Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP AFTA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.33 KB, 20 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP AFTA.
3.1-/ CÁC QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG XUẤT KHẨU TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010.

3.1.1-/ Những quan điểm cơ bản đổi mới chính sách ngoại thương và đẩy
mạnh xuất khẩu ở Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế gioiứ
đang phát triển như vũ bão với tốc độ nhanh trên tất cả các lĩnh vực. Sự phát triển
của khoa học - công nghệ đã đẩy nhanh q trình quốc tế hố đời sống kinh tế thế
giới. Một quốc gia không thể tách rời khỏi sự vận động của nền kinh tế thế giới mà
nó ảnh hưởng và cũng đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của nền
kinh tế nước khác. Chính vì vậy, ngày nay hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất
yếu đối với sự phát triển đi lên của mỗi quốc gia. Hoà nhập với xu thế này, trong
công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất
coi trọng hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc định ra một cách nhanh chóng chiến
lược phát triển kinh tế, trong đó ngoại thương được đặc biệt coi trọng là một vấn
đề thời sự cấp bách đối với Việt Nam hiện nay. Chiến lược kinh tế của Việt Nam
hướng vào việc không ngừng mở rộng phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh
vực kinh tế, khoa học - kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động ngoại thương nhằm khai
thác tối đa có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ và vốn trên thê giới để
phát triển kinh tế trong nước thông qua con đường xuất nhập khẩu.
Việc xác lập một hệ thống quan điểm cơ bản về đổi mới và phát triển xuất
khẩu theo đường lối mở cửa kinh tế do các Đại hội VI,VII, VIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam đề ra là rất cần thiết, nhằm làm cơ sở thống nhất cho việc hoạch định
và thực thi thành cơng các mục tiêu, chính sách của hoạt động xuất khẩu.


Theo phương hướng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm
2010 đã khẳng định “phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hoá, đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất và đời sóng, hướng mạnh về
xuất khẩu”, “mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với tất cả các nước, các tổ chức


quốc tế, các công ty và các tư nhân nước ngoài, trên nguyên tắc giữ vững độc lập,
chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi” và phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước, chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu của Việt Nam đã được
thể chế hoá trong pháp luật của Nhà nước. Có thể tóm tắt những điểm cơ bản sau:
Đẩy mạnh xuất khẩu, bao gồm xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu dịch vụ, nhằm
đáp ứng nhu cầu về nhập khẩu, về ngoại tệ cần thiết cho nền kinh tế quốc dân.
Phấn đấu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, mở rộng quy mô xuất khẩu, đa
dạng hoá hàng hoá xuất khẩu, thu hẹp chênh lệc giữa xuất khẩu và nhập khẩu, góp
phần cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh tốn quốc tế.
Khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh thuộc các
thành phần kinh tế phát triển sản xuất các sản phẩm hướng về xuất khẩu.
Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, thị trường nhập khẩu phù hợp với cơ chế
thị trường trên cơ sở gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, mở rộng
giao lưu hàng hố giữa Việt Nam và nước ngồi.
Mở rộng quyền hoạt động xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, đi đôi với sự quản lý thống nhất của Nhà nước trong lĩnh vực ngoại
thương bằng luật pháp và địn bảy kinh tế.
Chính sách ngoại thương đã và đang hình thành ở nước ta hồn tồn xuất
pháp từ đường lối xây dựng và phát triển đất nước của Nhà nước Việt Nam, đồng
thời có tính đến xu hướng phát triển của thị trường thế giới, khả năng phát triển
quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam với các nước và tổ chức trên thế giới.


Trong những năm tới sự phát triển kinh tế ở nước ta cần hường về xuất khẩu,
coi đây là nội dung cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế. Theo kinh nghiệm của
nhiều nước đang phát triển đã đạt được sự phát triển kinh tế cao, đặc biệt là các
nước cơng nghiệp mới, thì việc lựa chọn chiến lược hường về xuất khẩu là một
trong những bí quyết quyết định sự thành công trong nhịp độ tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Để thực hiện vững chắc chiến lược “hướng về xuất khẩu” địi hỏi chúng ta

phải nhanh chóng cơ cấu lại nền kinh tế để hồ nhập và có sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Muốn đứng vững và thắng lợi trong cạnh tranh, cần phải biết khai
thác, phát huy tối đa và có hiệu quả các nguồn lực trong nước, phát huy lợi thế so
sánh của nước ta với nước khác.
Việc cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân được tiến hành trên cơ sở chuyển dần các
sản phẩm nguyên liệu thô sang tập trung sức phát triển nhanh chóng cơng nghiệp
chế biến để xuất khẩu. Trong tương lai, nên xuất khẩu sản phẩm tinh là chính,
khơng nên xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu và bán thành phẩm, vì khi đó hoạt
động xuất khẩu bất lợi cả về lợi thế địa vị độc quyền và giá cả, lợi nhuận. Vì vậy,
cần tìm kiếm một cơ cấu ngành hàng và mặt hàng chủ lực để xuất khẩu sao cho
vừa đáp ứng những yêu cầu của thị trường thế giới trước mắt cũng như lâu dài,
đồng thời có thể khai thác và phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước và dần
dần đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất.
3.1.2-/ Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt
Nam đến năm 2020.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu phải căn cứ vào lợi thế so
sánh của nước ta so với các nước trên thế giới, phải mang lại hiệu quả kinh tế và
hiệu quả xã hội; nhu cầu của thế giới về loại hàng hố đó cao. Chuyển dịch cơ cấu


kinh tế hướng về xuất khẩu phải phù hợp với bước đi của nước ta từng giai đoạn
1999 - 2003, 2005 - 2010 và 2011 - 2020.
Chuyển đổi nhanh cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá thị
trường, đa dạng hoá bạn hàng; từng bước thực hiện tự do hoá thương mại, phát
triển thị trường trong nước nhiều thành phàn, thực hiện thị trường mở; khuyến
khích các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Nhu cầu của
thế về loại hàng hoá Việt Nam xuất khẩu đang tăng, các nước đều có cơ hội tăng
nhu cầu thông qua các giải pháp tổ chức thị trường và tiếp thị.
Chuyển đổi nhanh cơ cấu hàng xuất khẩu từ thô và sơ chế sang chế biến sâu.
Trước đây ta xuất nguyên liệu thô, các nước nhập nguyên liệu thô của ta về chế

biến sâu để sử dụng trong nước và tái xuất nay ta tổ chức chế biến để xuất sản
phẩm chế biến.
Thực hiện nguyên tắc “có đi có lại” trong kinh doanh thương mại do tổ chức
thương mại thế giới (WTO) đề ra; tạo nên mối quan hệ gắn bó giữ thị trường xuất
khẩu và thị trường nhập khẩu, phấn đấu từng bước cân bằng xuất khẩu với từng
nước và cân bằng tổng xuất - tổng nhập. Ta sử dụng lao động rẻ có thể sản xuất ra
sản phẩm có giá cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường của nước khác.
Thực hiện chiến lược “công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu” để tạo ra nhiều
hàng hố đạt chất lượng quốc tế có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, hoạt
động nhập khẩu cũng phải thực hiện tốt chiến lược này. Công nghệ nhập khẩu là
công nghệ hiện đại đồng bộ của những nước kinh tế phát triển, công nghệ nguồn
(Mỹ, Nhật bản, EU, Canada...) giảm đến mức tối đa nhập khẩu công nghệ trung
gian và công nghệ đã qua sử dụng.
BẢNG 9 - NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU ĐẾN NĂM 2003, 2010, VÀ 2020.


TT

Tên nhóm hàng
hố và dịch vụ

Nhu cầu trong
nước

Tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu
làm căn cứ đầu tư

A


B

C

D

1

Lương thực, cây Nhu cầu đến năm
công nghiệp, rau 2020.
quả và thuỷ sản
- Lương thực: 30 35 triệu tấn.
- Rau quả: 30 - 40
triệu tấn.
- Thuỷ sản: 1,8 - 2
triệu tấn

- Xuất khẩu 3 triệu tấn gạo, nông sản
chế biến và rau quả 5 - 8 tỷ USD/năm
- Có khả năng xuất khẩu thuỷ sản chế
biến 2,5 - 3 tỷ USD/năm

2

Hàng công nghiệp
nhẹ:
- Hàng dệt - may
mặc.
- Hàng giầy dép và
sản phẩm da.

- Hàng tiểu thủ
công nghiệp.

Đến năm 2020 nhu
cầu hàng chục triệu
sản phẩm may mặc,
hàng chục triệu đôi
giày và hàng triệu
sản phẩm tiểu thủ
cơng nghiệp.

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình
qn hàng năm.
- Hàng dệt - may mặc 30%. 2003: 3 tỷ
USD, 2010: 5 tỷ USD; 2020: 10 tỷ
USD.
- Hàng giày dép và các sản phẩm da:
40% 2003: 1,5 tỷ USD, 2010: 3 tỷ
USD, 2020: 5 tỷ USD.
- Hàng tiểu thủ công nghiệp: 10%
- 2003: 10 triệu USD; 2010: 30 triệu
USD.

3

Các ngành dịch vụ
chủ yếu:
- dịch vụ quảng
cáo
- dịch vụ xuất

nhập khẩu.
- dịch vụ phần
mềm và sản xuất
phần mềm.
- Dịch vụ du lịch
- Dịch vụ tài chính

Bình qn hàng
năm có 5 - 10 triệu
khách du lịch trong
nước đi nghỉ mát và
tham quan, có hàng
chục triệu tấn hàng
hố xuất nhập khẩu.

- Có khả năng thu hút 5 - 10 triệu
khách du lịch quốc tế/năm.
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của
nước ta từ 20 - 30% năm.
- Làm dịch vụ xuất khẩu và dịch vụ
phần mềm cho các nước.
- Làm dịch vụ cho các doanh nghiệp
Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi.

4

Nhóm hàng điện
tử - tin học - bưu
chính viễn thơng.

- Máy tính điện tử.

Nhu cầu bình qn
hàng năm:
- Máy tính điện tử:
100.000 chiếc.

- Tốc độ tăng trưởng ngành công
nghiệp điện tử - tin học: 20%/năm.
- Tốc độ tăng trưởng dịch vụ 14%/năm
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng


TT

Tên nhóm hàng
hố và dịch vụ
- Thiết bị điện tử
- Hàng tiêu dùng
điện tử.
- Đồ chơi điện tử.
- Thiết bị viễn
thông.

Nhu cầu trong
nước

Tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu
làm căn cứ đầu tư


- Ti vi: 300.000
điện tử - tin học bình quân 50%/năm.
chiếc.
Đồ chơi điện tử:
100.000 chiếc.
- Máy điện thoại: 30
- 33 chiếc/100 dân
(mục tiêu năm
2010)

Nguồn: Chuyên đề nghiên cứu kinh tế - Viện kinh tế thế giới 2002.
3.1.3-/ Mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu trong giai đoạn 1999 - 2003 và 2005
- 2010.
Để từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của Việt
Nam so với thế giới, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2003 với mục tiêu tổng
quát là phấn đấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) khi đó phải tăng gấp 2 lần so với
năm 1993. Có nghĩa là đến năm 2003, GDP/đầu người của Việt Nam cũng phải đạt
ít nhất là 400 USD, gấp 2 lần so với 200 USD của năm 1993. Xuất phát từ yêu cầu
thực tiễn và khả năng phát triển, Đại hội VIII đã xác định rằng để đạt được như
vậy, trong kế hoạch 5 năm (1999 - 2003). GDP của Việt Nam phải có mức tăng
bình qn hàng năm khoảng 9 - 10%. Để góp phần tích cực thực hiện mục tiêu
tổng quát này, riêng trong lĩnh vực ngoại thương, kim ngạch xuất khẩu hàng năm
của Việt Nam sẽ phải đạt mức bình quân khoảng 28%, nâng mức kim ngạch xuất
khẩu trên đầu người năm 2003 lên trên 200 USD. Và do đó, tổng kim ngạch xuất
khẩu ở năm 2003 cũng phải tăng lên ít nhất 7 - 8 lần so với năm 1993, hoặc gấp 3,2
- 3,7 lần so với năm 1998, nghĩa là sẽ phải đạt khoảng 17 - 20 tỷ USD.


Hai phương án tăng trưởng xuất khẩu đến năm 2003 và 2010 được Bộ

Thương mại và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng nhiều nhà khoa học, quản lý, hoạch
định chiến lược, chính sách kinh tế đối ngoại trình Đại hội VIII như sau:
PHƯƠNG ÁN I: PHƯƠNG ÁN CÓ MỨC TĂNG TRƯỞNG
XUẤT KHẨU 24,5%/NĂM.

Năm
2001
2002
2003
1999-2003
2005-2010
2010

Dân số (triệu
người)
78,8
80,3
81,8

92,4

Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu là 24,5%/năm
Kim ngạch
Bình quân (USD/người)
(triệu USD
10.200
130
12.600
156
15.200

186
57.800
518.360
105.533
1.142

Nguồn: Bộ Thương mại.
Phương án I là phương án xây dựng từ yêu cầu thực tiễn là phấn đấu hoàn
thành và vượt mục tiêu đã được Đại hội VIII đề ra ở mức trung bình, từ nay đến
năm 2010 sẽ có mức tăng GDP bình quân hàng năm khoảng 9%. Theo phương án
này thì 5 năm 1999 - 2003 sẽ đạt khoảng 57,8 tỷ USD, tăng gấp 3,4 lần và kim
ngạch xuất khẩu tại năm 2003 sẽ phạt đạt mức 15,2 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so với
năm 1998; và do đó tốc độ bình quân tăng xuất khẩu 5 năm 1999 - 2003 sẽ phải đạt
khoảng 24,5%.
Hoàn thành phương án này, thời điểm năm 2003, Việt Nam sẽ phải đạt kinh
ngạch xuất khẩu đầu người khoảng 170 - 190 USD, và như vậy, Việt Nam sẽ được
xếp vào danh sách những nước có nền ngoại thương tương đối phát triển.
PHƯƠNG ÁN II - PHƯƠNG ÁN CÓ MỨC TĂNG TRƯỞNG XUẤT KHẨU
28 - 30%/NĂM


Năm
2001
2002
2003
19992003
20052010
2010

Dân số (triệu

người)
78,8
80,3
81,8

Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 28-30%/năm
Kim ngạch
Bình quân (USD/người)
(triệu USD
10.950
139
13.900
173
17.500
213
62.630
580.560

92,4

156.402

1.607

Nguồn: Bộ Thương mại
Phương án II là phương án tăng trưởng xuất khẩu ở mức cao, nhằm vượt lên
trên tránh tụt hậu về lâu dài. Theo phương án này, nếu thực hiện được, ngoại
thương Việt Nam sẽ đạt được sự nhảy vọt cả về lượng và chất, vì khi đó (năm
2003), Việt Nam có thể đạt kim ngạch xuất khẩu ở mức 17 - 20 tỷ USD còn cao
hơn tổng kim ngạch xuất khẩu đã đạt 5 năm (1994 - 1998), và gộp cả 5 năm kim

ngạch xuất khẩu 1999 - 2003 có thể đạt tới 62,630 tỷ USD, tăng gần 3,7 lần giai
đoạn 1994 - 1998 với mức tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 28 - 30%.
Điều cần lưu ý là việc xác định phương án II về cơ bản đã được căn cứ từ mục
tiêu phấn đấu ở mức cao của dự thảo các văn kiện trình Đại hội VIII: GDP bình
quân hàng năm (1999 - 2003) tăng khoảng 10%, tương ứng theo kim ngạch xuất
khẩu bình quân cũng phải tăng ở mức cao 28 - 30%. So với kết quả đạt được trong
thời gian 5 năm 1994 - 1998, thì đó là mức phấn đấu đề ra rất cao đã được Đại hội
VIII ghi nhận là chỉ tiêu cần quyết tâm thực hiện, vì nếu đạt được, Việt Nam khơng
chỉ thốt khỏi nguy cơ tụt hậu kéo dài mà tại thời điểm 2010 trình độ phát triển có
thể tương đương với trình độ phát triển có thể tương đương với trình độ phát triển
hiện nay của Thái Lan. Sở dĩ có thể dự báo như vây vì theo kết quả nghiên cứu dự
báo từ phương án I là phương án mức trung bình, nếu thực hiện được thì tại năm


2010, kim ngạch xuất khẩu sẽ có thể là 105,53 tỷ USD, khiến cho kim ngạch xuất
khẩu đầu người có thể đạt mức 1142 USD, còn cao hơn kim ngạch xuất khẩu đầu
người năm 1998 của Thái Lan (khoảng 720 USD).
Về tính khả thi của hai phương án xuất khẩu trên đây, đương nhiên với
phương án I là dễ hoàn thành hơn, cho dù chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, thách
thức. Tính khả thi của phương án I là rõ ràng vì thực tế cho thấy trong các năm
qua, kim ngạch xuất khẩu kể cả quy mô và tốc độ tăng trưởng đều đã liên tục năm
sau cao hơn năm trước với mức khá cao và vượt dự kiến ban đầu. Đối với phương
án II là phương án phấn đấu mức cao đã được Đại hội VIII ghi nhận thì để thực
hiện phương án này sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn, thách thức lớn hơn so với
phương án I, do vậy địi hỏi phải có quyết tâm rất cao và nỗ lực phấn đấu lớn. Song
nó vẫn có thể thực hiện được nếu chúng ta khơi dậy hơn nữa các nguồn lực thúc
đẩy nhanh sự tăng trưởng xuất khẩu, biến các nguồn lực sẵn có thành các lợi thế so
sánh hữu hiệu nhất. Tuy nhiên cần nhận thức một u cầu có tính ngun tắc là cần
tính tới khả năng các nguồn lực của đất nước luôn ở trạng thái vận động biến đổi.
Do đó, việc đa dạng hoá các nguồn lợi thế so sánh, nguồn gốc của sự đa dạng hoá

các sản phẩm xuất khẩu.
3.2-/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
AFTA.

Mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu và xuất khẩu có hiệu quả là điều mong muốn
của bất kỳ quốc gia nào. Nhưng để thực hiện được mục tiêu đó các quốc gia cần
vạch cho mình những chính sách và biện pháp đúng đắn cho những chính sách và
biện pháp đúng đắn cho những bước đi của mình sao cho phải xuất phát từ nội lực
của nền kinh tế và phù hợp với xu thế vận động của nền kinh tế thế giới. Rõ ràng,
chúng ta nhận thấy rằng những thuận lợi và lợi thế so sánh của Việt Nam chủ yếu
là nhân tố khách quan, nhưng những khó khăn lại là những yếu tố bắt nguồn từ
chính nội lực nền kinh tế. Điều này chứng tỏ trong quá trình hội nhập khu vực


AFTA, cũng như các khu vực khác trên thế giới APEC, WTO, nền kinh tế Việt
Nam dễ bị tổn thương so với các nước thành viên và trở thành những thách thức to
lớn địi hỏi chúng ta phải có những cách đi hợp lý để chiến thắng trong cuộc chạy
đua và cạnh tranh kinh tế này.
3.2.1-/ Biện pháp chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu.
Sự định hướng đúng đắn việc chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu trong
mối quan hệ chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố,
hiện đại hố có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Trong giai đoạn đầu tham gia AFTA,
chúng ta nên ưu tiên phát triển những ngành mà lợi thế so sánh có thể phát huy tác
dụng được nhiều nhất đồng thời tận dụng được ưu đãi thuế quan theo CEPT trong
việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang các nước ASEAN. Như vậy mới có
thể đảm trong thời gian tương đối ngắn những mặt hàng của ta mới có sức cạnh
tranh và xuất khẩu khơng chỉ sang thị trường ASEAN mà còn tới các thị trường
khác.
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu thay đổi theo hướng: giảm tỷ lệ trong sản phẩm
thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến ngày càng sâu và tinh.

Để phát huy hiệu quả nhất các lợi thế so sánh hiện có của Việt Nam về nguồn
lao động, vị trí địa lý, các nguồn tài ngun thiên nhiên, mơi trường sinh thái...
thuận lợi cho các khả năng phát triển nông - lâm - ngư nghiệp và khai thác tài
nguyên khống sản, ngồi việc phát triển một số ngành cơng nghiệp hỗ trợ như cơ
khí chế tạo và sửa chữa máy móc, cơng cụ lao động, phân bón hố học, thuốc trừ
sâu... cần tập trung phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, đặc biệt là với các sản phẩm chủ lực trong xuất khẩu như: gạo, thịt, mực,
tôm, chè, lạc, cà phê, cao su, gỗ, tơ tằm, các ngành công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao động, vốn đầu tư ít lại dễ tạo vốn ban đầu
như dệt, may mặc, giầy da, đồ mỹ nghệ chế tạo gốm sứ, thuỷ tinh, mây tre, gỗ...


Tăng trưởng xuất khẩu theo các định hướng trên đây chủ yếu mới chỉ diễn ra bằng
con đường phát triển kỹ thuật thấp và tình trạng thiếu vốn đầu. Con đường này phù
hợp với trình độ phát triển hiện nay, song nếu chỉ dừng lại ở con đường này chúng
ta sẽ gặp phải những khó khăn làm chậm dần tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Đó là
giới hạn tự nhiên của chính các lợi thế so sánh đó sẽ ngày càng trở lên khan hiếm
do sự khai thác của con người; là những biến động bất lợi về quan hệ cung cầu, giá
cả của thị trường thế giới về những sản phẩm có hàm lượng lao động nhưng yếu tố
kỹ thuật lại thấp. Nên trong quá trình hội nhập AFTA, thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu phát triển, Việt Nam cần ưu tiên đầu tư có trọng điểm vào một số ngành đã và
sẽ trở thành ngành mũi nhọn có tốc độ tăng trưởng cao, doanh thu lớn lại được
hưởng ưu đãi của CEPT như dầu khí, hố dầu, hố chất cơ bản, thép, xi măng và
các vật liệu xây dựng khác, cơ khí, điện tử và tin học. Từ nay đến năm 2006, đặc
biệt chấn chính và phát triển mạnh ngành cơ khí chế tạo theo hướng tận dụng năng
lượng hiện có, tranh thủ cơng nghệ hiện đại, để tạo nền móng vững chắc cho hoạt
động làm hàng xuất khẩu. Đưa nhanh công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh
học cùng với tăng cường năng lực và nâng cao trình độ cơng nghệ chế biến đối với
sản phẩm xuất khẩu chủ lực như gạo, dầu thô, cao su, tơ tằm, chè, cà phê, thuỷ
sản...
Thực hiện các định hướng ưu tiên phát triển trên đây chúng ta sẽ tiến tới xây

dựng hoàn chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản phẩm hướng mạnh về xuất khẩu một
cách năng động, sáng tạo phù hợp với lợi thế so sánh của đất nước và từng bước
hội nhập vào phân công lao động và hợp tác trong khu vực cũng như trên thế giới.
3.2.2-/ Biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Để có thể sản xuất các sản phẩm chế biến chuyên sâu tạo ra sức cạnh tranh
cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN thì bản thân nền kinh tế Việt
Nam khơng thể một sớm một chiều có thể làm ngay được mà phải dựa vào nguồn


đầu tư nước ngồi có hiệu quả trong lĩnh vực thay thế nhập khẩu và những ngành
hướng mạnh xuất khẩu.
Do đó, phải tạo ra mơi trường hấp dẫn đầu tư nước ngồi bằng chính các địn
bầy kinh tế nhằm khuyến khíchh xuất khẩu dành cho doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Cụ thể miễn giảm thuế lợi tức trong một thời gian nhất định cho các
nhà đầu tư nước ngồi sản xuất hàng xuất khẩu, mơi trường chế biến thuỷ sản, sử
dụng cơng nghệ cao.
Hình thức liên doanh là hình thức thích hợp nhất cho Việt Nam trong tích luỹ
vốn, chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý. Cả trong trước mắt và
lâu dài, đây sẽ là một nhân tố quan trọng cho thay thế nhập khẩu và khuyến khích
xuất khẩu của nước ta trong việc hội nhập với khu vực và thế giới.
Tuy nhiên theo đánh giá của Thái Lan, đầu tư 100% vốn nước ngoài ở Việt
Nam thuận lợi hơn so với thành lập các liên doanh do tính phức của các quy định
liên doanh và thuế xuất nhập khẩu và thuê máy móc của Việt Nam rất phức tạp.
Đánh giá này không phải khơng có cơ sở. Chúng ta đã và đang hồn thiện các
chính sách của mình trong đó có cả chính sách thuế và các quy định về liên doanh
và điều này địi hỏi có một thời gian nhất định. Trong thời gian tới khi thực hiện
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà nước nên tuỳ thuộc vào từng giai đoạn,
hoàn cảnh cụ thể để ban hành thêm các ưu đãi đầu tư, xong không nên thay đổi
Luật một cách q nhanh chóng để tránh gây ra tình trạng bất ổn định trong quy
chế.

Việc thu hút vốn đầu tư nhằm khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam cần đặt
trong tương quan so sánh với các nước trong khu vực và đặt trên quan điểm thúc
đẩy đầu tư trong nước với sự kiện gia nhập , đầu tư 100% vốn nước ngoài ở Việt
Nam thuận lợi hơn so với thành lập các liên doanh do tính phức của các quy định
liên doanh và thuế xuất nhập khẩu và thuê máy móc của Việt Nam rất phức tạp.


Đánh giá này khơng phải khơng có cơ sở. Chúng ta đã và đang hồn thiện các
chính sách của mình trong đó có cả chính sách thuế và các quy định về liên doanh
và điều này địi hỏi có một thời gian nhất định. Trong thời gian tới khi thực hiện
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà nước nên tuỳ thuộc vào từng giai đoạn,
hoàn cảnh cụ thể để ban hành thêm các ưu đãi đầu tư, xong khơng nên thay đổi
Luật một cách q nhanh chóng để tránh gây ra tình trạng bất ổn định trong quy
chế.
Việc thu hút vốn đầu tư nhằm khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam cần đặt
trong tương quan so sánh với các nước trong khu vực và đặt trên quan điểm thúc
đẩy đầu tư trong nước với sự kiện gia nhập AFTA, giờ đây việc thu hút đầu tư thúc
đẩy xuất khẩu Việt Nam cần phải được đặt trong bối cảnh phát triển của cả khối
ASEAN.
3.2.3-/ Tham gia cộng đồng thương mại quốc tế.
Để hoàn thành được những mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu trong giai đoạn
2003 - 2010 và thâm nhập được vào thị trường AFTA thì mục đích của việc gia
nhập AFTA là không chỉ nhằm vào thị trường ASEAN và xa hơn nữa là tạo điều
kiện cho Việt Nam phát triển thị trường mới, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện
chính sách mở rộng thị trường, tìm kiếm nhiều bạn hàng mới và ổn định. Do đó,
Việt Nam cần tham gia các diễn đàn, các tổ chức, các chế định quốc tế và khu vực.
Nên không chỉ dứng lại với việc gia nhập AFTA/ASEAN, Việt Nam đã có đơn xin
tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đã có một số vịng đàm phán với
tổ chức này. Việt Nam có điều kiện hội nhập với kinh tế thế giới, tránh được tình
trạng phân biệt đối xử, tranh thủ được ưu đãi mà WTO dành cho nước kém phát

triển. Đối với khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) cần từng bước thực hiện
hoàn toàn hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Đó là một điều
kiện cần thiết để phát triển nhanh nền kinh tế mở cửa, nhanh chóng hội nhập vào


nền kinh tế thế giới và khu vực, tạo điều kiện cho kinh tế đối ngoại, đặc biệt là hoạt
động xuất khẩu phát triển phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của AFTA bằng cách:
Nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu, tạo ra uy tín và sức cạnh tranh cho
hàng hoá Việt Nam bằng cách kiểm tra bắt buộc về chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
9000 và ISO 14000 cho mọi hàng hoá Việt Nam xuất sang ASEAN cũng như thế
giới. Bằng biện pháp này, hàng hoá của Việt Nam dần dần lấy được uy tín trước
mắt và lâu dài trên thị trường các nước ASEAN. Tạo lập uy tín trên thị trường
khơng phải là dễ, nhưng việc giữ uy tín đó lại càng khó hơn địi hỏi các tổ chức
xuất khẩu cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định chất lượng, làm được điều này sẽ
giúp chúng ta có được thị trường ổn định.
Mặt khác, để thúc đẩy xuất khẩu thì chúng ta nên thành lập các tổ chức xúc
tiến thương mại. Chức năng chính của trung tâm này là cung cấp thông tin và tổ
chức xúc tiến các hoạt động thương mại, tiến hành nghiên cứu thị trường và tổ
chức đưa hàng hoá Việt Nam ra thị trường ASEAN cũng như thế giới trong đó
quan trọng nhất là giúp các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hệ thống phân phối
hàng hoá ở các nước ASEAN. Trung tâm này sẽ có một ngân hàng dữ liệu về các
thị trường nước ngoài và về những nhà cung ứng và người mua trong và ngoài
nước. Việc thành lập trung tâm này sẽ cho phép mở rộng khả năng phối hợp giữa
các Bộ, các cơ quan cũng như khả năng được cung cấp thông tin và khả năng tham
gia vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Kinh nghiệm thành
lập và vận hành trung tâm này, Việt Nam có thể học từ người Nhật với FETRO,
người Hàn Quốc với KOTRA và người Đài Loan với CETRA.
3.2.4-/ Nhóm các biện pháp tài chính tín dụng.
Để gia tăng sức mạnh của hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
ASEAN, Chính phủ nên đưa ra các biện pháp tài chính tín dụng như:



Khuyến khích vệ tinh của các cơ sở sản xuất hàng hố xuất khẩu: Khuyến
khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đất tư sản xuất hàng xuất khẩu mới chỉ
nhìn đến các doanh nghiệp có sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thực tế cịn có vơ số các doanh nghiệp vừa và
nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm. Họ cũng
có quyền được hưởng ưu đãi. Vì vậy, cũng cần miễn giảm một phần thuế cho sản
phẩm cung ứng cho cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu. Nếu làm được như vậy thì sự
phát triển của một ngành hàng xuất khẩu nào đó sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều
ngành khác, tất cả cùng hưóng về xuất khẩu, làm cho hàng hố xuất khẩu của Việt
Nam lúc này sẽ có tính cạnh tranh hơn so với hàng hoá của các nước trong khu
vực. Vừa đẩy mạnh xuất khẩu giá trị gia tăng (không phải nhập nguyên liệu, xuất
thành phẩm theo kiểu gia công hướng ưu đãi của CEPT, vừa tạo điều kiện thu hút
được các nguồn nhân lực và vật lực của đất nước vào lĩnh vực kinh tế có hiệu quả.
Lập quỹ bảo lãnh tín dụng: Chính phủ cần đứng ra thành lập quỹ bảo lãnh tín
dụng nhằm mục đích trợ giúp cho các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển xuất
khẩu nhưng khơng có điều kiện được tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng do khơng
có tài sản thế chấp. Quỹ sẽ đứng ra bảo lãnh các khoản vay cùng chia sẽ thành
công với doanh nghiệp và rủi ro với ngân hàng. Nên đưa một số khoản mục sau
vào danh mục bảo lãnh:
Bảo lãnh chứng từ thương mại (doanh nghiệp có thể đổi chứng từ lấy tiền mặt
tại ngân hàng thông báo L/C ngay sau khi giao hàng, không phải đã chuyển tiền
như hiện nay).
Bảo lãnh tiền vay mua máy móc, vật tư phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.
Bảo lãnh nộp thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, vật tư nhập khẩu để
sản xuất hàng xuất khẩu.
Quỹ bảo hiểm: cần khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự nguyện thành
lập các quỹ bảo hiểm (phòng ngừa rủi ro) riêng cho ngành của mình, nhất là trong



những ngành quan trọng, có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê,
cao su... Quỹ bảo hiểm này có nhiệm vụ trợ giúp các thành viên hiệp hội khi giá cả
thị trường biến động thất thường. Khi thị trường thế giới thuận lợi, có thể xuất
khẩu với giá cao hơn mức giá bảo hiểm thì hiệp hội thu một phần chênh lệch đưa
vào quỹ bảo hiểm: ngược lại khi thị trường thế giới biến động không thuận lợi, giá
cả xuất khẩu thấp hơn giá bảo hiểm thì trích quỹ để hỗ trợ cho các thành viên.
Cho vay theo thành tích xuất khẩu: Chính phủ nên xem xét áp dụng chính
sách vay theo thành tích xuất khẩu. Cụ thể tổng mức được phép vay, các điều kiện
về thế chấp, bảo lãnh sẽ thay đổi tuỳ theo thành tích xuất khẩu năm trước của
doanh nghiệp.
3.2.5-/ Đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh.
Trong xu thế hội nhập vào đời sống kinh tế của toàn khu vực, tiến tới tự do hố
thương mại của khối ASEAN, thì lĩnh vực ngoại thương, hàng ngày hàng giờ phải
tiếp xúc với các bạn hàng các đối tác thuộc các chính kiến khác nhau, địi hỏi cần có
những con người có đầy đủ năng lực và phẩm chất để làm việc. Tất cả các chiến
lược, chính sách sẽ trở thành vơ nghĩa nếu khơng có con người thực hiện. Chính vì
thế, sự nghiệp đổi mới nước ta đã và đang đặt con người vào vị trí trung tâm. Tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung, của hoạt động kinh doanh xuất khẩu nói
riêng chỉ có thể đạt được tốc độ cao khi chúng ta giải quyết và phát huy cao độ vai
trò của nhân tố con người. Với những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật và công nghệ, với sự thay đổi lớn về quan hệ kinh tế quốc tế đang đòi hỏi
khả năng nhận thức và vận dụng công nghệ mới, hiện đại và sự ứng xử linh hoạt
trong sản xuất kinh doanh ngày càng phải chính xác và nhanh nhạy. Hơn nữa, con
người Việt Nam đã chịu ảnh hưởng khá lâu dài của cơ chế quản lý tập trung quan
liêu bao cấp. Điều đó càng bức thiết địi hỏi những cán bộ quản lý kinh doanh một
mặt phải nhanh chóng bỏ lối làm ăn cũ, mặt khác phải được đào tạo và đào tạo lại để
nâng cấp trình độ, kỹ năng, kỹ xảo nắm bắt được kịp thời và áp dụng có hiệu quả
những thành tựu khoa học cơng nghệ mới và những kiến thức về kinh tế thị trường



vào quá trình sản xuất kinh doanh. Vì thế phải có những chương trình đào tạo, bồi
dưỡng những kiến thức cho phù hợp với yêu cầu của từng đối tượng. Cần tiếp tục
thực hiện phương châm đa dạng hoá loại hình đào tạo, kể cả việc mở các lớp dài hạn
và ngắn hạn trong nước với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế để bồi dưỡng các lý
thuyết và kinh nghiệm hoạt động trong nền kinh tế thị trường nhằm đạt hiệu quả
kinh tế cao.
3.2.6-/ Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội vừa là điều kiện, vừa là giải
pháp khơng thể thiếu được của việc khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu của nước
ta. Cơ sở hạ tầng tốt sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi thu hút đầu tư nước
ngoài mà các nhà đầu tư nước ngồi thường là các cơng ty lớn, các tập đồn kinh tế
xuyên quốc gia. Họ đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào cũng nhằm hướng tới việc thu
được lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy, họ phải chiếm lĩnh được thị trường không
những của nước nhận đầu tư mà của các nước bên ngoài khác hay họ phải cung cấp
sản phẩm hoặc dịch vụ của mình cho thị trường tồn cầu. Do đó, làm cho ngoại
thương của nước bản địa phát triển hay chính hoạt động xuất khẩu đang gia tăng
thông qua hoạt động đầu tư của các công ty xuyên quốc gia. Tạo điều kiện cho nền
kinh tế của các nước nhận vốn đầu tư phát triển hội nhập với nền kinh tế chung của
khu vực và toàn cầu. Thực trạng kết cấu hạ tầng của nước ta bên cạnh những tiến bộ
đáng kể trong một số lĩnh vực như: bưu điện, viễn thơng, điện năng,... Việt Nam cịn
nhiều yếu kém đặc biệt, đặc biệt là giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường
thuỷ, hàng không, bến cảng, kho bãi). Bất cập so với yêu cầu công nghiệp hố, hiện
đại hóa nền kinh tế hiện nay. Cơ sở hạ tầng yếu kém đã phần nào làm các nhà đầu tư
nước ngoài ngần ngại bỏ vốn vào Việt Nam, nhất là vùng sâu, vùng xa. Bản thân
việc cải tạo cơ sở hạ tầng lại cũng không hấp dẫn các nhà đầu tư vì phải bỏ vốn
nhiều, lãi ít, thu hồi vốn chậm.
Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, mặc dù Đảng và Chính phủ đã có nhiều
nỗ lực, nhất là phát triển nguồn điện và mạng lưới điện, nhưng khả năng khan hiếm



điện trong vài năm tới rất dễ xẩy ra, còn ngành bưu chính viễn thơng tuy phát triển
vượt bậc có thể theo kịp các nước trong khu vực nhưng giá cả thì q đắt thậm chí
cao gấp hai, ba lần so với các nước trong khu vực. Khu vực cơ sở hạ tầng phát
triển chậm, chi phí vận chuyển hiện nay rất cao và nguy cơ tắc nghẽn giao thông là
điều khó tránh khỏi. Với cơ sở hạ tầng như vậy sẽ làm cho môi trường kinh doanh
kém hấp dẫn, hạn chế sức cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngồi vào
nước ta. Chính vì vậy, với điều kiện nguồn vốn trong nước cịn có hạn thì cần phải
sử dụng sức mạnh tổng hợp trong nước và quốc tế thơng qua hình thức liên doanh,
liên kết khácn hau để nâng cấp, mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng.
Tuy nhiên, thành công của các biện pháp này có đạt được hay khơng cịn tuỳ
thuộc vào việc thực hiện một loạt các chính sách kinh tế vĩ mơ khác như: chính
sách thương mại; chính sách đầu tư phát triển với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngồi, chính sách tài chính tín dụng,... các chính sách này phải được nghiên
cứu và được thực hiện một cách đồng bộ. Thách thức vẫn cịn ở phía trướng,
nhưng chúng ta phải hy vọng những kết quả có thể đạt được trong quá trình hội
nhập nền kinh tế khu vực ASEAN.


KẾT LUẬN
Như vậy với những nghiên cứu trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng con
đường cơng nghiệp hố, hiện đại hoá dựa trên tăng trưởng xuất khẩu là con đường
đúng đắn đưa nền kinh tế Việt Nam “cất cánh” và thực hiện được lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí MInh là một Việt Nam phát triển cùng sánh vai với các cường quốc
trên thế giới. Nhưng trên thực tế con đường chúng ta đi không phải là một con
đường dễ dàng. Cùng với những thành tích mà chúng ta đã đạt được, với kinh
nghiệm thực tiễn của đất nước và các nước trên thế giới sẽ giúp cho Việt Nam
vững bước đi lên. Thực tế trong những năm qua đã cho chúng ta thấy rõ sự chuyển
đổi của nền ngoại thương Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng
sang cơ chế thị trường, mở cửa đa phương, đa chiều các quan hệ thị trường, bạn

hàng theo thơng lệ quốc tế, từng bước xố bỏ ngun tắc “Nhà nước độc quyền
quản lý ngoại thương” bằng các chính sách, biện pháp khuyến khích phát triển một
nền ngoại thương nhiều thành phần và thực hiện tự do hoá thương mại. Chính vì
thế xuất khẩu Việt Nam đã có những tiến triển vượt bậc, góp phần tích cực vào sự
tăng trưởng và phát triển chung của nền kinh tế. Bên cạnh đó, thời gian qua hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam cũng đã khơng tránh khỏi những khó khăn vướng
mắc địi hỏi phải có biện pháp tháo gỡ trong trước mắt và lâu dài. Việc tham gia
vào AFTA và các tổ chức thương mại khác là một xu thế tất yếu của phát triển
kinh tế. Điều này đặt cho Việt Nam một nước có nền kinh tế kém phát triển những
cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi Việt Nam phải biết tận dụng cơ hội và bằng mọi
biện pháp vượt qua những thách thức đó thì mới đi lên được con đường phát triển.
Trong giai đoạn từ nay đến 2010 Việt Nam phải lựa chọn cho mình chiến lược
ngoại thương đúng đắn, phát huy có hiệu quả cao nhất các lợi thế so sánh của đất
nước trong quá trình mở cửa, hợp tác phân cơng lao động và phát triển thương mại
quốc tế. Trong quá trình thực hiện các chiến lược xuất khẩu, cần quán triệt các


quan điểm cơ bản của Đảng và kết hợp thực hiện các giải pháp, chính sách lớn và
các biện pháp để đạt được mục tiêu đề ra.



×