất công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ.
1.2.2. Vai trò của lao động đối với phát triển kinh tế

Quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động, sức lao
động là năng lực lao động của con người là toàn bộ thể lực và trí lực của con
người. Sức lao động là yếu tố tích cực nhất, hoạt động nhất trong quá trình lao
động. Nó phát động và đưa các tư liệu lao động vào hoạt động để tạo ra sản
phẩm. Lao động là một nguồn lực sản xuất chính và không thể thiếu được
trong các hoạt động kinh tế. Lao động được coi là một yếu tố đầu vào của quá
trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Nếu không có lao động đồng nghĩa với việc
sẽ không tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Như vậy, con người sẽ
không thể có những phát minh sáng chế khoa học, không tạo ra của cải vật
chất do vậy xã hội sẽ không thể tồn tại được. Ở khía cạnh khác thì lao động là
một bộ phận của dân số, là người hưởng thụ lợi ích của quá trình phát triển.
Do dó, có thể coi lao động là yếu tố khởi nguồn của sự sống, sự phát triển xã
1
PGS. TS Trần Xuân Cầu, PGS. TS Mai Quốc Chánh (2008), Kinh tế nguồn nhân lực
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

3
Luận văn tốt nghiệp
hội con người và là tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội vừa là đối tượng phục
vụ của các hoạt động kinh tế - xã hội. Vai trò của nguồn lao động ngày nay
được xem như một yếu tố quan trọng nhất. Tổ chức UNESCO đã nhấn mạnh:
“Con người đứng ở trung tâm của sự phát triển, là tác nhân và mục đích của
sự phát triển”
(2)
. Mọi quốc gia đều nhấn mạnh đến mục tiêu “ Phát triển vì lợi
ích của con người và coi con người là động lực của sự phát triển”. Như vậy,
lao động còn là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Đặc biệt đối với các nước đang phát triển thì càng khẳng định vai trò
của lao động đối với nền kinh tế. Vì ở các nước đang phát triển kinh tế chưa
phát triển mạnh, vốn ít, nguồn lao động lại dồi dào nên ở các nước đang phát

triển chủ yếu phát triển các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động.
Qua các phân tích trên khẳng định lao động có vai trò rất lớn trong tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Nó vừa là động lực vừa là tiền đề cho sự phát
triển.
1.2. Xu thế biến đổi nguồn lao động trong quá trình đô thị hoá
1.2.1. Khái niệm nguồn lao động
Nguồn lao động bao gồm số người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động. Theo định nghĩa này thì những người trong độ tuổi lao động theo
quy định của pháp luật (ngoại trừ những người già, tàn tật) đều thuộc nguồn
lao động. Trên thực tế nguồn lao động ngoài những người trong độ tuổi lao
động và có khả năng lao động còn có những người ngoài độ tuổi lao động
nhưng thực tế đang tham gia vào hoạt động trong các ngành kinh tế quốc dân.
Nguồn lao động đô thị có thể được hiểu theo hai phương diện:
2
UNESCO, Hiểu để hành động, 1977 tr 89
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

4
Luận văn tốt nghiệp
+) Thứ nhất: Nguồn lao động đô thị là một bộ phận của dân số đô thị bao gồm
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và những người
ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế có tham gia vào các ngành trong đô thị.
+) Quan điểm thứ hai cho rằng: Nguồn lao động đô thị là tất cả những người
có khả năng lao động tham gia hoặc có khả năng tham gia lao động trên địa
bàn đô thị. Theo cách hiểu này thì nguồn lao động đô thị bao gồm cả những
người ở địa phương khác di cư đến đô thị để tìm việc làm.
1.2.2. Xu thế biến đổi của nguồn lao động trong quá trình đô thị hóa
Xu hướng biến động của nguồn lao động gắn liến với quá trình đô thị
hoá, nguồn lao động thường biến động theo các xu hướng sau:
+) Số lượng nguồn lao động đô thị ngày càng tăng cao do xu hướng di

cư đến các vùng đô thị để tìm việc.
+) Chất lượng nguồn lao động thể hiện ở thể lực, trí lực, kỹ năng kiến
thức, trình độ chuyên môn cũng được nâng cao. Do đòi hỏi của quá trình đô
thị hóa đó là cần những lao động có trình độ chuyên môn cao, bắt buộc người
lao động phải nâng cao trình độ của mình để đáp ứng yêu cầu đó.
+) Cơ cấu nguồn lao động thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ nguồn lao
động trong ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ lệ nguồn lao động trong
ngành nông nghiệp. Hay nói cách khác, số lao động làm trong ngành công
nghiệp và dịch vụ tăng cao và số người lao trong ngành nông nghiệp có xu
hướng giảm dần.
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

5
Luận văn tốt nghiệp
II. Việc làm
2.1. Khái niệm về việc làm
Khái niệm việc làm là tiền đề cơ bản giúp chúng ta nhận dạng một cách
chính xác và thống nhất về mối quan hệ giữa lao động và việc làm. Có rất
nhiều quan điểm khác nhau về việc làm, cụ thể là:
Theo các nhà kinh tế học thì việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức
lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích
của con người.
Việc làm cũng được hiểu theo nghĩa là những hoạt động lao động được
trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật ( theo tổ chức lao động quốc tế ILO).
Còn theo bộ luật lao động của nước ta, khái niệm việc làm được xác
định là:” Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật
cấm đều được thừa nhận là việc làm”
Như vậy việc làm được thể hiện dưới dạng sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hay
bằng hiện vật cho công việc đó.

-Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm sản xuất
nông nghiệp trên đất do chính thành viên được quyền sử dụng hoặc hoạt động
kinh tế phi nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hay một
phần.
- Làm công việc cho gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình
thức tiền công, tiền lương cho công việc đó.
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

6
Luận văn tốt nghiệp
Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm khi hoạt động đó không
bị pháp luật cấm và hoạt động đó phải có ích tạo ra thu nhập cho người lao
động và các thành viên trong gia đình.
Số lượng việc làm trong nền kinh tế phản ánh cầu về lao động. Về lý
thuyết cầu lao động cho thấy số lượng lao động mà các tổ chức (đơn vị) kinh
tế sẵn sàng thuê (sử dụng) để tiến hành hoạt động kinh tế với mức tiền lương
nhất định.
2.2. Thất nghiệp
2.2.1. Thiếu việc làm
Thiếu việc làm hay còn gọi là thất nghiệp trá hình hay bán thất nghiệp
là những người vẫn có việc làm nhưng mức độ làm việc ít hơn mức họ mong
muốn. Thiếu việc làm được hiểu theo hai nghĩa: Hoặc là người lao động
không có đủ việc làm theo thời gian quy định trong tuần, trong tháng hoặc
thiếu việc làm cũng có thể là làm những công việc mà thu nhập quá thấp
không đủ để đảm bảo cho cuộc sống của họ.
2.2.2. Thất nghiệp
Theo khái niệm của tổ chức lao động Quốc tế, thất nghiệp (theo nghĩa
chung nhất) là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn
có việc làm nhưng không tìm được việc làm ở mức tiền công nhất định.
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, có

nhu cầu làm việc nhưng hiện tại không có việc làm và đang tích cực tìm việc
hoặc chờ đợi việc. Người lao động có thể đang trong độ tuổi lao động hoặc đã
hết tuổi lao động lao động nhưng còn khả năng làm việc họ trở thành thất
nghiệp khi bị mất việc làm và chưa tìm được việc làm do nhiều nguyên nhân.
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

7
Luận văn tốt nghiệp
Người lao động có thể mất việc khi nền kinh tế đô thị bị thu hẹp, cầu lao động
giảm hoặc khi các ngành áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới mà người lao động
không đáp ứng được, thất nghiệp còn do nguyên nhân cơ cấu đào tạo và nhu
cầu sử dụng lao động không phù hợp.
Theo quan điểm nêu trên, tình trạng thất nghiệp của nền kinh tế được
đánh giá bằng chỉ tiêu “Tỷ lệ thất nghiệp” nó được xác định bằng tỷ lệ phần
trăm giữa số người thất nghiệp trên lực lượng lao động trong độ tuổi lao động.
Thất ngiệp tự nhiên: Trong nền kinh tế quốc dân nói chung và trong đô
thị nói riêng luôn tồn tại một lượng thất nghiệp nhất định gọi là thất nghiệp tự
nhiên. Thất nghiệp tự nhiên là lượng thất nghiệp trong điều kiện thị trường lao
động chung của nền kinh tế đô thị đã được cân bằng. Vì vậy, các nhà quản lý
luôn tìm các giải pháp nhằm làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên chứ không
thể đưa về mức bằng không.
2.3. Các chính sách tác động đến việc làm
2.3.1. Chính sách phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là chính sách nhằm nâng cao trình độ giáo
dục cũng như chuyên môn về kỹ thuật cho người lao động. Chính sách phát
triển nguồn nhân lực bao gồm có chính sách phát triển giáo dục cơ bản và
chính sách phát triển đào tạo và dạy nghề. Chính sách phát triển giáo dục cơ
bản, nâng cao trình độ văn hóa cho người dân với mục tiêu phổ cập trung học
phổ thông, đây là tiền đề cho việc đào tạo nghề sau này. Ảnh hưởng của chính
sách phát triển nguồn nhân lực là tạo ra một đội ngũ lao động có trình độ, có

tay nghề cao phù hợp với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó,
giúp cho người lao động tiếp cận sâu hơn với việc làm, tạo cơ hội để tìm được
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

8
Luận văn tốt nghiệp
công việc tốt hơn phù hợp với năng lực của mình. Có thể nói đây là chính
sách quan trọng nhất ảnh hưởng lớn nhất đến công việc của người lao động.
2.3.2. Chính sách phát triển thị trường lao động
Thị trường lao động là nơi diễn ra các hoạt động mua bán lao động nói
đúng hơn là mua bán sức lao động, là nơi gặp nhau của cung và cầu lao động.
Vì vậy, chính sách phát triển thị trường lao động sẽ tác động đến cung và cầu
lao động trên thị trường lao động. Việc xây dựng các cơ chế chính sách, pháp
luật về lao động, phát triển mạnh các hệ thống dạy nghề nhằm nâng cao chất
lượng nguồn cung lao động. Trong chính sách phát thiển thị trường lao động
ban hành các chính sách nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước
cho đầu tư phát triển kinh doanh đặc biệt là những ngành sử dụng nhiều lao
động để nhằm kích thích cầu về lao động tạo ra một khối lượng lớn việc làm
đáp ứng nguồn cung lao động trên thị trường. Ngoài ra, trong chính sách phát
triển thị trường lao động còn có nội dung phát triển hệ thống các trung tâm
giới thiệu việc làm nhằm giúp cho người dân có cơ hội tiếp cận với việc làm
hơn, có cơ hội lựa chọn công việc phù hợp với khả năng của mình.
2.3.3. Chính sách về môi trường và điều kiện lao động
Trong quá trình lao động, môi trường và điều kiện làm việc có ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng việc làm và lựa chọn làm việc của người dân.
Nếu như trước kia người lao động không chú trọng đến chất lượng việc làm
mà chỉ quan tâm đến số lượng việc làm, thì giờ đây mọi người khi đi tìm việc
đều quan tâm đến môi trường và điều kiện làm việc của công việc đó. Xu
hướng của người lao động là tìm những công việc có môi trường và điều kiện
làm việc tốt đảm bảo an toàn cho người lao động. Vì vậy, chính sách về môi

trường và điều kiện lao động với mục đích cải thiện môi trường làm việc cũng
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

9
Luận văn tốt nghiệp
như nâng cao điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn cho người lao động. Chính
sách này sẽ tác động rất mạnh đến tâm lý làm việc cũng như chất lượng làm
việc của người lao động.
2.3.4. Chính sách việc làm
Chính sách việc làm là những chính sách về tạo việc làm và các chính
sách liên quan đến người lao động như: chính sách tiền lương, tiền thưởng.
Ngoài ra, còn có chính sách hỗ trợ cho người thất nghiệp, trợ cấp cho người
mất việc….Các chính sách về việc làm là động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu việc làm theo hướng tiến bộ, hiện đại hơn, đảm bảo chất lượng cuộc sống
cho người lao động tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành công việc được
giao.
III. Sự tác động của đô thị hóa đến việc làm
3.1. Đô thị và quá trình đô thị hoá
3.1.1. Khái niệm đô thị và đô thị hoá
3.1.1.1.Khái niệm đô thị
Có nhiều khái niện khác nhau về đô thị:
Đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và
hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp
(3)
Đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp,
sống và làm việc theo kiểu thành thị
(4)
.
3
Từ điển bách khoa toàn thư, NXB Hà Nội, 1995

4
Giáo trinh quy hoạch đô thị, ĐH Kiến trúc, Hà Nội
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

10
Luận văn tốt nghiệp
Còn theo thông tư số 31/TTLD, ngày 20/11/1990 của liên Bộ Xây dựng
và Ban tổ chức cán bộ của chính phủ: Đô thị là nơi tập trung dân cư với mật
độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là
trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, một tỉnh một huyện hay một
vùng trong tỉnh hay trong huyện.
*) Phân loại đô thị
Các căn cứ để phân loại đô thị
+) Vai trò và chức năng đô thị trong hệ thống đô thị
+) Quy mô dân số, mật độ dân cư, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp: Việc
xác định quy mô dân số và tỷ lệ phi nông nghiệp chỉ tiến hành trong giới hạn
nội thị và phải đảm bảo mức quy định tối thiểu.
+) Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng: Các chỉ tiêu chính về trình độ phát
triển hạ tầng kỹ thuật có thể tham khảo để phân loại đô thị
Khi đối chiếu các chỉ tiêu cụ thể của một đô thị với các chỉ tiêu phân loại
cần chú ý các trường hợp cá biệt:
a. Trường hợp chỉ có một số chỉ tiêu đạt đúng tiêu chuẩn như quy định,
thì việc xếp loại đô thị có thể căn cứ ưu tiên vào ba chỉ tiêu cơ bản là: Vai trò
chức năng, quy mô dân số và tỷ lệ lao động phi nông nghiệp của đô thị đó.
b. Trường hợp chỉ tiêu quy mô dân số và tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
hơi thấp so với chỉ tiêu quy định, thì việc xếp loại đô thị cụ thể căn cứ chủ yếu
vào chỉ tiêu chức năng của đô thị, nhưng phải xem xét triển vọng của đô thị
có điều kiện cần thiết để đạt được chỉ tiêu còn thấp không.
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47


11
Luận văn tốt nghiệp
Dựa vào các căn cứ để phân loại đô thị nêu trên thì Việt Nam được chia
thành 5 loại đô thị:
1. Đô thị loại I: Là đô thị rất lớn, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa -
xã hội, khoa học kỹ thuật, du lịch - dịch vụ, giao thông, công nghiệp,
giao dịch quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của cả nước. Dân
số: từ 1 triệu trở lên; có tỷ suất hàng hóa cao, tỷ lệ lao động phi nông
nghiệp từ 90% trở lên trong tổng số lao động; có cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và mạng lưới công trình công cộng được xây dựng động bộ; mật
độ dân cư bình quân 15000 người/km
2
trở lên.
2. Đô thị loại II: Là đô thị lớn, trung tâm kinh tế, văn hóa – xã hội, sản
xuất công nghiệp, du lịch – dịch vụ, giao thông, giao dịch quốc tế, có
vai trò thúc đẩy sự phát triển của một vùng lãnh thổ. Dân số: từ 35
vạn người đến dưới 1 triệu; sản xuất hàng hóa phát triển, tỷ lệ lao
động phi nông nghiệp từ 90% trong tổng số lao động; cơ sở hạ tầng
kỹ thuật và mạng lưới công trình công cộng được xây dựng nhiều mặt
tiến tới đồng bộ; mật độ dân cư trung bình 12000 người/km
2
trở lên.
3. Đô thị loại III: Là đô thị trung bình lớn, trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, là nơi sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập
trung, du lịch - dịch vụ, có vai trò thúc đẩy phát triển của một tỉnh
hoặc từng lĩnh vực đối với vùng lãnh thổ; dân số từ 10 vạn người đến
dưới 35 vạn người (vùng núi có thể thấp hơn); sản xuất hàng hóa
tương đối phát triển, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 80% trở lên
trong tổng số lao động; cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình

công cộng được xây dựng từng mặt; mật độ dân cư bình quân 10000
người/km
2
trở lên (vùng núi có thể thấp hơn).
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

12
Luận văn tốt nghiệp
4. Đô thị loại IV: Là đô thị trung bình nhỏ, trung tâm tổng hợp chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, hoặc trung tâm chuyên ngành sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, có vai trò thúc đẩy phát
triển của một tỉnh hay một vùng trong tỉnh; dân số từ 3 vạn người đến
dưới 10 vạn người (vùng núi có thể thấp hơn); là nơi sản xuất hàng
hóa, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 70% trở lên trong tổng số lao
động; đã và đang xây dựng hạ tầng kỹ thuật và các công trình công
cộng từng phần; mật độ dân cư 8000 người/km
2
trở lên (vùng núi có
thể thấp hơn).
5. Đô thị loại V: Là đô thị nhỏ, trung tâm tổng hợp chính trị, kinh tế - xã
hội, hoặc trung tâm chuyên ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp…, có
vai trò thúc đẩy phát triển của một huyện hay một vùng trong tỉnh hay
một vùng trong huyện; đân số từ 4000 người đến dưới 3 vạn người
(vùng núi có thể thấp hơn); tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 60% trở
lên trong tổng số lao động; bước đầu xây dựng một số công trình công
cộng và hạ tầng kỹ thuật; mật độ dân cư bình quân 6000 người/km
2
trở lên (vùng núi có thể thấp hơn).
3.1.1.2 Khái niệm đô thị hoá
Chúng ta rất hay bắt gặp cụm từ “Đô thị hoá” trong cuộc sống hằng

ngày nhưng để hiểu “Đô thị hoá” là gì thì không phải là đơn giản. Có rất
nhiều khái niệm khác nhau về đô thị hoá.
Hiểu một cách đơn giản thì đô thị hóa là một biểu hiện của phát triển
kinh tế - xã hội. Theo nghĩa hẹp, đô thị hoá được hiểu được hiểu là quá trình
di cư từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp với biểu hiện
bên ngoài là sự gia tăng tỷ lệ dân số đô thị, sự nâng cao về mức độ trang bị
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

13
Luận văn tốt nghiệp
yếu tố kỹ thuật đô thị. Hiểu theo một cách khái quát hơn, đô thị hóa là quá
trình biến chuyển kinh tế - xã hội – văn hóa và không gian lãnh thổ gắn liền
với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật của xã hội loài người trong đó diễn ra
sự phát triển nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự chuyển đổi
lối sống, sự mở rộng … Các nước có trình độ phát triển càng cao thì tỷ lệ đô
thị hoá càng cao.
Trên quan điểm một vùng: Đô thị hoá là quá trình hình thành, phát triển
các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Trên quan điểm kinh tế quốc dân: Đô thị hoá là quá trình biến đổi về sự
phân bố các yếu tố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải
đô thị thành đô thị.
Đô thị hoá là sự mở rộng của đô thị tính theo tỷ lệ phần trăm giữa số
dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay tổng diện tích của một
vùng, khu vực
(5)
. Nó cũng có thể tính theo tỷ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo
thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó còn được gọi là mức độ đô thị hoá,
nếu tính theo cách sau còn được gọi là tốc độ đô thị hoá.
Dù hiểu theo cách nào thì quá trình đô thị hoá đều gắn liền với quá
trình hoạt động và mở rộng các thành phố, quá trình đô thị hóa có ảnh hưởng

rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Đô thị hoá làm tăng
mật độ dân cư, tập trung sức người vào việc phát triển kinh tế vùng, làm thay
đổi nông thôn dần biến nông thôn thành thành thị. Từ đó, quá trình đô thị hoá
góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống người dân. Quá trình đô thị
hoá cũng được hiểu là quá trình cải biến cơ cấu kinh tế của từng khu vực theo
5
Từ điển bách khoa toàn thư, NXB Hà Nội, 1995
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

14
Luận văn tốt nghiệp
hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng
ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế.
3.1.2. Xu hướng phát triển của quá trình đô thị hoá
Biểu hiện của quá trình đô thị hoá là quá trình tập trung dân cư làm cho
quy mô dân số cũng như mật độ dân cư tăng cao; nâng cấp và xây dựng mới
cơ sở hạ tầng; đầu tư, phát triển kinh tế, thành lập các khu công nghiệp; làm
tăng vai trò trung tâm của đô thị đó… Đô thị hoá diễn ra ngày càng nhanh và
tiếp tục phát triển theo xu hướng sau:
Thứ nhất: Hình thành các trung tâm công nghiệp, trung tâm thương mại
và dịch vụ ở các đô thị lớn. tại các đô thị lớn đã có nhiều trung tâm công
nghiệp và thương mại, dịch vụ. việc hình thành các trung tâm mới sẽ nâng cao
tính cạnh tranh giữa các trung tâm này, nâng cao hoạt động của đô thị, tạo ra
tính chuyên môn cao trong sản xuất. Điều này thúc đẩy quá trình đô thị hoá
theo chiều sâu.
Thứ hai: Hình thành các trung tâm công nghiệp, trung tâm thương mại
và dịch vụ ở các vùng lân cận đặc biệt là các vùng ngoại ô. Điều này làm cho
giảm sự quá tải cho các trung tâm đô thị lớn, mở rộng quy mô ra các vùng
xung quanh.
Thứ ba: Đô thị hoá sẽ phát triển theo hướng nâng cao hạ tầng nông

thôn, chuyển một phần nông thôn thành thành thị. Từ đó sẽ nâng cao mức
sống của người dân ở các vùng nông thôn.
Thứ tư: Song song với việc phát triển đô thị theo chiều sâu là phát triển
đô thị theo chiều rộng bằng việc mở rộng phạm vi đô thị.
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

15
Luận văn tốt nghiệp
3.2. Đô thị hóa tác động đến việc làm và sự cần thiết phải phát triển việc
làm
3.2.1: Đô thị hóa tác động đến việc làm
Đô thị hoá là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Quá trình đô thị hoá diễn ra thường xuyên và tốc độ ngày càng nhanh ở nước
ta hiện nay. Nó có tác động rất lớn đến việc làm ở đô thị, có cả tác động tích
cực và tác động tiêu cực.
a) Tác động tích cực
Quá trình đô thị hoá luôn gắn liền với quá trình công nghiệp hoá và
hiện đại hoá của một quốc gia. Vì vậy, đi liền với quá trình đô thị hoá là sự
thành lập của các khu công nghiệp mới, xuất hiện các ngành sản xuất mới
đồng thời là sự mở rộng của các doanh nghiệp sẵn có. Từ đó, tạo thêm được
một khối lượng việc làm rất lớn giải quyết việc làm cho người lao động, giảm
tỷ lệ thất nghiệp trong đô thị. Hơn nữa, quá trình đô thị hoá làm cho đời sống
của người dân được nâng cao, chất lượng nguồn lao động cũng như trình độ
của người dân được nâng lên rõ rệt. Đây là điều kiện thuận lợi cho người lao
động tìm được những công việc phù hợp với trình độ cũng như công việc có
thu nhập như mong muốn.
b)Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tiêu cực thì quá trình đô thị hoá cũng có
những tác động xấu đến việc làm đô thị, đó là:
Quá trình đô thị hoá làm biến đổi nông thôn thành đô thị, lao động chủ

yếu là phi nông nghiệp, đòi hỏi lực lượng lao động phải có trình độ cao. Hơn
nữa, cơ cấu kinh tế cũng thay đổi tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

16
Luận văn tốt nghiệp
giảm tỷ trong ngành nông nghiệp, và trong thời gian ngắn số lao động nông
nghiệp trước kia không đáp ứng được yêu cầu đó nên tạm thời khó tìm được
việc làm.
Đô thị hoá làm quy mô dân số đô thị tăng cao, bùng nổ dân số cộng với
di dân từ nông thôn ra thành thị tạo ra sức ép rất lớn về việc làm cho đô thị.
Đồng thời đô thị lại là trung tâm kinh tế - văn hoá – xã hội, là nơi có cơ sở hạ
tầng tốt hơn cả do vậy các khu công nghiệp thương mại, ngân hàng, cơ quan
lãnh đạo… đều tập trung ở đô thị. Quá trinh đô thị hóa nhờ đó mà thu hút
được một lượng lớn lao động có trình độ văn hoá, tay nghề cao dẫn đến sự
cạnh tranh trong việc tìm kiếm việc làm và sức ép về việc làm càng lớn hơn.
Nói tóm lại, quá trình đô thị hoá tuy có những tác động tích cực nhưng
không tránh khỏi nhưng tác động tiêu cực, nó làm cho vấn đề việc làm ngày
càng căng thẳng.
3.2.2. Sự cần thiết phải phát triển việc làm
Trong các đô thị vấn đề về việc làm cần được quan tâm thường xuyên
bởi vì quá trình đô thị hoá diễn ra thường xuyên và với tốc độ ngày càng
nhanh. Như đã phân tích ở trên, quá trình đô thị hoá có ảnh hưởng rất lớn đến
việc làm, với tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên cao thêm vào đó là lượng dân di
cư khá lớn từ nông thôn đến đô thị làm cho nhu cầu về việc làm ngày càng
tăng. Trong khi nền kinh tế không đáp ứng đủ nhu cầu về việc làm cho người
lao động dẫn đến tình trạng thất nghiệp tăng nhanh.
Hơn nữa, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến
người lao động cũng như ảnh hưởng đến xã hội cụ thể:
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47


17
Luận văn tốt nghiệp
+) Thiếu việc làm, thất nghiệp làm giảm phát triển kinh tế, tỷ lệ thất
nghiệp cao đồng nghĩa với tổng sản phảm quốc nội (GDP) thấp - các nguồn
lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và
dịch vụ. Thất nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn, giảm tính hiệu quả của
sản xuất theo quy mô. Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm, hàng hóa và
dịch vụ không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản
phẩm và giá cả tụt giảm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu
tiêu dùng ít đi so với khi nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn.
+) Thiếu việc làm hay không có việc làm đồng nghĩa với việc tiêu tốn
thời gian vô nghĩa, không có thu nhập hoặc thu nhập rất thấp. Vì vậy, không
có khả năng chi trả, mua sắm vật dụng thiết yếu cũng như các hàng hóa tiêu
dùng. Yếu tố sau là vô cùng trầm trọng cho người gánh vác nghĩa vụ gia đình,
nợ nần, chi trả chữa bệnh. Những nghiên cứu cụ thể chỉ ra rằng, thất nghiệp là
nguyên nhân chính dẫn đến sự nghèo đói và thất nghiệp còn làm cho các tệ
nạn xã hội ngày càng gia tăng: rượu chè, cờ bạc, nghiện hút, mại dâm…gia
tăng thất nghiệp đi liền với gia tăng tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ tự tử, và suy giảm
chất lượng sức khỏe.
Một tình trạng khác của thất nghiệp là khi thiếu các nguồn tài chính và
phúc lợi xã hội, cá nhân buộc phải làm những công việc không phù hợp với
trình độ, năng lực. Như vậy, thất nghiệp gây ra tình trạng làm việc dưới khả
năng không khai thác hết năng lực của người lao động. Với ý nghĩa này, thì
trợ cấp thất nghiệp là cần thiết.
Vì vậy, việc xây dựng các chương trình các dự án phát triển việc làm,
tạo việc làm mới trong quá trình đô thị hoá là rất cần thiết nhằm đáp ứng nhu
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

18

Luận văn tốt nghiệp
cầu của người lao động và giảm tỷ lệ thiếu việc làm và thất nghiệp cũng như
là khắc phục những hậu quả của thất nghiệp gây ra.
IV. Một số kinh nghiệm phát triển việc làm cho người lao động
4.1. Chính sách lao động của Singapore
Lực lượng lao động có hiệu quả đóng vai trò chủ đạo. Trong thời kỳ
hậu độc lập của Singapore, tình trạng bất ổn của nhân công là rất phổ biến.
Tổng thống Singapore Yusof bin Ishak nhận định “Chúng ta không thể chu
cấp cho những hoạt động vượt mức và lãng phí của các công đoàn không có
trách nhiệm”. Vì vậy, Chính phủ đã thành lập một uỷ ban tiếp quản hoạt
động, Đại hội Công Đoàn quốc gia (NTUC), đại diện cho lợi ích của người
công nhân và phù hợp với tinh thần phát triển của PAP. Chính phủ cũng thành
lập Uỷ ban Lương quốc gia nhằm điều chỉnh mức lương. Số lượng thành viên
công đoàn đã giảm đi nhanh chóng, từ 79% lực lượng lao động xuống 25%
trong những năm 1990. Chính phủ coi người lao động nằm trong mối quan hệ
đối tác đặc biệt với giới kinh doanh và bản thân chính phủ.
Chính phủ đã sử dụng giấy phép lao động như một công cụ kinh tế vĩ
mô nhằm điều chỉnh tình trạng thất nghiệp (cũng như tiền lương và mức độ
lạm phát).
Singapore là khu vực hấp dẫn với những người lao động không có
trình độ. Quốc gia này vẫn thường diễn ra tình trạng chảy máu chất xám.
Những người có trình độ cao thường ra nước ngoài làm việc. Di cư đã trở
thành một vấn đề lớn vào đầu những năm 2000. Vì thế chính phủ phải thi
hành những chương trình nhằm khuyến khích việc sinh con cái và giữ chân
những người dân người dân ở Singapore.
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

19
Luận văn tốt nghiệp
4.2. Trung quốc

4.2.1 Chính sách tạo việc làm cho lao động
Chính phủ Trung Quốc dự báo sẽ có 15,3% trong số 130 triệu người
dân nông thôn ra thành thị kiếm sống (tức là khoảng 20 triệu người) bị mất
việc trong năm 2009 do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế. Thống kê
cho thấy, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong quý IV-2008 chỉ ở mức
6,8%, thấp nhất kể từ năm 90 của thế kỷ trước, mức cả năm là 9%. Nhiều nhà
máy phải đóng cửa do không có đơn đặt hàng. Công nhân bị xa thải hoặc phải
nghỉ không lương chờ việc. Theo kết quả điều tra ở 150 địa điểm của Trung
Quốc, nếu không triển khai ngay những biện pháp đối phó, có thể 20 triệu dân
nông thôn bị mất việc làm và phải quay trở về quê. Khi đó, sẽ có một cuộc di
cư ngược từ thành thị trở lại nông thôn lớn chưa từng có. Ðể đối phó tình hình
đó, Chính phủ Trung Quốc yêu cầu các bộ, ngành và địa phương tìm mọi cách
tạo thêm việc làm; chú trọng làm tốt công tác ổn định việc làm cho công
nhân, giải quyết việc làm cho sinh viên tốt nghiệp, tái tạo việc làm cho người
thất nghiệp, sắp xếp việc làm cho lao động nông dân vào thành phố làm việc
và quân nhân phục viên, chuyển ngành; yêu cầu các bộ, ngành có liên quan
tích cực áp dụng các biện pháp để giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp,
khuyến khích doanh nghiệp ổn định việc làm; đề xuất tiếp tục tăng cường hỗ
trợ về mặt chính sách như miễn giảm thuế,... khuyến khích người lao động
làm việc thông qua nhiều kênh.
Tiếp tục cụ thể hóa "Dự án hàng nghìn ngôi làng", Chính phủ Trung
Quốc lập kế hoạch xây dựng 250 nghìn cửa hàng bán lẻ ở khu vực nông thôn
từ nay đến năm 2010, nhằm tạo thêm ít nhất 775 nghìn việc làm cho đối
tượng lao động nông thôn đã bị mất việc làm tại thành phố. Theo Thứ trưởng
Thương mại Trung Quốc Khương Tăng Vĩ, riêng trong năm 2009, Bộ này sẽ
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

20
Luận văn tốt nghiệp
xây dựng 150 nghìn cửa hàng bán lẻ, đồng thời xúc tiến xây dựng các trung

tâm phân phối và các trạm bưu điện. Vài năm trước, kể từ khi Chính phủ
Trung Quốc khởi động "Dự án hàng nghìn ngôi làng", nhằm khuyến khích
xây dựng mạng lưới cửa hàng bán lẻ ở nông thôn, Bộ Thương mại đã xây
dựng được 260 nghìn cửa hàng, trung bình cứ mỗi cửa hàng cần ba nhân viên,
giải quyết được khoảng 780 nghìn việc làm. Những cửa hàng như vậy còn
giúp đưa các sản phẩm bảo đảm chất lượng đến với người dân nông thôn. Bên
cạnh kế hoạch xây dựng hệ thống cửa hàng bán lẻ, Bộ Thương mại Trung
Quốc đã đặt ra những tiêu chuẩn tài chính chặt chẽ cho hệ thống buôn bán
này. Theo đó, các công ty muốn tham gia hệ thống ở khu vực miền đông
tương đối phát triển phải có vốn đăng ký tối thiểu là hơn 420 nghìn USD, còn
ở miền trung và miền tây ít phát triển hơn là hơn 280 nghìn USD.
Ở một số địa phương, chính quyền các cấp đã đưa ra nhiều giải pháp cụ
thể nhằm bảo đảm việc làm cho người lao động. Tại tỉnh Quảng Ðông, nơi
chịu tác động nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng, chính quyền tỉnh đã hỗ trợ
các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp
tạo thêm nhiều việc làm. Chính quyền TP Ðông Quán lập Quỹ hỗ trợ doanh
nghiệp trị giá hai tỷ nhân dân tệ, khuyến khích và tài trợ các doanh nghiệp gia
công xuất khẩu chuyển đổi loại hình sản xuất, nâng cấp ngành nghề, hỗ trợ
vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp thương mại gia
công. Tại tỉnh An Huy ở miền trung nước này, nơi có số người thất nghiệp và
lao động nông dân trở về quê tăng mạnh, Ủy ban Kinh tế tỉnh An Huy đã lập
Văn phòng phụ trách điều phối và phục vụ tổng hợp, điều chuyển hơn 60 cán
bộ có năng lực vào làm việc tại các doanh nghiệp. Tại Tứ Xuyên, tỉnh có hơn
một triệu lao động nông dân thất nghiệp trở về quê, chính quyền mở lớp đào
tạo kỹ năng, khuyến khích người dân tự lập nghiệp... để tìm lối thoát cho số
lao động này. Chính quyền TP Tư Dương, tỉnh Tứ Xuyên chuyển dịch cơ cấu
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

21
Luận văn tốt nghiệp

việc làm ngay tại chỗ, giúp tạo ra hơn 20 nghìn việc làm mới cho lao động
nông dân trở về quê. Ðến nay, đã có gần 600 nghìn trong số hơn một triệu lao
động nông dân thất nghiệp trở về quê ở tỉnh Tứ Xuyên tìm lại được việc làm,
trong đó có một nửa là được lợi từ các biện pháp như đào tạo miễn phí của
Nhà nước. Những lớp đào tạo tay nghề, kỹ năng và các biện pháp khuyến
khích lập nghiệp nói trên đều rất phổ biến ở Trung Quốc. Tỉnh Sơn Ðông và
TP Thiên Tân thì đơn giản hóa thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, miễn
phí đăng ký kinh doanh cho các hộ nông dân, khuyến khích sinh viên tốt
nghiệp các trường đại học - cao đẳng đến lập nghiệp.

4.2.2. Chiến lược phát triển giáo dục
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều lấy giáo dục phổ thông làm nền
tảng và coi giáo dục Đại học là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của
mình, mỗi quốc gia có thể nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau trong chiến
lược phát triển giáo dục Đại học.
Trong bài phát biểu trước Quốc Hội mới đây, Thủ tướng Trung Quốc
Ôn Gia Bảo nhấn mạnh, giáo dục là hòn đá tảng trong sự nghiệp phát triển
quốc gia và công bằng giáo dục là sự công bằng xã hội quan trọng nhất trong
tình hình hiện nay. Trên tinh thần đó, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành
ngay việc miễn phí giáo dục phổ cập trên phạm vi toàn quốc, giúp hơn 150
triệu gia đình ở nông thôn có con em theo học Tiểu học và Trung học giảm
bớt gánh nặng về kinh tế, đồng thời, tiếp tục hỗ trợ sinh hoạt phí, tiền sách vở
đối với những gia đình nghèo. Để làm được việc này, không chỉ cần hoàn
thiện cơ chế bảo đảm kinh phí cho giáo dục phổ cập theo hướng ngày càng
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

22
Luận văn tốt nghiệp
nâng cao, mà còn cần có ngay một khoản chi cho giáo dục trong năm 2007

vào khoảng 223, 5 tỉ nhân dân tệ, tăng 39,5 tỉ so với năm 2006. Chính phủ
Trung Quốc nhận thấy, có giải quyết tốt vấn đề đó mới có thể bảo đảm cho
mọi trẻ em trong độ tuổi đi học đều có thể được tới trường.
Bên cạnh đó, Trung Quốc rất chú trọng phát triển sâu rộng, toàn diện
mạng lưới giáo dục và đào tạo nghề tới tất cả các làng, xã trong toàn quốc, đi
sâu cải cách cơ chế quản lý giáo dục hướng nghiệp trên cơ sở của sự hợp tác
giữa Nhà nước, nhà trường, xã hội và gia đình. Chính phủ Trung Quốc còn
chủ trương đẩy nhanh quá trình cải cách giáo dục, lấy chất lượng làm trung
tâm, nâng cao trình độ, chất lượng giáo dục ở bậc Cao đẳng, Đại học và
nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân tài cho đất nước, khuyến khích mô hình
phát triển giáo dục theo xu hướng xã hội hóa, nhằm phát huy mọi nguồn lực
xã hội cho công tác giáo dục.
4.3. Chính sách của Thái Lan
Trong hơn 3 thập kỷ, Thái Lan đã trải qua thời kỳ chuyển dịch cơ cấu
mạnh, tập trung thực hiện chính sách công nghiệp hóa nhanh theo mô hình
“tăng trưởng theo cực” với những hoạt động và thành tựu kinh tế tập trung
phần lớn ở thủ đô Băng Cốc và các tỉnh xung quanh. Vùng thủ đô Băng Cốc
chỉ chiếm 16,1% tổng dân số, nhưng chiếm tới 51,8 GDP của cả nước vào
năm 1991. Bình quân GDP trên đầu người của vùng này cao gấp 5,6 lần so
với vùng Đông Bắc là vùng nghèo nhất Thái Lan. Nhằm điều chỉnh sự mất
cân đối đó, từ những năm 90, Chính phủ Thái Lan đã có nhiều biện pháp như:
Thực hiện chính sách phát triển vùng để khuyến khích thiết lập các cơ sở
công nghiệp tại các vùng nghèo, nhằm giảm bớt sự chênh lệch về phát triển
giữa các vùng, mặt khác, vẫn duy trì sự quản lý tập trung, đặc biệt tập trung
đầu tư dịch vụ công cộng cho thủ đô Băng Cốc, thực hiện chính sách nông
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

23
Luận văn tốt nghiệp
nghiệp có lợi cho người tiêu dùng thành thị. Việc làm này đã làm cho thủ đô

Băng Cốc và các tỉnh lân cận vẫn tiếp tục là trung tâm hấp dẫn đầu tư. Ngoài
ra, chính sách xuất khẩu lao động của Thái Lan cũng phần nào giải quyết
được vấn đề lao động và thu nhập cho số lao động dư thừa, lao động không có
tay nghề, qua đó tăng thêm lợi ích cho nền kinh tế nói chung, góp phần vào
giải quyết sự mất cân đối về phát triển giữa các vùng. Với số lao động xuất
khẩu ra nước ngoài, trung bình hàng năm, số tiền chuyển qua ngân hàng xuất
khẩu lao động đã đạt khoảng 1 tỷ USD và có xu hướng tăng lên. Nhiều nghiên
cứu cho thấy, những người nghèo ở Thái Lan là người được hưởng nhiều nhất
từ nguồn chuyển khoản này. Chính phủ Thái Lan cũng đã giải quyết những
thiếu hụt về lao động có kỹ năng bằng biện pháp du nhập và khuyến khích lao
động có tay nghề cao vào Thái Lan. Chính sách này kết hợp với đầu tư cho
giáo dục, đào tạo, và đây cũng là một trong những biện pháp dài hạn, có tác
động đến thị trường lao động theo hướng tích cực, gián tiếp ảnh hưởng đến sự
giảm chênh lệch về phát triển giữa Băng cốc và các vùng còn lại.
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

24
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VIỆC LÀM CỦA
THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ
I. Tổng quan về Thành phố Việt Trì
1.1. Giới thiệu chung về Thành phố
Việt Trì là thành phố của Tỉnh Phú Thọ, cách Hà Nội 80km về hướng
Tây bắc, thành lập từ năm 1960 và là một trong số những Thành phố công
nghiệp đầu tiên của miền Bắc Việt Nam. Nằm ở ngã ba sông Hồng nên Thành
phố Việt Trì rất có nhiều tiềm năng phát triển công, nông, thương nghiệp và
dịch vụ. Nền công nghiệp Việt Trì có từ cách đây gần 50 năm nên có nhiều
kinh nghiệm. Các ngành công nghiệp phát triển gồm có: hóa chất, giấy, thực
phẩm, nhà máy gạch …
Việt Trì là kinh đô đầu tiên của nước Việt Nam với các triều đại Vua

Hùng cách đây 4000 năm, với dấu tích là khu di tích lịch sử Đền Hùng. Hàng
năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch nhiều người lại hành hương và hướng về
đất tổ với một lòng tôn kính nhất. Hiện nay, khu di tích lịch sử Đền Hùng
đang được đầu tư và tôn tạo, trở thành một vùng du lịch của thành phố Việt
Trì.
Thành phố việt trì đã được công nhận là đô thị loại II năm 2004 theo
quyết định số 180/2004/QĐ – TTg ngày 14/10/2004 của Thủ tướng Chính
phủ. Hiện nay, địa giới hành chính của Thành phố Việt Trì bao gồm 10
phường và 13 xã cụ thể: Bạch Hạc, Bến Gót, Chu Hoá, Dữu Lâu, Gia Cẩm,
Hùng Lô, Hy Cương, Kim Đức, Minh Nông, Minh Phương, Nông Trang,
Phượng Lâu, Sông Lô, Tân Dân, Thọ Sơn, Thanh Đình, Thanh Miếu, Thuỵ
Vân, Tiên Cát, Trưng Vương, Vân Cơ, Vân Phú.
Sinh viên: Hà thị Lý_ Đô thị 47

25

×