Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.93 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................3
1 Sự cần thiết của đề tài.............................................................................3
2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................3
3. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................4
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu.............................................................4
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................5
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ TRÌNH ĐỘ
PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT..............................................5
1.1. Một số khái niệm cơ bản....................................................................5
1.1.1. Lực lượng sản xuất......................................................................5
1.1.2. Quan hệ sản xuất:........................................................................5
1.2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất:.....................................................................7
1.2.1. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và
làm thay đổi quan hệ sản xuất:..............................................................7
1.2.2. Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
sự phát triển của lực lượng sản xuất:.....................................................8
1.2.3. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất........................................................................................................8
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUY LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT CỦA ĐẢNG
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY.................................................................................................11


2.1. Quá trình nhận thức của Đảng về mối quan hệ trình độ lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất...................................................................11
2.2. Những vận dụng của Đảng về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất.................................................................................16


PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................20


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan
trọng trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta từ
một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành quốc gia có thu nhập
trung bình thấp và ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới; đời
sống của người dân ngày càng được cải thiện, vị thế và uy tín của đất nước ta
trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đóng góp vào những thành quả
to lớn này của phát triển đất nước là sự đầu tư phát triển đồng đều giữa lực
lượng sản xuất là quan hệ sản xuất của Đảng và nhà nước.
Từ sau thời kỳ đổi mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm tìm tòi, phát triển
nhận thức, tư duy về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành của quan hệ sản
xuất. Đó là một quá trình phát triển liên tục về nhận thức thơng qua lãnh đạo,
chỉ đạo và tổng kết lý luận - thực tiễn, với nhiều đổi mới quan trọng, mang
tính đột phá, nhất là từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay, từ
đó đề ra những chiến lược, chính sách đúng đắn, đem lại những thành tựu to
lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy chúng e đã lựa chọn chủ đề “ Quy luật quan hệ sản xuất phù
họp với lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay” để hiểu rõ hơn về mặt lý luận cũng như những vận dụng đúng đắn
của Đảng và Nhà nước.
2. Đối tượng nghiên cứu
Bài tiểu luận tập chung nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến quan hệ
sản xuất, lực lượng sản xuất và mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất cùng với sự vận dụng của Đảng trong mối quan hệ này



3. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp
nghiên cứu tài liệu, ngồi ra cịn sử dựng các phương pháp khác như: Tư duy
lôgic, phương pháp lập luận…
4. Kết cấu bài tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận, Mục Lục và Tài Liệu Tham Khảo, bài
tiểu luận gồm:
Nội Dung:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUY LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ TRÌNH
ĐỘ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội
nhất định, ở một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ
tác động giữa con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con
người và năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải
vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri
thức, phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ.
Trong các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể và
bao giờ cũng là lực lượng sản xuất cơ bản, quyết định nhất của xã hội.

Ngày nay, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì nội
dung khái niệm lực lượng sản xuất được bổ sung, hoàn thiện hơn. Các cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ đã làm xuất hiện những khu vực sản xuất
mới và làm cho năng suất lao động tăng lên gấp bội. Năng suất lao động được
xem như là tiêu chí quan trọng trọng nhất để đánh giá trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và suy cho cùng cũng là yếu tố quyết định sự chiến thắng
của một trật tự xã hội này đối với một trật tự xã hội khác.
1.1.2. Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội (sản xuất và tái sản
xuất xã hội).
Trong quá trình sản xuất, con người khơng chỉ có quan hệ với tự nhiên,
tác động vào giới tự nhiên, mà cịn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau.


Hơn nữa, chỉ có trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác
động vào tự nhiên và mới có sản xuất.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với con người trên ba mặt chủ yếu sau:
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người với
con người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý là quan hệ giữa con người với con
người trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động
cho nhau.
- Quan hệ phân phối lưu thông là quan hệ giữa con người với con người
trong phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động
qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò
quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất
thì giai cấp đó là giai cấp thống trị; giai cấp ấy đứng ra tổ chức, quản lý sản

xuất và sẽ quyết định tính chất, hình thức phân phối, cũng như quy mô thu
nhập. Ngược lại, giai cấp, tầng lớp nào khơng có tư liệu sản xuất thì sẽ là giai
cấp, tầng lớp bị thống trị, bị bóc lột vì buộc phải làm th và bị bóc lột dưới
nhiều hình thức khác nhau.
Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thơng cũng có
tác động trở lại quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó khơng phải là những quan hệ
ý chí, pháp lý mà là quan hệ kinh tế được biểu diễn thành các phạm trù, quy
luật kinh tế.


Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, khơng phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của con người. Sự thay đổi của các kiểu quan hệ sản xuất phụ thuộc vào
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
1.2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất:
1.2.1. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay
đổi quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách
biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất (quy luật cơ bản nhất của sự vận động,
phát triển xã hội).
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra
đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát
triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ
sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó

có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người
lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát
triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của
lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách
quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của


lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức
sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
1.2.2. Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát
triển của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
khơng hồn tồn thụ động mà tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất có thể tác động đến lực lượng sản xuất vì nó quy định
mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản
xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa
học và công nghệ... và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất
lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo
quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong tồn bộ tiến trình lịch sử nhân
loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên
thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa
và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật
xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.


1.2.3. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Trước hết quan hệ sản xuất là mặt không thể thiếu của phát triển sản
xuất lực lượng sản xuất không thể tồn tại, phát triển ở bên ngồi quan hệ sản
xuất, nó là hình thức tất nhiên của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất có
thể tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển bằng cách nó sắp xếp các yếu tố của lực
lượng sản xuất đúng vị trí, chức năng của chúng làm cho chúng phát huy
được tính năng, tác dụng của chúng. Nhưng khi quan hệ sản xuất phù hợp
khơng phù hợp với lực lượng sản xuất thì trở thành xiềng xích trói buộc đối
với lực lượng sản xuất làm cho chúng không phát huy tác dụng. Sự không phù
hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất có thể xảy ra theo 2 xu
hướng vượt quá hoặc lạc hậu so với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất xác định mục đích xã hội của nền sản xuất nào, tổ
chức sản xuất được tiến hành vì lợi ích của tập đồn sản xuất nào, tổ chức sản
xuất vì lợi ích nào và phân phối, sản phẩm có lợi cho ai. Như thế có nghĩa là
mọi mặt của quan hệ sản xuất đều ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến lực
lượng sản xuất trực tiếp.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất là quy luật
chung cơ bản của quá trình lịch sử lồi người nó tác động trong những giai
đoạn lịch sử cơ bản của xã hội là nguyên nhân căn bản của sự hình thành và

phát triển ổn định của những cấu trúc kinh tế xã hội xác định trong lịch sử.
Đồng thời cũng là nguyên nhân của những bước chuyển lịch sử cơ bản từ giai
đoạn lịch sử này sang giai đoạn khác.Từ phát triển sản xuất nguyên thủy sang
phát triển sản xuất chiếm hữu nô lệ, tiếp theo là phương thức phong kiến rồi
sang phương thức tư bản và cuối cùng là sang phát triển sản xuất cộng sản
chủ nghĩa.


Sự tác động của quan hệ này trong lịch sử đã xác định vai trò quy định
của phát triển sản xuất trong sự hình thành và phát triển của những cấu trúc xã
hội nhất định.
Điều kiện tự nhiên và dân số là những yếu tố tất yếu, tác động thường
xuyên đến quá trình sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn nhất định
cho sản xuất và cũng như quá trình tồn tại và phát triển xã hội. Nhưng khơng
phải là nhân tố quyết định.Chỉ có sự phát triển của phương thức sản xuất mới
là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Nước ta đang ở thời kỳ quá độ từ một nước sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu tiến thẳng lên một phương thức sản xuất cao hơn phát triển sản xuất cộng
sản bỏ qua phương thức sản xuất TBC. Sở dĩ có thể tiến hành như vậy là vì
trên tồn thể giới phương thức sản xuất tư bản đã không cịn chiếm vị trí độc
tơn kế từ khi cách mạng CNXH ở nước Nga bùng nổ và thắng lợi.
Nhưng cần phải hiểu được sự bỏ qua không phải một cách máy m óc
mà trái lại phải tiếp thu tất cả những thành tựu khoa học, kỹ thuật phương
thức tổ chức nền kinh tế tiến triển mà xã hội tư bản đã đặt được để phát triển
triển nền kinh tế của chúng ta. Khơng những thế cịn phải tiếp nhận cả những
yếu tố của những giai đoạn phát triển kinh tế thấp hơn đang có mặt ở nước ta
để hướng chúng vào mục tiêu cuối cùng là phương thức sản xuất cộng sản.


CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUY LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ LỰC

LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT CỦA ĐẢNG
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
2.1. Quá trình nhận thức của Đảng về mối quan hệ trình độ lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất
Từ thực tiễn đổi mới của đất nước, Đại hội VIII khẳng định: Lấy việc
giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên
ngoài cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội,
cải thiện đời sống của nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến
khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh. Đại
hội IX khẳng định rõ thêm: Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây
dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát
triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã
hội.
Qua tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X đã khái quát, một trong những
đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là "có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất".
Đại hội XI đã chỉ rõ một trong những mối quan hệ lớn phải đặc biệt
chú trọng nắm vững và giải quyết tốt trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là “quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng,
hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa"; "Phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, cơng nghệ ngày càng cao; đồng
thời hồn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa".
Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh mối quan hệ “giữa


phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản

xuất xã hội chủ nghĩa” là một trong tám mối quan hệ lớn cần nắm vững và
giải quyết tốt.
Đại hội XII tiếp tục xác định “Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trị chủ
yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động
lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ
theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”.
Nhận thức chung về mối quan hệ mật thiết này cịn được thể hiện rõ nét
thơng qua hồn thiện nhận thức cả về phát triển lực lượng sản xuất và cả về
ba nội dung của quan hệ sản xuất theo quá trình xây dựng và phát triển đất
nước.
Về phát triển lực lượng sản xuất, nhận thức của Đảng đã khẳng định
trong báo cáo kinh tế - xã hội của tất cả các Văn kiện, các kỳ Đại hội. Đặc
biệt Đảng và Nhà nước luôn luôn xác định “phát triển kinh tế là trọng tâm”.
Nhận thức này còn được cụ thể hóa thành mục tiêu, giải pháp trong các chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội cũng như Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm của cả thời kỳ này, nhất là sau năm 2011.
Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế, từ hai hình thức chính là sở
hữu tồn dân và sở hữu tập thể, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã
xác định quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là q trình
chuyển hóa từ nền kinh tế cịn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế
hàng hóa. Đây chính là điểm đột phá trong lý luận về mơ hình phát triển,


khẳng định việc chuyển nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Quan niệm về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện
qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X và XI của
Đảng. Cụ thể: Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, tập thể và tư nhân, hình
thành nhiều hình thức sở hữu: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, sở hữu hỗn hợp và sở hữu nhà đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh
tế bao gồm: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi. Các thành phần kinh tế có các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
đa dạng với sự đan xen, hỗn hợp của các loại hình sở hữu. Đồng thời xố bỏ
sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu; “Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
và XII của Đảng tiếp tục khẳng định:“Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật…”.
Về cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã tổng kết và phê phán cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu, bao
cấp cần phải xóa bỏ; khơng ngừng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế gắn với yêu
cầu phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII đã rút ra kinh nghiệm bước đầu
về tiến hành đổi mới là: Đổi mới về kinh tế, chuyển nền kinh tế mang nặng
tính tự cấp, tự túc với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền


kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước là hồn tồn cần thiết để giải phóng và phát huy các

tiềm năng sản xuất kinh doanh trong xã hội.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII thấy rõ sự buông lỏng và
lung túng trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới, nhất là cơ chế quản lý
kinh tế vì cả ba nội dung của quan hệ sản xuất được xây dựng trước đổi mới
đã khơng cịn phù hợp và nhận thức về quan hệ sản xuất mới còn chưa rõ
rang. Kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước chưa phát huy được vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế. Chưa đổi mới kinh tế hợp tác, hợp tác xã tan rã
hoặc chỉ tồn tại hình thức chưa có hình thức hợp tác xã mới, chưa thực sự
thúc đẩy và quản lý tốt kinh tế tư nhân, quản lý kinh tế liên doanh với nước
ngồi cịn nhiều sơ hở.
Trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm và bài học thực tiễn của các kỳ
đại hội trước về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XII đã khẳng định: “Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là
tiếp tục thực hiện đẩy mạnh thừa kế mơ hình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện phát triển kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế gắn với phát triển tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn
nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu, huy động có hiệu quả mọi
nguồn lực phát triển”. Đây là sự phát triển mới về nhận thức của Đảng, trong
đó xác định rõ nội hàm nước cơng nghiệp hiện đại thơng qua những tiêu chí
phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế, của xã hội và những tiêu chí
phản ánh về chất lượng mơi trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã có những phát
triển mới về định hướng và giải pháp đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế. Về mục tiêu tăng trưởng Đảng đã chỉ rõ: “kết hợp có hiệu quả
phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao
chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao


động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập

quốc tế”. Như vậy, định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng chính lấy năng
suất, hiệu quả sử dụng các nguồn lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế làm
mục tiêu hàng đầu để vừa phát triển kinh tế bền vững, vừa gắn với phát triển
xã hội và bảo vệ môi trường.
Về định hướng cơ cấu lại nền kinh tế gắn với mơ hình tăng trưởng đã
khẳng định: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ tổng thể nền
kinh tế và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng, tập
trung vào các lĩnh vực quan trọng”.
Về quan hệ phân phối, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
đã khẳng định phải thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động, đồng
thời mở rộng nội dung phân phối trong các kỳ Đại hội VII, VIII theo hướng
có nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế là chủ yếu. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ:
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; đồng thời phân phối theo mức đóng
góp các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã
hội”. Đây là một bước tiến mới so với các nguyên tắc phân phối được nêu
trong Văn kiện các kỳ Đại hội trước, khẳng định nguyên tắc phân phối của cả
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
và XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định, hoàn thiện nguyên tắc phân phối trên và
coi đó là nguyên tắc phân phối của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta xác định: Thị
trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn
lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Nhà nước đóng
vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của


Nhà nước và cơng cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, cơng bằng

xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Những vận dụng của Đảng về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất
Về mục đích
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa nhất là trong những chặng đầu của thời kì quá độ, lực lượng sản xuất
còn yếu kém cần được củng cố, tạo cơ sở xây dựng thành công trên nền tảng
cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội. Dùng cơ chế thị trường để khuyến khích
tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất. thúc đẩy cơng nghiệp hố, hiện đại hoá Chủ nghĩa xã hội
nhằm tạo tiền đề vững chắc về kinh tế cho sự phát ra đời của phưong thức sản
xuất chủ nghĩa xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện địa gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mới phù họp trên cả 3 mặt : sở hữu về tư liệu sản xuất,
quản lí và tổ chức sản xuất, phân phối sản phẩm .
Về chế độ sở hữu : là chế độ sở hữu công cộng ( công hữu ) về tư liệu
sản xuất chủ yếu từng bứoc được xác lập cà sẽ chiếm hữu ưu thế tuyệt đối khi
Chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản.
Về chế độ phân phối : nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phân
phối chủ yếu dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh,
góp phần đẩy mạnh phân cơng lao động xã hội, hình thành quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng xã hội XHCN, một xã
hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế


độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu. Các hình thức sở hữu có thể
đan xen, hỗn hợp với nhau trên cơ sở 2 hình thức sở hữu cơ bản từ đó hình
thành nên nhiều thành phần kinh tế : tư nhân, quốc doanh, hợp doanh, liên

doanh, doanh nghiệp có vồn đầu tư nước ngồi......
Như đã nói ở trên, sở hữu về tư liệu sản xuất được coi là yếu tố hàng
đầu quyết định các mối quan hệ sản xuất, quyết định tới chế độ phân phối và
chế độ quản lí. Đó cũng là lí do vì sao muốn xố bỏ sự bóc lột, bất cơng thì
phải xố bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Trong thực tế, khoa học kĩ thuật đã được nước ta áp dụng tối đa để trở
thành lực lượng sản xuất quan trọng. Nếu như trước những năm giải phóng,
nền kinh tế nước ta chủ yếu là dựa vào nông nghiệp và 1 số nghề thủ công
( như chạm khảm, làm đồ mây nan tre.... ) với năng suất rất thấp, thậm chí cịn
khơng đủ để phục vụ nhu cầu trong nước thì đến năm 1986, với khoa học và
kĩ thuật, cơng nghiệp hố nơng nghiệp ( như sử dụng máy móc thay sức lao
động của người, sử dụng các loại giống cây trồng tốt cho năng suatá cao và
thích nghi được với khí hậu,mơi trường của Việt Nam.... ) thì sản lượng đã
tăng rất nhanh vừa thoả mãn nhu cầu trong nước vừa để xuất khẩu ( Việt Nam
là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới ) .
Đảng và nhà nước cũng đã định hướng rõ muốn phát triển lực lượng
sản xuất thì phải đầu tư vào giáo dục và cơ sở hạ tầng cho ngành giáo dục để
nâng cao nguồn nhân , đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố hiện đại hố đất
nước và phát triển kinh tế trí thức.
Tuy chủ trương và chính sách là cơng nghiệp hố - hiện đại hố nhưng
Đảng và nhà nước vần khẳng định ngành Nông nghiệp vẫn giữ vai trị chủ
đạo, tạo tiền đề cho cơng nghiệp phát triển. Bởi bản chất nước ta là 1 nước
nông nghiệp với những điều kiện tự nhiên phong phú để phát triển ngành này.
Mặc dù chúng ta cũng có những điều kiện tốt để phát triển công nghiệp nhưng


với trình độ lực lượng sản xuất như hiện nay thì khơng thể nhanh chóng xây
dựng 1 nền cơng nghiệp vững chắc, có sức cạnh tranh với các quốc gia khác
trên thế giới. Đồng thời cơ sở hạ tầng cũng chưa cho phép nước ta phát triển
ngành công nghiệp.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần
kinh tế tự do làm ăn, phát triển nhưng khơng được tách rời ra khỏi sự quản lí
của nhà nước. Nhà nước bằng pháp luật, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, kế
hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế
và phương pháp quản lí của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động, của toàn thể nhân
dân.
Nền kinh tế sản xuất hàng hố nhiều thành phần tự nó đã chứa đựng
những mâu thuẫn. Có những thành phần kinh tế vì lợi ích của mình có thể
hoạt động theo hướng Chủ nghĩa tư bản.Thành phần kinh tế quốc doanh, tập
thể mang tính chất xã hội chủ nghĩa nhưng chưa thích nghi được với cơ chế
thị trường, làm ăn kém hiệu quả nên ở đây diễn ra cuộc đấu tranh định hướng
gay gắt. Vì vậy để thực hiện được sự định hướng Xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện nền kinh tế nhiều thành phần thì sự lãnh đạo của Đảng và quản lí kinh tế
của Nhà nước giữ vai trò quyết định. Việc vận dụng các quan điểm của triết
học trong xây dựng và quản lí kinh tế có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng sâu
sắc.


PHẦN III: KẾT LUẬN
Ngày nay, khoa học công nghệ ngày càng phát triển hàm lượng chất
xám trong giá trị hàng hóa ngày càng cao thì vai trị của người lao động có tri
thức lại càng quan trọng, trong lực lượng sản xuất. V.L.Lênin đã chỉ ra: Lực
lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là người lao
động.
Nhìn lại, sau hơn 30 năm đổi mới, nhất là sau năm 2011 nhận thức của
chúng ta về mức độ quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày
càng tăng dần từ “phù hợp” đến “phù hợp từ thấp đến cao” và đến nay là “phù
hợp tiến bộ”. Trong đó, nhận thức về quan hệ sở hữu được đổi mới cơ bản

chuyển từ hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là chủ yếu, sang
nhiều hình thức sở hữu đan xen, hỗn hợp; xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các
thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế phải được cùng phát triển. Vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước được tăng cường. Khu vực doanh nghiệp nhà
nước được sắp xếp lại và đổi mới cơ chế hoạt động, trọng tâm là đẩy mạnh cổ
phần hoá theo nguyên tắc thị trường; tập trung vào những ngành, lĩnh vực
then chốt, hoạt động có hiệu quả hơn. Vai trị kinh tế tư nhân đã được thừa
nhận và được xác định là một động lực phát triển rất quan trọng của nền kinh
tế. Về cơ chế quản lý, trong quản lý nền kinh tế kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp chuyển hẳn sang cơ chế thị trường. Cơ chế quản lý vĩ
mô, vi mô trong thị trường, xã hội phải được thay đổi theo hướng hiện đại và
cơ chế vận hành nền kinh tế. Nhận thức về quan hệ phân phối đã đổi mới cả
về các yếu tố sản xuất và nguồn lực đầu vào, cả về kết quả sản xuất và sản
phẩm đầu ra, đặc biệt là phân phối thu nhập. Chế độ phân phối đã có đổi mới,
khắc phục một bước tính bình qn cào bằng; giải quyết việc làm, xố đói,
giảm nghèo, thực hiện chính sách với gia đình và người có cơng, chính sách
an sinh xã hội đạt kết quả tích cực; đời sống của nhân dân được cải thiện./.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- />- Wikipedia.com
- />- Giáo trình Triết học Mác-Lênin – ĐH BKHN
- Văn kiện đại hội Đảng CSVN
- Tạp chí nghiên cứu kinh tế thế giới
- Tạp chí triết học
- Hồ Chí Minh - tuyển tập




×