MR AN.NOOD/3B
1
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ-
XÃ HỘI
MR AN.NOOD/3B
2
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ-XÃ HỘI
MỤC LỤC
Câu 1: Khái niệm kinh tế thị trường? Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường 3
Câu 2: Phân tích đặc trưng nền kinh tế thị trường? So sánh nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung với nền kinh tế thị trường? 4
Câu 3: Phân tích nội dung QLNN về kinh tế? Liên hệ trong quản lý kinh tế hiện
nay? 10
Câu 4: Khái niệm văn hóa? Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển KT-XH? 10
Câu 5: Phân tích các vai trò của văn hóa đối với sự phát triển KT-XH? Liên hệ
vai trò của văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế nước ta hiện nay? 17
Câu 6: Phân tích nội dung quản lý nhà nước về văn hóa? Liên hệ vào việc thực
hiện nghị quyết của Đảng về xây dựng phát triển văn hóa Việt Nam, tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, hiện nay và tương lai? 22
Câu 7: Phân tích yêu cầu về nguồn nhân lực? Liên hệ với yêu cầu nguồn nhân
lực Việt Nam hiện nay? 27
Câu 8: Phân tích đặc điểm nguồn lao động Việt Nam hiện nay? Liên hệ với yêu
cầu thị trường lao động, nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay được xác định phát
triển như thế nào? 30
Câu 9: Nêu các quan điểm phát triển nguồn nhân lực Việt Nam? Nội dung quản
lý nhà nước về lao động và nguồn nhân lực? 31
MR AN.NOOD/3B
3
Câu 1: Khái niệm kinh tế thị trường? Các đặc trưng của nền kinh tế thị
trường?
Khái niệm KTTT:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường.
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế lấy khu vực kinh tế tư nhân làm chủ đạo.
Những quyết định kinh tế được thực hiện một cách phi tập trung bởi các cá nhân
người tiêu dùng và công ty. Việc định giá hàng hóa và phân bổ các nguồn lực của nền
kinh tế được cơ bản tiến hành theo quy luật cung - cầu. Trái với kinh tế thị trường là
kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
*) Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường:
Có 9 đặc trưng cơ bản là:
Quá trình lưu thông những sản phẩm vật chất và phi vật chất từ sản xuất đến
tiêu dùng phải được thực hiện bằng phương thức mua – bán.
Người trao đổi hàng hóa phải có quyền tự do nhất định khi tham gia trao đổi
trên thị trường ở 3 mặt sau đây:
+ Tự do lựa chọn nội dung trao đổi
+ Tự do lựa chọn đối tác trao đổi
+ Tự do thỏa thuận giá cả trao đổi, theo cách thuận mua vừa bán.
Hoạt động mua bán được thực hiện thường xuyên ổn định; trên cơ sở một
kết cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua bán diễn ra thuận lợi, an toàn.
Các đối tác hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích của
mình. Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp để phát triển kinh tế.
Cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị trường, là động lực thúc đẩy sự
tiến bộ kinh tế và xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có lợi
cho người tiêu dùng.
Sự vận động của các quy luật khách quan của thị trường dẫn dắt hành vi,
thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường.
Kinh tế thị trường hiện đại có 3 đặc trưng:
Có sự thống nhất về mục tiêu kinh tế với mục tiêu chính trị - xã hội, nhân
văn.
Có sự quản lý của nhà nước.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đang diễn ra với quy mô
ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở nên
một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận gắn bó hữu cơ với
các bộ phận khác.
MR AN.NOOD/3B
4
Câu 2: Phân tích đặc trưng nền kinh tế thị trường? So sánh nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung với nền kinh tế thị trường?
BÀI LÀM
A, Khái niệm
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá, dịch vụ trên thị trường.
- Kinh tế thị trường là nền kinh tế lấy khu vực kinh tế tư nhân làm chủ đạo.
Những quyết định kinh tế được thực hiện một cách phi tập trung bởi các cá nhân
người tiêu dùng và công ty. Việc định giá hàng hóa và phân bổ các nguồn lực của nền
kinh tế được cơ bản tiến hành theo quy luật cung - cầu. Trái với kinh tế thị trường là
kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
B, Phân tích cụ thể các đặc trưng của nền kinh tế thị trường:
Một là, quá trình lưu thông những sản phẩm vật chất, và phi vật chất từ
sản xuất đến tiêu dùng phải được thực hiện chủ yếu bằng phương thức mua - bán.
Bởi vì, có sự luân chuyển vật chất trong nền kinh tế là do có sự phân công
chuyên môn hóa trong việc sản xuất sản phẩm xã hội ngày càng cao, cho nên sản
phẩm trước khi trở thành hữu ích trong đời sống xã hội cần được gia công qua nhiều
khâu chuyển tiếp nhau. Bên cạnh đó, có những người, những doanh nghiệp, những
ngành, những vùng sản xuất dư thừa sản phẩm mà mình sản xuất nhưng lại thiếu
những sản phẩm khác, do đó giữa các chủ thể cần có sự trao đổi cho nhau.
Một nền kinh tế được gọi là nền kinh tế thị trường khi tổng lượng mua - bán
vượt quá nửa tổng lượng vật chất của xã hội .
Tuy nhiên, hiện nay phương thức đó gần như đã được thay thế bằng phương
thức mua – bán, việc trao đổi hàng đổi hàng hoặc việc phân phối hàng hóa của nhà
Nước không còn là phương thức chính nữa. Bởi lẽ, sự phân công chuyên môn hóa
trong việc sản xuất sản phẩm xã hội ngày càng cao, mỗi đơn vị chỉ sản xuất một hoặc
một số mặt hàng. Cá nhân hoặc đơn vị có nhu cầu về một mặt hàng nào đó, sẽ tiến
hành mua – bán với một cá nhân hoặc đơn vị khác và sẽ bán mặt hàng mà mình sản
xuất.
Thị trường mua – bán hiện nay ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng, đủ mọi
mặt hàng thuộc tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống trong cuộc sống từ đơn giản đến
tinh xảo, mẫu mã và giá cả phù hợp với người tiêu dùng.
VD: Ở nước ta không trực tiếp sản xuất được dầu tinh mà thay vào đó nước ta
đem bán dầu thô cho các nước phát triển có khả năng sản suất chế biến dầu tinh và
sau đó lại mua lại dầu tinh của các nước này.
Trước đây, khi chưa chuyển sang cơ chế thị trường, nền kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế tự cấp tự túc, mọi mặt hàng nằm trong tay Nhà nước, Nhà nước trực tiếp
quản lý và phân phối hầu hết mọi mặt hàng (vật liệu xây dựng, lương thực thực phẩm,
nhu yếu phẩm…), việc mua-bán diễn ra rất hạn chế, chỉ bao gồm một số mặt hàng
phục vụ cuộc sống hàng ngày.
Liên hệ :
MR AN.NOOD/3B
5
Hai là, người trao đổi hàng hóa phải có quyền tự do nhất định khi tham
gia trao đổi trên thị trường ở 3 mặt :
Tự do lựa chọn nội dung trao đổi.
Tự do lựa chọn đối tác trao đổi.
Tự do lựa chọn giá cả trao đổi, theo cách thuận mua vừa bán.
Có nghĩa là cá nhân hoặc đơn vị tham gia trao đổi hàng hóa có quyền tự do lựa
chọn mua cái gì? Của ai? Và với giá bao nhiêu?
Liên hệ:
Đây là đặc điểm khá riêng biệt để phân biệt kinh tế hàng hóa với những nền
kinh tế khác. Và nó càng được thể hiện rõ trong nền kinh tế Việt Nam.
VD: khi cá nhân muốn mua một chiếc áo ở chợ thì cá nhân đó có quyền chọn
mua áo kiểu mẫu như thế nào, của ai và có quyền trả giá cho chiếc áo đó bao nhiêu để
thuận mua - vừa bán.
Bên cạnh đó, ở nước ta, còn nhiều bất cập trong việc thực hiện cơ chế tự do
như trên, có thể lấy những ví dụ cụ thể như sau :
1, Trong việc tự do lựa chọn nội dung trao đổi, nếu Nhà Nước không quản lý
chặt chẽ và có biện pháp can thiệp kịp thời sẽ dẫn tới tình trạng tự do quá mức, ảnh
hưởng không chỉ đến sự phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng tới thuần phong mĩ tục
và lợi ích người tiêu dùng. ( Ví dụ như hiện tượng mua thần bán thánh, việc cấp phép
cho doanh nghiệp nhập rùa tai đỏ - một trong 100 loài xâm hại nguy hiểm nhất thế
giới vào nước ta, vụ việc nhập đồ chơi nguy hại cho trẻ em và sữa nhiễm melamine từ
Trung Quốc…).
2, Đối với việc tự do lựa chọn đối tác trao đổi và tự do thỏa thuận giá cả, hiện
nay đối với một số mặt hàng chủ thể trao đổi không thể thực hiện được quyền này của
mình, đó là những mặt hàng như điện, xăng dầu…thuộc độc quyền của Nhà Nước.
Ba là, hoạt động mua bán được thực hiện thường xuyên, ổn định, trên
cơ sở một kết cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua - bán diễn ra thuận lợi, an toàn.
Đây là đặc điểm của riêng nền kinh tế thị trường mà những nền kinh tế khác
không có được. Như vậy là đã có sự quan tâm tới điều kiện trao đổi trên thị trường,
nó chứng tỏ kinh tế đã thoát khỏi tình trạng trao đổi đơn thuần những sản phẩm dư
thừa nhằm thỏa mãn nhu cầu hàng ngày mà vấn đề lợi ích và lợi nhuận đã được quan
tâm.
Liên hệ :
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, nguồn đầu tư cho kinh
tế để hoạt động mua bán được thực hiện thường xuyên, ổn định, trên cơ sở một kết
cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua bán diễn ra thuận lợi, an toàn là tất yếu. Trong
đó có thể kể tới:
Hệ thống chợ, siêu thị, đại lý…phân bố khắp cả nước.
Hệ thống giao thông không ngừng được hoàn thiện, nâng cấp.
Tiềm năng điện quốc gia khá dồi dào.
VD: siêu thị fivimart – một trong những hệ siêu thị lớn nhất tại Việt Nam, siêu
thị này đáp ứng đầy đủ nhu cầu thiết yếu của người dân trên địa bàn.
Song song với những thuận lợi trên, ta cũng phải kể đến những hạn chế về cơ
sở hạ tầng của nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay:
Nhiều nơi vẫn tồn tại chợ cóc, chợ tạm gây cản trở giao thông.
Nhiều dự án xây dựng chưa được hoàn thành, gây thiệt hại kinh phí lớn.
MR AN.NOOD/3B
6
Bốn là, các đối tác hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều theo
đuổi lợi ích của mình. Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế nhưng lợi ích
cá nhân không được xâm phạm đến lợi ích của người khác và của cộng đồng.
Liên hệ :
Đặc điểm này nếu phát huy tốt, được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật thì
sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên quá chú ý tới lợi ích cá
nhân thì việc xâm hại tới lợi ích của chủ thể khác là điều tất yếu.
Điều này có thể thấy rõ trong nền kinh tế thị trường Việt Nam ở ví dụ của
công ty Vedan, công ty này đã nhiều năm liền xả nước thải xuống sông Thị Vải gây ô
nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng tới cuộc sống của hàng nghìn hộ dân. Rõ ràng, đây là
hành động xâm phạm tới lợi ích cộng đồng đáng lên án.
Đây cũng chính là điểm thiếu sót trong quản lý kinh tế của nước ta trong công
tác kiểm tra, thanh tra hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế cần được khắc
phục, nếu không tầm nguy hại sẽ không chỉ dừng lại ở một thế hệ, mà các thế hệ sau
cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Trong nền kinh tế mà người tiêu dùng có quyền tự do lựa chọn nội dung
trao đổi, nếu không cạnh tranh, chủ thể sẽ không thể bán được sản phẩm, tất yếu sẽ
dẫn tới thất thu, thậm chí phá sản.Để có thể cạnh tranh thì tất yếu sản phẩm phải đem
lại nhiều giá trị sử dụng hơn những sản phẩm khác, để sản phẩm đem lại nhiều giá trị
sử dụng hơn tất yếu phải có đầu tư về khoa học kĩ thuật, đội ngũ lao động có tay
nghề, đầu vào tốt…từ đó sẽ thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội.
VD: Hai công ty mạng viettel và vinaphone để thu hút khách hàng sử dụng
sản phẩm của công ty mình thì mỗi công ty đưa ra các chương trình khuyến mãi nhân
đôi thẻ cào cho thuê bao trả trước và miễn phí 10p đầu nội mạng cho thuê bao trả sau.
Song, bên cạnh những nét tích cực trên, nếu quản lý không tốt tất yếu sẽ
xảy ra cạnh tranh không công bằng giữa các chủ thể. Vì vậy, việc cạnh tranh phải
được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và sự quản lý của Nhà nước.
Sáu là, sự vận động của các quy luật khách quan của thị trường dẫn dắt
hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường.
Năm là, cạnh tranh là linh hồn của nền kinh tế thị trường, là động lực
thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ có lợi cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên, việc cạnh tranh phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật nà
sự quản lý của Nhà nước.
Liên hệ:
Ở nước ta hiện nay, sự cạnh tranh xuất hiện trong mọi lĩnh vực, trong đó
nổi bật nhất là trong lĩnh vực kinh tế.
VD: Ta có thể thấy rõ trong một ví dụ cụ thể: trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
viễn thông ở Việt Nam, giữa các nhà mạng có sự chạy đua cạnh tranh, kết quả là các
cột phát sóng được lắp đặt nhiều hơn trên toàn quốc, chất lượng dịch vụ tăng lên,
việc du nhập và phát triển mạng 3G, công cuộc quảng bá được đẩy mạnh tới gần hơn
với mọi người, các chương trình khuyến mãi, ưu đãi tri ân khách hàng được tiến hành
thường xuyên…đem lại lợi ích lớn hơn cho người tiêu dùng.
MR AN.NOOD/3B
7
Các quy luật khách quan của thị trường có thể kể tới như quy luật cạnh tranh,
quy luật cung cầu, quy luật giá trị… những quy luật điều tiết thị trường thông qua
việc dẫn dắt hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường.
Các quy luật khách quan của thị trường có thể kể tới như quy luật cạnh tranh,
quy luật cung cầu, quy luật giá trị… những quy luật điều tiết thị trường thông qua
việc dẫn dắt hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường.
VD: Trong thời gian gần đây, giá vàng liên tục tăng do nhu cầu trong nước
chưa đáp ứng, cầu vượt cung, giá vàng tăng từng giờ (hiện tại xấp xỉ ngưỡng 3,8 triệu
đồng/chỉ vàng), thêm vào đó do tâm lý người dân đổ xô đi mua vàng khiến thị trường
vàng trong nước sôi động hơn bao giờ hết. Trước tình hình đó Nhà nước đã cho phép
các doanh nghiệp tiếp tục nhập khẩu vàng nhằm làm giảm cơn sốt vàng trong nước.
Đơn cử theo quy luật cung cầu trong nền kinh tế thị trường, khi cung vượt
cầu lập tức các nhà cung cấp sẽ hạ giá thành sản phẩm, tiếp tục cải tiến nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm, áp dụng các chương trình khuyến mãi, còn khi cầu vượt
cung các nhà sản xuất sẽ tìm cách tăng giá sản phẩm, người tiêu dùng sẽ đổ xô đi
mua sản phẩm, dễ xảy ra tình trạng đầu cơ trên thị trường tiêu dùng.
VD: Vào dịp ngày lễ tình nhân thì nhu cầu về các mặt hàng như socola, hoa
tươi tăng cao vì vậy các doanh nghiệp cũng tăng lượng cung trên thị trường.
Bảy là, sự thống nhất về mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị - xã
hội nhân văn.
Kinh tế, chính trị, xã hội là ba phạm trù cơ bản trong xã hội, chúng có mối
quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau, sự biến đổi của một trong ba
yếu tố tất yếu dẫn tới sự thay đổi của hai yếu tố còn lại.
Kinh tế có sự tác động lớn đến chính trị, xã hội, nếu mục tiêu kinh tế không
thống nhất với mục tiêu chính trị, xã hội nhân văn, tất yếu sẽ xảy ra mâu thuẫn trong
xã hội ( ta có thể thấy rõ trong hậu quả của việc đô thị hóa phiến diện ở Trung Quốc
khiến khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ rệt trong xã hội, an sinh xã hội không
đươc đảm bảo.).
Sự thống nhất giữa chúng là luôn luôn cần thiết, nhất là trong nền kinh tế thị
trường.
Liên hệ:
Có được thành tựu như vậy, một phần không nhỏ là sự kết hợp thống nhất giữa
những mục tiêu kinh tế, chính trị và xã hội (Mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế-
Liên hệ:
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy ngoài sự vận động của những quy
luật khách quan thì hành vi, thái độ ứng xử của các chủ thể tham gia thị trường còn bị
điều chỉnh thông qua sự quản lý của Nhà Nước.
Nền kinh tế Việt Nam vốn đi lên từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp,
việc thống nhất mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị - xã hội nhân văn là vấn đề
cần thiết nhằm tạo động lực cho đất nước phát triển.
Tình hình kinh tế-xã hội năm 2010 phát triển theo chiều hướng tích cực, nền
kinh tế phục hồi khá nhanh trong điều kiện kinh tế thế giới vẫn còn nhiều diễn biến
phức tạp; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện;
chính trị, xã hội tiếp tục ổn định.
MR AN.NOOD/3B
8
xã hội năm 2010 là nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao
hơn năm 2009; tăng cường tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng
trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng đảm bảo an sinh xã hội; chủ
động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính
trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; phấn đấu hoàn
thành cao nhất các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 2006-2010 ).
Đồng thời, FED (Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ ) đã quyết định cắt giảm
thêm 0,5% lãi suất các khoản cho vay ngắn hạn từ 3,5% xuống còn 3% giữa các ngân
hàng thương mại. Đây là quyết định cắt giảm lãi suất thứ hai liên tiếp của FED chỉ
trong vòng 8 ngày để giúp nền kinh tế Mỹ tránh rơi vào suy thoái.
Liên hệ:
Với những công cụ quản lý vĩ mô như hiến pháp, luật, chính sách từng giai
đoạn, từng năm…Nhà nước thực hiện sự quản lý của mình trên mọi kĩnh vực thuộc
kinh tế và bên cạnh những hạn chế thì đã đạt được những thành tựu to lớn. cụ thể nhà
nước đã ban hành các luật như luật thương mại, luật môi trường, luật doanh nghiệp,
luật lao động…
Ví dụ, năm 2009, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng tâm hiệp lực của cả hệ
thống chính trị và của các tầng lớp nhân dân, đất nước ta đã vượt qua khó khăn, thách
thức gay gắt trong bối cảnh suy thoái, khủng hoảng kinh tế trầm trọng trên phạm vi
toàn cầu.
Trong đó, gói kích cầu của Chính phủ đã góp phần thực hiện được mục tiêu
ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô; các cân đối thu chi ngân sách Nhà
nước, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế… được đảm bảo; lạm phát được kiềm chế ở
mức thấp nhất; tốc độ tăng trưởng được duy trì hợp lý và bền vững.
Tuy nhiên nếu khắc phục được những hạn chế sau thì sẽ tạo nên sự toàn vẹn
trong quản lý kinh tế của nhà nước : tăng trưởng được dẫn dắt bởi đầu tư đã khiến
bội chi và thâm hụt ngân sách tăng cao. Thêm vào đó, mức tăng cung tiền lớn có thể
đẩy rủi ro lạm phát sang năm tới.
Chín là, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đang diễn
ra với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng tăng làm cho nền kinh tế thế giới ngày
Tám là, có sự quản lí của Nhà nước. Đặc trưng này được hình thành ở
các nền kinh tế thị trường trong vài thập kỉ gần đây, do nhu cầu không chỉ củaNhà
nước là người đại diện cho lợi ích của giai cấp cầm quyền, mà còn là nhu cầu của
chính những người tham gia kinh tế thị trường.
Cụ thể, trong mỗi quốc gia, Nhà nước với vai trò lãnh đạo và quản lí trên mọi
lĩnh vực cuộc sống trong mỗi, trong đó có kinh tế, hơn thế, những chủ thể tham gia
kinh tế cần có một chủ thể “ trung gian “ là nhà nước để quản lý, điều hòa khi cần
thiết. Vì vậy, sự quản lí của nhà nước là vô cùng cần thiết nhằm tạo ra môi trường
kinh doanh ổn định, công bằng, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, nhất là đối với nền
kinh tế thị trường.
VD: Chính sách của Nhà nước Hoa Kỳ trong việc kéo nền kinh tế tránh khỏi
suy thoái:
Đầu năm 2008, khi những dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế ngày càng rõ rệt,
ngay lập tức Nhà Trắng có khoản tiêm kích cầu trị giá 1% GDP vào nền kinh tế.
MR AN.NOOD/3B
9
càng trở nên một chỉnh thể thống nhất trong mỗi quốc gia là một bộ phận gắn bó hữu
cơ với các bộ phận khác.
Tuy nhiên để tiếp tục hội nhập và phát triển Việt nam cũng cần khắc phục
những thiếu sót : hệ thống chính sách kinh tế - xã hội đang trong quá trình hoàn thiện,
chưa đồng bộ, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý… có sự chênh lệch lớn so với các
nước phát triển.
C, so sánh nền KTKHHTT và nền KTTT
KTKHHTT KTTT
GIỐNG NHAU
- Là những nền kinh tế cơ bản của nền kinh tế nói chung.
- Đều có những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế như: được
thực hiện bằng phương thức mua-bán, có đối tác hoạt
động,…
- Vận động theo những quy luật nhất định của nền kinh tế
KHÁC
NHAU
Thời gian Diễn ra trước nền KTTT Diễn ra sau nền KTKHHTT
Thành phần
sở hữu về tư
liệu sản xuất
Chỉ có 2 thành phần: sở hữu
nhà nước và sở hữu tập thể
đươc thể hiện dưới dạng xí
nghiệp quốc doanh và hợp tác
xã
Có nhiều thành phần sở hữu
TLSX: sở hữu nhà nước, sở
hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở
hữu tư nhân,…
Cơ chế quản
lý của nhà
nước
Thông qua kế hoạch hóa là
khâu trung tâm
Thông qua các kế hoạch,
hoạch định trong từng thời
gian và thay đổi linh hoạt cho
phù hợp với hoàn cảnh
Động lực cơ
bản của sự
vận động
kinh tế
Sự giác ngộ cách mạng của
cán bộ,công nhân viên và kỷ
luật hành chính, được tạo ra
bởi công tác chính tri,công
tác tưởng, công tác động viên
tinh thần
Sự tự giác và cạnh tranh giữa
các chủ thể kinh tế với nhau
Vai trò của
nhà nước
Đóng vai trò chủ đạo, quyết
định mọi vấn đề
Đóng vai trò điều chỉnh, điều
hành hoạt động kinh tế
Liên hệ:
Trong khi kinh tế thị trường ngày càng phát triển, vượt ra khỏi biên giới quốc
gia thì việc hội nhập kinh tế là một tất yếu, không một quốc gia hay vùng lãnh thổ
nào lại có thể đứng ngoài quá trình này, trong đó có Việt Nam.
Trong những năm qua, với những chính sách phát triển kinh tế, Việt Nam đang
cố gắng hết mình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và đã đạt được những kết quả khả
quan như là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới : ASEAN,
APEC, ASEM… và nổi bật hơn cả là sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của tổ chức kinh tế thế giới WTO ngày 1/1/2007.
MR AN.NOOD/3B 10
Câu 3: Phân tích nội dung QLNN về kinh tế? Liên hệ trong quản lý kinh tế hiện
nay?
A, Nội dung quản lý nhà nước về kinh tế
*) Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ta:
- Khẳng định trước hết bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân
và vì nhân dân. Để quản lý kinh tế, Nhà nước đóng vai trò chủ thể quản lý, làm cho
nền kinh tế tăng trưởng, đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, tạo điều kiện để
nhân dân sống và làm ăn theo pháp luật;
- Về mặt Nhà nước, thì Nhà nước là cơ quan thực thi quyền lực của nhân dân,
bảo vệ lợi ích của quốc gia, chủ sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu; vận hành nền
kinh tế bằng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN;
Nền kinh tế thị trường ở nước ta còn sơ khai, cho nên vai trò của Nhà nước rất
nặng nề và quan trọng:
+ Nhà nước phải tạo điều kiện thúc đẩy thị trường ra đời phù hợp với xu hướng
thời đại, đồng thời phải điều tiết thị trường để nền kinh tế ổn định & phát triển.
+ Nhà nước phải kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh
hướng: phân hóa giàu nghèo quá mức và tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà
chà đạp lên nhân phẩm, đạo đức… đồng thời hạn chế và khắc phục khuyết điểm, yếu
kém của bộ máy Nhà nước.
+ Nhà nước phải vận hành nền kinh tế bằng cơ chế quản lý mới, định hướng
XHCN phù hợp với bản chất của Nhà nước ta.
Tóm lại:
Nhà nước tạo lập đồng bộ các loại thị trường, quản lý, điều tiết nhịp nhàng, có
hiệu lực làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
*) Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế:
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, được vận hành bằng cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
được xác định là chức năng quản lý kinh tế vĩ mô với các nội dung cơ bản như sau:
- Thứ nhất, Nhà nước phải tạo được môi trường và điều kiện cho hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội cho sự phát triển của nền kinh tế. Duy trì pháp luật trật tự an toàn
xã hội, thi hành nhất quán các chính sách & thể chế theo hướng đổi mới, ổn định môi
trường kinh tế vĩ mô, khống chế lạm phát, điều tiết các quan hệ thị trường.
Tạo môi trường tâm lý, trong quá trình nhận thức của cán bộ đảng viên và nhân
dân phải hiểu cơ chế thị trường, nhận thức được tính hai mặt của cơ chế.
- Thứ hai, phải dẫn dắt & hỗ trợ những nổ lực phát triển thông qua chiến lược,
kế hoạch, các chính sách kinh tế, sử dụng có trọng điểm các nguồn lực kinh tế quốc
doanh, tạo nguồn lực để phát triển kinh tế Nhà nước trong những ngành, những lĩnh
vực trọng yếu như: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng,
BHXH, những cơ sở sản xuất và thương mại dịch vụ quan trọng, một số doanh
MR AN.NOOD/3B 11
nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng – an ninh, khai thông
các quan hệ kinh tế.
- Thứ ba, Nhà nước phải hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội. Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, ngay trong từng bước và
trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở khâu phân phối tư
liệu sản xuất lẫn ở khâu kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có
cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo; thu
hẹp khoảng cách và trình độ phát triển về mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân
cư, giải quyết việc làm cho người lao động.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn,
đáp nghĩa”, nhân hậu. vv…
-Thư tư, Nhà nước phải tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động trong nền
kinh tế trên lĩnh vực sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia, bảo vệ môi trường, trật tự
kỹ cương của nền kinh tế.
Nhà nước ta vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị
trường - hội nhập kinh tế quốc tế, mọi hoạt động diễn ra rất đa dạng, phức tạp, các
thành phần kinh tế vừa hỗ trợ hợp tác, vừa đấu tranh, mâu thuẩn lẫn nhau trong quan
hệ kinh tế thị trường thường xuyên xảy ra. Hoạt động sản xuất kinh doanh trên các
ngành nghề có thể làm ô nhiễm môi trường, có thể có tác hại đến nguồn tài nguyên
thiên nhiên, nạn gian lận thương mại… đều có thể xảy ra. Vì vậy Nhà nước không thể
buông lỏng sự quản lý của Nhà nước trên tất cả các hoạt động của nền kinh tế phát
triển theo định hướng chứ không thể để nó tự phát được.
*) Nhà nước cần hoàn thiện công cụ quản lý vĩ mô:
Nội dung quản lý vĩ mô của Nhà nước được thực hiện bằng việc sử dụng hệ
thống các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Do đó, quá trình đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế phải gắn với quá trình đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô quan
trọng:
- Xây dựng chiến lược, kế hoạch, chương trình kinh tế - xã hội để định hướng
cho sự vận động của nền kinh tế thị trường.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được xem như là sự lựa chọn có căn cứ
khoa học của các mục tiêu dài hạn và cơ bản của quá trình phát triển kinh tế - xã hội
gắn với chọn lọc các phương tiện, biện pháp chủ yếu để đạt được mục tiêu đó.
Chiến lược được cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo những cân đối chủ yếu cho nền kinh tế và
định hướng cho sự vận động của nền kinh tế.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Vì hệ thống pháp luật là cơ sở
pháp lý cho hoạt động đầu tư, kinh doanh trong cơ chế thị trường, duy trì trật tự, kỹ
cương kinh tế, điều chỉnh hành vi. Do đó cần phải đổi mới việc xây dựng ban hành,
thực thi luật pháp theo đúng yêu cầu của việc tổ chức quản lý kinh tế - xã hội trong
MR AN.NOOD/3B 12
cơ chế thị trường, đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống, phù hợp với luật pháp và thông lệ
quốc tế, tăng cường pháp chế để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật.
- Sử dụng các công cụ tài chính - tiền tệ - giá cả là những công cụ chủ yếu của
quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường, bởi lẽ kinh tế thị trường thực chất
là kinh tế tiền tệ. Vì vậy Nhà nước cần nắm các công cụ này, sử dụng linh hoạt các
hình thức, biện pháp tài chính, giá cả phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng XHCN.
- Tiếp tực cải cách và xây dựng hệ thống tài chính, tiền tệ thành công cụ điều
tiết vĩ mô nhạy bén và phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Trong nền kinh tế thị
trường, ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc quản lý vĩ mô trên mọi
lĩnh vực: điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, chống lạm phát, định hướng phát triển
sản xuất, hoạt động đầu tư.
- Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng vừa bảo đảm nguổn thu ngân
sách nhà nước, vừa khuyến khích sản xuất kinh doanh và thúc đẩy thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng để tăng tích lũy.
Chính sách thuế là một bộ phận trọng yếu của nền tài chính quốc gia, có liên
quan đến nhiều mối quan hệ kinh tế, xã hội và đời sống của nhiều tầng lớp dân cư.
Đối với hoạt động quả lý của Nhà nước, thuế không chỉ giữ vai trò là nguồn thu chủ
yếu của Nhà nước để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ trên mọi lĩnh vực của Nhà
nước, mà còn giữ vai trò là công cụ quản lý vĩ mô.
Kiên quyết thực hiện đạt yêu cầu các luật thuế mới hiện hành, đơn giản hóa hệ
thống thuế và biểu thuế suất, nâng tính ổn định của thuế. Bổ sung thuế và phí sử dụng
tài nguyên không tái tạo. Xây dựng quy chế đảm bảo chi ngân sách tiết kiệm và có
hiệu quả, nâng dần tỷ lệ chi đầu tư và phát triển, kềm chế bội chi ngân sách.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, thuế là công cụ điều tiết
áp lực cạnh tranh, bảo hộ sản xuất trong nước, điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu và
thực hiện chính sách kinh tế mở cửa.
- Chính sách giá cả (bao gồm giá cả hàng hóa và giá cả đồng tiền). Trong kinh
tế thị trường, là cơ sở để bố trí tài nguyên và kinh doanh sản xuất nó nẩy sinh thông
qua thị trường và phản ảnh nhanh nhạy cung – cầu của nền kinh tế. Sự giao động kinh
tế của nền kinh tế quốc dân, trước tiên biểu hiện ở sự giao động về giá cả, cho nên
quản lý giá cả bằng chính sách giá chính là một trong những nội dung chủ yếu về sự
can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường như: điều tiết quan hệ cung –
cầu, điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, các ngành kinh tế, điều tiết
quan hệ cạnh tranh, môi trường kinh tế để chống đột biến xấu từ lạm phát, bảo hộ các
hoạt động sản xuất kinh doanh.
*) Ba nội dung cơ bản của chính sách giá cả là:
+ Nhà nước trực tiếp đối với một số ít sản phẩm cơ bản có tính chất chiến lược
phục vụ cho xã hội như: Than, dầu mỏ, điện, hàng không, bưu điện… Tuy nhiên,
từng bước thu hẹp tỷ trọng Nhà nước định giá và mở rộng tỷ trọng giá Nhà nước chỉ
đạo và giá thị trường điều tiết.
MR AN.NOOD/3B 13
+Nhà nước chỉ đạo mức giá, quản lý gián tiếp là hình thức quản lý giá thông qua
việc xác định khung mức giá trong giá cả hàng hóa. Hình thức này, đòi hỏi phải điều
chỉnh thường xuyên giá cả để làm cho nó tiếp cận với giá thị trường.
+Khống chế từng mức giá cả có mục đích, đảm bảo sự ổn định cơ bản tổng mức
giá cả & biện pháp khống chế từng mức giá cả là hệ thống các biện pháp như: biện
pháp hành chính, biện pháp tài chính, biện pháp tiền tệ, biện pháp khống chế lương &
hối suất…
- Chính sách tiền tệ: Ngân hàng là “linh hồn của nền kinh tế thị trường” được
Nhà nước sử dụng để điều tiết tiền tệ trong lưu thông xác lập môi trường tài chính
lành mạnh, phù hợp với yêu cầu đầu tư phát triển kinh tế kinh tế và là công cụ để
thực hiện chiến lược tài chính, tiền tệ quốc gia. Vai trò đó được thực hiện thông qua
việc tổ chức hoạt động ngân hàng 2 cấp trong nền kinh tế thị trường, đó là Ngân hang
nhà nước và Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kinh
doanh tiền tệ, cung ứng và điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền.
Các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, thực hiện
các dịch vụ tài chính, ngân hàng. Công cụ cơ bản để sử dụng trong hệ thống ngân
hàng là hệ thống luật, văn bản dưới luật, lãi suất, chiếc khấu, hệ thống thị trường tài
chính, tiền tệ.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng giữ được vai trò là trung tâm tín dụng, trung
tâm tiền tệ, trung tâm thanh toán và từ đó có thể khống chế, kiểm soát, điều chỉnh
hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Do đó, trong điều kiện kinh tế thị trường, Ngân
hàng giữ vai trò công cụ vĩ mô của Nhà nước.
Tóm lại:
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường sẽ tồn
tại lâu dài – suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Các thành phần hoạt động sản
xuất kinh doanh đan xen nhau, vừa hỗ trợ thúc đẩy, lại vừa cạnh tranh mâu thuẩn đối
lập thường xuyên xảy ra. Mặt trái của cơ chế thị trường mâu thuẩn với bản chất của
XHCN, đó là xu hướng phân hóa giàu nghèo quá mức, tâm lý sùng bái đồng tiền và
vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm của con người. Vì vậy, quản lý Nhà
nước về kinh tế là một yêu cầu cần thiết - khách quan, nhằm quản lý các thành phần
kinh tế và thị trường hoạt động theo định hướng XHCN, theo quan điểm: tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Bằng những công cụ của mình, Nhà nước ta thực hiện được các chức năng quản
lý Nhà nước về kinh tế, đưa nề kinh tế xã hội phát triển, thực hiện mục tiêu làm cho
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh – vững bước tiến lên Chủ
nghĩa xã hội – con đường mà Đảng – Bác Hồ và Nhân dân ta hằng mong ước./.
MR AN.NOOD/3B 14
Câu 4: Khái niệm văn hóa? Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển KT-
XH?
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong
quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc
tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và
phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là
trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình
thức tổ chức đời sống và
hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con
người tạo ra.
Vai trò của văn hóa:
1. Văn hóa là mục tiêu phát triển KT-XH;
2. Văn hóa là nền tảng sự phát triển kinh tế- xã hội;
3. Văn hóa là động lực cho sự phát triển KT-XH;
4. Văn hóa là hệ điều tiết sự PT KT-XH;
Trong sự phát triển của xã hội, kinh tế và văn hoá luôn luôn có mối quan hệ
hữu cơ và tác động qua lại chặt chẽ. Tuy nhiên, tới các thập kỷ gần đây, vấn đề phát
triển kinh tế phải dựa trên nền tảng của phát triển văn hoá mới được đặt ra, được
khẳng định là một quy luật tất yếu khách quan của phát triển. Vì thế, sự phát triển của
mỗi quốc gia - dân tộc chỉ có thể trở nên năng động, hiệu quả, bền vững chừng nào
quốc gia đó đạt được sự kết hợp hài hoà giữa kinh tế với văn hoá trong tiến trình phát
triển.
Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của văn hoá với tư cách
là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Lịch sử phát triển của
loài người cho thấy, ở bất kỳ thời kỳ nào, với bất kỳ quốc gia nào, con người cũng
đều đóng vai trò quyết định với quá trình sản xuất, mà trước hết, họ là một thực thể
văn hoá. Tố chất con người (tinh thần yêu nước, trình độ khoa học công nghệ, tinh
thần tổ chức xã hội, tính nhân văn ) có ý nghĩa quyết định làm nên sức mạnh của
văn hoá ở mỗi quốc gia - dân tộc. Và do đó ở thời kỳ hiện đại, nói đến tiềm năng phát
triển của mỗi quốc gia, người ta không chỉ nói tới tài nguyên thiên nhiên, mà phải nói
tới yếu tố quyết định là văn hoá, được thể hiện qua năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng,
đạo đức của con người ở quốc gia đó
Với chức năng định hướng, đào tạo con người theo các giá trị chân - thiện -
mỹ, văn hoá có khả năng xây dựng, làm hình thành trong phẩm chất của mọi thành
viên xã hội ý thức phát huy các tiềm năng về thể lực, trí lực và nhân cách để đóng
góp vào sự nghiệp phát triển của dân tộc. Thời hiện đại, sự phát triển của một số quốc
gia ở Đông Á, đã đưa tới một số bài học cần tham khảo. Như Nhật Bản và Hàn Quốc
chẳng hạn, một trong các yếu tố cơ bản trực tiếp góp phần làm nên nhịp độ phát triển
nhanh chóng của hai quốc gia này là đã biết phát huy các đặc điểm ưu việt của nền
văn hoá truyền thống vào quá trình phát triển, thông qua hệ thống giáo dục và hoạt
động văn hoá có đầu tư thích đáng về con người và phương tiện vật chất. Họ không
để cho làn sóng của văn minh hiện đại và giao lưu văn hoá ồ ạt lấn át các cơ sở văn
hoá truyền thống được xây dựng qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc, như tinh
MR AN.NOOD/3B 15
thần lao động có kỷ cương, tính hợp lý trong điều hành xã hội và mối quan hệ gia
đình, thân tộc Cho nên không ngẫu nhiên, UNESCO khẳng định rằng, nước nào tự
đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời khỏi môi trường văn hoá thì nhất
định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hoá, và tiềm năng sáng
tạo của những dân tộc ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều.
Chúng ta xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, và điều Đảng ta khẳng định: văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đã chỉ rõ vai trò cực
kỳ quan trọng của văn hoá đối với sự phát triển của đất nước. Vì vậy, cần nhận thức
sâu sắc về vị trí, vai trò của văn hoá trong sự nghiệp đổi mới.
Dù chứa đựng một số giá trị mang tính nhân loại phổ biến, thì khi nói đến văn
hoá của mỗi dân tộc, là nói tới đặc trưng riêng, tới hệ thống giá trị văn hoá riêng của
dân tộc đó. Đây là di sản quý báu, đã được tích luỹ, trao truyền và bổ sung qua nhiều
thế hệ, và chính các đặc điểm riêng trong sự sinh tồn của dân tộc đã làm cho văn hoá
mang bản sắc riêng. Đồng thời với quá trình tích luỹ, trao truyền và bổ sung ấy, văn
hoá của dân tộc còn tiếp nhận một số tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác thông
qua quá trình tiếp biến văn hoá, và động thái này đã làm cho văn hoá vừa đậm đà bản
sắc dân tộc, vừa có tính thời đại, tính nhân loại, phù hợp với sự phát triển kinh tế.
Điều đó có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thời kỳ cách mạng khoa học và công
nghệ, trước xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ. Do vậy, sự phát triển đòi hỏi
phải nâng cao vai trò, vị thế của văn hoá trong hoạt động kinh tế, văn hoá khơi dậy
mọi tiềm năng sáng tạo của con người, quyết định sự tăng trưởng và phát triển bền
vững. Và cũng do vậy, trong xã hội hiện đại, con người phải được xã hội tạo điều
kiện và phải tự mình xây dựng yếu tố nền tảng của văn hoá là sự hiểu biết, là tri thức,
kinh nghiệm, là phong cách ứng xử, là nhận thức về cống hiến và hưởng thụ , trong
quá trình học tập, lao động để duy trì, phát triển cuộc sống. Các yếu tố này, nếu được
khai thác, phát huy sẽ trở thành một động lực to lớn đối với sự phát triển kinh tế.
Cùng với quan điểm khách quan, khoa học trong việc tiếp thu tinh hoa tốt đẹp
của văn hoá nhân loại, Đảng ta khẳng định, bản sắc văn hoá, tinh thần dân tộc là
nguồn tài nguyên của dân tộc, của đất nước. Có thể nói rằng, trong lịch sử hàng chục
thế kỷ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta, nguồn lực quan trọng nhất trong
truyền thống văn hoá là tinh thần yêu nước, chủ nghĩa yêu nước. Từ khi ra đời, Đảng
ta đã động viên, bồi dưỡng và cổ vũ toàn dân phát huy cao độ tinh thần yêu nước để
giành lại, giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tế cho thấy,
những thành tựu to lớn mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được trong hơn
nửa thế kỷ qua có vai trò của bản lĩnh, của bản sắc văn hoá Việt Nam, của sức mạnh
của văn hoá Việt Nam.
Chúng ta đang trong quá trình hội nhập thế giới, và toàn cầu hoá là cơ hội để
văn hoá Việt Nam học hỏi và phát huy các giá trị của mình. Song chính lúc này,
chúng ta phải đối mặt với các thách thức của quá trình toàn cầu hoá khi nó trực tiếp
tác động tới văn hoá dân tộc. Cụ thể là, tác động của một số yếu tố tiêu cực từ toàn
cầu hoá có khả năng cổ suý cho lối sống tiêu thụ thực dụng, làm tha hoá nhân cách,
rối loạn một số giá trị xã hội, đặt không ít hoạt động văn hoá và không ít quan hệ xã
hội trước nguy cơ bị thương mại hoá Vì thế, hơn lúc nào hết, văn hoá phải góp phần
MR AN.NOOD/3B 16
bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá đích thực, vì sự phát triển của xã hội và con
người, để thúc đẩy, hướng dẫn sự phát triển trước những thách thức của toàn cầu hoá
và mặt trái của kinh tế thị trường.
Như vậy, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, mở rộng quan hệ quốc tế,
muốn đạt tới các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay và về
lâu dài, một trong các vấn đề quan trọng trước hết là chúng ta cần triển khai thực hiện
các quan điểm như Nghị quyết Trung ương (khoá VIII) và Kết luận Hội nghị lần thứ
10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) khẳng định: Văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy công cuộc xây dựng Chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc mang nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kế thừa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Điều
đó đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục củng cố, phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng; và văn hoá đó phải là tổng
hoà các tinh hoa văn hoá của các dân tộc anh em cùng chung sống trên đất nước Việt
Nam. Văn hoá đó phải giữ vị trí là bộ phận cấu thành bản chất của xã hội, là bộ phận
cấu thành phẩm chất của mỗi người trong xã hội. Văn hoá đó phải trực tiếp góp phần
xây dựng đất nước và con người Việt Nam của thời đại mới.
MR AN.NOOD/3B 17
Câu 5: Phân tích các vai trò của văn hóa đối với sự phát triển KT-XH?
Liên hệ vai trò của văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế nước ta hiện nay?
Vai trò của văn hóa:
1. Văn hóa là mục tiêu phát triển KT-XH;
2. Văn hóa là nền tảng sự phát triển kinh tế- xã hội;
3. Văn hóa là động lực cho sự phát triển KT-XH;
4. Văn hóa là hệ điều tiết sự PT KT-XH;
Vai trò của văn hóa trong quá trình phát triển đất nước
- Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng
tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm
cung cấp năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng
hoàn thiện.
Trong vài thập kỷ trước đây, có một số nước cho rằng: chỉ cần tăng trưởng
kinh tế với việc sử dụng cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc phát triển sử dụng
khoa học công nghệ cao là có sự phát triển. Sau một thời gian thực hiện kết quả cho
thấy, các quốc gia đó đạt được một số mục tiêu về tăng trưởng kinh tế nhưng đã vấp
phải sự xung đột gay gắt trong xã hội, sự suy thoái về đạo đức, văn hóa ngày càng
tăng. Từ đó, kéo theo kinh tế phát triển chậm lại, mất ổn định xã hội tăng lên và cuối
cùng là sự phá sản của các kế hoạch phát triển kinh tế, đất nước rơi vào tình trạng suy
thoái, không phát triển được. Đây là quan niệm phát triển nhanh bằng cách hi sinh
các giá trị văn hóa – xã hội cho sự phát triển. Trên thực tế đã bị phá sản.
Từ thực tế đó, một số nước đã lựa chọn mô hình: tăng trưởng kinh tế, cùng với
việc phát triển tài nguyên con người, bảo vệ môi trường sinh thái. Mô hình này, tuy
tăng trưởng kinh tế không nhanh, nhưng lại bền vững, xã hội ổn định. Đây là quan
niệm phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, được các nhà khoa học, các
chính khách thừa nhận. Từ đó, cho rằng: Phát triển là một quá trình nội sinh và tự
hướng tâm của sự tiến hóa toàn cục đặc thù cho mỗi xã hội. Vì vậy, cho nên ở đây có
sự tương đồng về nghĩa và khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa phát triển và văn hóa.
Văn hóa bao trùm tất cả các phương diện của hoạt động xã hội.
Vậy văn hóa là gì? Hiện nay vẫn đang còn có nhiều định nghĩa về văn hóa, bởi
lẽ văn hóa là sản phẩm do lao động của con người tạo ra mà hoạt động lao động của
con người rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ đó đi đến việc tạo ra
những quan niệm cụ thể khác nhau: văn hóa du lịch; văn hóa kinh doanh, văn hóa ẩm
thực … Ở đây trong bài viết này trình bày khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng được
nhiều nhà nghiên cứu tán thành. Đó là: Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh
thần do lao động của người sáng tạo ra, được cộng đồng khẳng định tích lũy lại, tạo
ra bản sắc riêng của từng tộc người, từng xã hội. Trong Nghị quyết Trung ương 5 (
Khóa VIII), Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất
và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng
nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh
thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm
hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
MR AN.NOOD/3B 18
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng tạo ra,
chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp năng
lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, xa rời trạng
thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát triển thành con người. Con người tồn tại,
không chỉ cần những sản phẩm vật chất mà còn có nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn
hóa tinh thần, con người và xã hội loài người càng phát triển thì nhu cầu văn hóa tinh
thần đòi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần đó chính là đảm bảo
sự phát triển ngày càng nhiều của cải vật chất cho con người và xã hội.
Trên ý nghĩa đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là mục tiêu
của sự phát triển. Vì xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà
văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã
hội, làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa là ngày
một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới một cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng
như của cả cộng đồng được bồi dưỡng; phát huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn
mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân
loại và là mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là một
nội dung quan trọng của Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng
Văn hóa là động lực của sự phát triển, bởi lẽ mọi sự phát triển đều do con
người quyết định chi phối. Văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của
con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng góp vào sự phát
triển xã hội.
Trước đây, để phát triển kinh tế, người ta thường nhấn mạnh và khai thác yếu
tố lao động của con người cho sự phát triển. Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định cho sự phát triển là trí tuệ, là
thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng nhằm tạo ra những giá trị vật chất và
tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của mỗi người cũng
như của toàn xã hội.
3.Văn hóa là động lực cho sự phát triển;
Trong thời đại ngày nay, một nước giàu hay nghèo không chỉ ở chỗ có nhiều
hay ít lao động, vốn, kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên, mà chủ yếu ở chỗ có khả
năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người hay
không? Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là
trong ý chí tự lực, tự cường và khả năng hiểu biết, trong tâm hồn, đạo lý, lối sống,
trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.
Một chính sách phát triển đúng đắn là chính sách làm cho các yếu tố cấu thành
văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người: văn hóa trong sản
xuất, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong lối sống, văn hóa trong giao tiếp, văn hóa
trong sinh hoạt gia đình, ngoài xã hội, văn hóa trong giao lưu và hợp tác quốc tế…
Nói cách khác, hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống
con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng trở nên
hiện thực bấy nhiêu.
MR AN.NOOD/3B 19
4. Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển. Bởi lẽ, văn hóa phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của các điều kiện
bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển được hài hòa, cân đối, lâu bền.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của nó là
chân, thiện, mỹ (cái đúng, cái tốt, cái đẹp) để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động
không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất hàng
hóa với số lượng ngày càng nhiều với chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu
không ngừng tăng lên của xã hội; mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị
truyền thống, của đạo lý, dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái hàng hóa, sùng bái
tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng tiêu cực của hàng hóa và đồng tiền “xuất hiện với
tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản chất con người, cũng như những
mối liên hệ khác”. Hạn chế những tiêu cực này chỉ có thể là văn hóa và chủ yếu bằng
văn hóa.
Toàn cầu hóa kinh tế quốc tế là một xu thế, đòi hỏi chúng ta phải chủ động và
tích cực hội nhâp. Đây là cơ hội để chúng ta phát triển nhanh có hiệu quả, nhưng
cũng là thách thức rất lớn với nước ta trên nhiều mặt, trong đó có cả văn hóa. Sự
thâm nhập của văn hóa độc hại, của sự lai căng văn hóa, của lối sống thực dụng và
những tiêu cực khác của kinh tế thị trường…, đã và đang ảnh hưởng, làm băng
hoại những giá trị văn hóa truyền thống, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của đất
nước…
Cần phải hiểu rằng về mặt kinh tế, việc thực hiện chính sách hội nhập để tăng
cường liên kết, liên doanh với nước ngoài là rất cần thiết. Song, mọi yếu tố ngoại sinh
như vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường của nước ngoài chỉ
có thể biến thành động lực bên trong của sự phát triển, nếu chúng được vận dụng phù
hợp và trở thành các yếu tố nội sinh của con người Việt Nam với truyền thống văn
hóa, đạo đức, tâm hồn, lối sống của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở kiến thức khoa
học, kinh nghiệm và sự tỉnh táo, khôn ngoan, chúng ta cần giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập, phát triển. Bởi lẽ, nền văn hóa dân tộc
sẽ đóng vai trò định hướng và điều tiết để hội nhập và phát triển bền vững, hội nhập
để phát triển nhưng vẫn giữ vững được độc lập, tự chủ. Hợp tác kinh tế với nước
ngoài mà không bị người ta lợi dụng, biến mình thành kẻ đi vay nặng lãi, thành nơi
cung cấp nguyên liệu và nhân công giá rẻ, thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp
nhận chuyển giao những công nghệ lạc hậu, tiếp nhận lối sống không lành mạnh với
những ảnh hưởng văn hóa độc hại…
Vì sự phát triển bền vững, văn hóa phê phán lối sống thực dụng, chụp giật,
chạy theo ham muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái. Như vậy, văn hóa đã góp phần quan trọng vào
vấn đề bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững
Văn hóa truyền thống Việt Nam hướng dẫn và cổ vũ một lối sống hòa hợp, hài
hòa với thiên nhiên. Nó đưa ra mô hình ứng xử có văn hóa của con người đối với
thiên nhiên, vì sự phát triển bền vững của thế hệ hiện nay và các thế hệ con cháu mai
sau.
Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha
hóa. Thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
MR AN.NOOD/3B 20
đất nước mà xa rời những giá trị văn hóa truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc,
đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.
Nhận thức sâu sắc giá trị của văn hóa trong quá trình phát triển, Đảng ta xác
định tiến hành đồng bộ và gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt cùng với việc xây dựng
văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội nhằm tạo nên sự phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững của đất nước. Trong đó, nội dung xây dựng văn hóa được xác định: “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, một định hướng quan
trọng để đất nước phát triển bền vững.
* Tham khảo thêm :
Vai trò, vị trí của văn hoá trong phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển văn hoá trong thời đại ngày nay để phục vụ chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội cần được nhìn nhận theo một quan điểm mới. Văn hoá đang đóng một
vai trò quan trọng chưa từng có trong lịch sử. Sự tiến bộ hay lạc hậu của một cá nhân,
phát triển hay trì trệ của dân tộc, thành công hay thất bại của chiến lược phát triển và
sự hưng thịnh của quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào vấn đề văn hoá đã được nhận
thức và sử dụng như thế nào trong phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước phát triển phương Tây,
bắt đầu nhận thức lại vai trò và vị trí của văn hoá trong sự phát triển chung của xã
hội. Lịch sử phát triển của phương thức công nghiệp hoá cổ điển đã làm nhiều nước
phải quan tâm: phương thức này đã dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng giữa kinh tế
và văn hoá, giữa con người với môi trường tự nhiên. Trong giai đoạn này xuất hiện
một sự phát triển mất cân đối: hi sinh các giá trị tinh thần và văn hoá để phát triển các
giá trị vật chất. Đặc biệt xuất hiện những hậu quả, thảm hoạ do nền văn minh công
nghiệp tạo ra như khủng hoảng môi trường sinh thái, lãng phí cạn kiệt tài nguyên, bất
bình đẳng xã hội và khoảng cách giàu nghèo giữa các nước tăng lên đang đè nặng
lên nhân loại. Những sản phẩm, thành tựu của khoa học kĩ thuật hiện đại lại thù địch
với con người; sản sinh ra chủ nghĩa kinh tế thuần tuý, chủ nghĩa kĩ trị, những học
thuyết phi nhân hoá, đồ vật hoá con người. Một hiện tượng đang thu hút sự quan tâm
của thế giới là sự vươn lên của những nước công nghiệp mới (NIC) được gọi là các
"con rồng châu Á". Nhiều nhà kinh tế phương Tây cho rằng được như vậy là nhờ các
nước này đã kết hợp thành công những thành lựu của khoa học công nghệ phương
Tây với truyền thống văn hoá của dân tộc mình để tạo ra sự cân đối giữa vàn hoá, xã
hội và kinh tế.
Vì thế, từ kinh nghiệm của các dân tộc, các nước phát triển cho thấy chúng ta
phải xây dựng lại lí thuyết phát triển, thừa nhận “tính nhiều cạnh của sự phát triển”
mà chiều cạnh văn hoá là không thể xem nhẹ. Trong đó vấn đề “văn hoá và phát
triển” thực chất là nhìn nhận lại quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hoá theo
quan điểm phát triển hiện đại: Hơn ba thập niên qua, trên 90% số nước trên thế giới
sau khi giành được độc lập đã thất bại trong chính sách mở cửa để phát triển kinh tế,
nguyên nhân là không giải quyết được mối quan hệ giữa các yếu tố nội sinh và ngoại
nhập. Loài người đang ở ngưỡng cửa của nền "văn minh trí tuệ", chính văn hoá hiện
đại đóng vai trò "phần mềm", còn công nghệ tiên tiến là "phần cứng".
Quan điểm hiện đại về sự phát triển đòi hỏi xem văn hoá như một động lực quan
trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội kinh nghiệm của Việt Nam cho thấy điều
MR AN.NOOD/3B 21
đó. Suốt cả thời gian hơn hai phần ba thế kỉ qua, Đảng ta đã khẳng định con người là
vốn quí, luôn coi trọng tính đồng bộ giữa kinh tế và vàn hoá. Trong các cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã huy động sức mạnh của văn hoá đế thâm nhập vào
quần chúng, biến thành sức mạnh vật chất đánh bại kẻ thù, giải phóng đất nước. Sau
Đại hội Đảng lần thứ VI. các nghị quyết và hệ thống chính sách về phát triển nền
kinh tế thị trường đã có tác động lớn trong việc giải phóng tiềm năng sáng tạo thúc
đẩy sản xuất phát triển. Mặt khác, phải giải quyết nhiệm vụ tăng cường khả năng
cạnh tranh kinh tế trên cơ sở bảo tồn và nâng cao các giá trị văn hoá để phát triển đất
nước. Văn hoá là yếu tố đồng hành chỉ dẫn chất lượng sống trong các quan hệ của
con người với thực tại.
Trong giai đoạn hiện nay văn hóa có các vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế
- xã hội:
- Văn hóa là nền tảng của sự phát triển.
- Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển.
- Văn hóa là động lực của sự phát triển.
- Văn hóa là sự điều tiết của sự phát triển.
Tóm lại, quan điểm hiện đại về sự phát triển đòi hỏi xem văn hoá như động lực quan
trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững
của đất nước. Thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng IX đã
đề ra, Đảng ta lại nhấn mạnh sự kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa, cùng với huy động mọi nguồn lực trong nước, nâng cao hiệu quả quốc tế để
công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển đúng hướng.
MR AN.NOOD/3B 22
Câu 6: Phân tích nội dung quản lý nhà nước về văn hóa? Liên hệ vào việc
thực hiện nghị quyết của Đảng về xây dựng phát triển văn hóa Việt Nam: tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, hiện nay và tương lai?
A, Nội dung quản lý nhà nước về văn hóa :
a. Xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật về văn hóa
Đây là nội dung quản lí quan trọng nhất, tốt nhất. Luật pháp phải thực sự là
công cụ quản lí nhà nước về văn hoá và công tác tư tưởng. Để thực hiện quản lí nhà
nước bằng pháp luật thì nhà nước phải ban hành hệ thống các văn bản pháp luật đối
với các loại hoạt động và không ngừng hoàn thiện, bổ xung các văn bản pháp luật
phù hợp với xu thế phát triển để phát huy tác dụng của văn hoá tới sự nghiệp xây
dựng con người mới, tới sự hình thành nhân cách, nâng cao chất lượng cuộc sống của
con người. Trong Hiến pháp 1992 có dành chương III với một số điều khoản đối với
sự phát triển và vận hành các hoạt động văn hoá. Tuy nhiên trong thời gian tới cán
hoàn thiện các văn bản pháp luật:
+ Luật về tổ chức, bộ máy quản lí văn hoá như các Hội đồng, Uỷ ban, các Bộ, hoặc
từng lĩnh vực hoạt động văn hoá.
+ Luật về bảo hộ quyền tác giả, bảo vệ quyền lợi, bản sắc văn hoá dân tộc.
+ Luật về bảo vệ các di sản văn hoá.
+ Luật về tổ chức quản lí các hoạt động văn hoá, văn nghệ
Việc quản lí nhà nước về văn hoá theo đúng luật sẽ góp phần tích cực vào việc lập lại
trật tự kỉ cương trong tình hình văn hoá - xã hội đang có nhiều lộn xộn, cần được
khẩn trương giải quyết.
b. Xây dựng và hoạch định các chính sách phát triển văn hóa.
Các chính sách văn hoá nói riêng, chính sách xã hội nói chung chỉ có ý nghĩa trong
điều kiện kinh tế thị trường nhằm điều chỉnh những bất bình đẳng trong vãn hoá do
thị trường tạo ra, khích lệ, hỗ trợ cho xu hướng văn hoá có nhiều triển vọng, vì chúng
tiêu biểu cho sức mạnh dân tộc, cho định hướng nhu cầu văn hoá của xã hội.
Chính sách văn hoá là tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các cách làm thiết
thực, các phương pháp quản lí hành chính và phương pháp ngân sách của nhà nước
dùng làm cơ sở cho các hoạt động văn hoá.
Chính sách văn hoá được hình thành như một chỉnh thể trong một quá trình tác
động lẫn nhau của ba nhóm cộng đồng không thể đơn phương của một, hai nhóm:
+ Cộng đồng văn hoá: các nghệ sĩ, nghệ nhân, nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà hoạt
động văn hoá,
+ Cộng đồng công chúng: công dân, tập thể, công chúng hiện thực và công chúng
tiềm năng.
+ Cộng đồng chính trị: các cơ quan Đảng, cơ quan chính quyền ở Trung ương và địa
phương.
Chính sách văn hoá đòi hỏi phải đáp ứng được mối quan tâm của cả ba nhóm cộng
đông, biết rõ các mục tiêu và điều chỉnh các hướng ưu tiên. Văn hoá phát triển hay trì
trệ là tuỳ thuộc vào sự tác động lẫn nhau của cả ba nhóm cộng đồng tuỳ thuộc vào
cách giải quyết những khác biệt giữa ba nhóm ấy.
c. Đầu tư tài Chính cho văn hoá:
Ở tất cả các nước trên thế giới, Chính phủ của các nước đều quan tâm thực hiện chế
độ cấp phát ngân sách nhà nước cho văn hoá. Lượng tài chính nhà nước cấp theo chu
MR AN.NOOD/3B 23
kì cấp thông thường năm sau tăng hơn năm trước theo mức tăng ngân sách. Tuy có sự
khác nhau giữa các nước: kiểu cách đầu tư cho văn hoá, đối tượng văn hoá được đầu
tư, cơ cấu và tỉ lệ đầu tư cho văn hoá.
Cơ cấu ngân sách nhà nước cho văn hoá thường gồm:
+ Phần ngân sách nhà nước chi cho GD-ĐT.
+ Phần ngân sách nhà nước chi cho nghệ thuật và những công việc văn hoá.
+ Phần ngân sách nhà nước chi cho thông tin, báo chí, phát thanh truyền hình.
+ Phần ngân sách nhà nước chi cho các lĩnh vực khác như tôn giáo, du lịch, thể dục,
thể thao.
Đầu tư cho hoạt động văn hoá với tư cách là một hoạt động sản xuất cần được lính
toán đến hiệu quả đầu tư. Cấp ngân sách cho văn hoá cần kèm theo những qui tắc như
bất kì hoạt động tài chính nào khác khi yêu cầu đặt ra là phải đạt tới mục tiêu quốc
gia mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
d. Củng cố hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý văn hóa từ trung ương đến địa
phương.
e. Tổ chức đào tạo bồi dưỡng để nâng cao trình độ cho đột ngũ cán bộ quản lý
văn hóa các cấp.
- Nhà nước cần thực hiện cấp bách hiện nay là tổ chức tăng cường về đào tạo
đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước
trong lĩnh vực này như một biện pháp quan trọng để đổi mới, nâng cao trình độ quản
lí trước yêu cẩu phát triển của sự nghiệp văn hoá. Những hẫng hụt về trình độ của cán
bộ quản lí văn hoá hiện nay là khá xa, lại chưa có sự chuẩn bị cần thiết về kiến thức
quản lí nên trong hoạt động quản lí không trách khỏi khuynh hướng giản đơn máy
móc, áp đặt Lí luận và thực tiễn quản lí đòi hỏi sự cần thiết phải kết hợp tính ổn
định và sự đổi mới cán bộ quản lí ở tất cả các cấp.
g. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và thanh tra.
Tăng cường kiểm tra, kiểm soát của nhà nước trong lĩnh vực văn hóa là nhiệm
vụ quan trọng của quản lí nhà nước. Đặc biệt là hoạt động của các cơ quan kiểm
duyệt, thanh tra, do văn hoá có mối quan hệ trực tiếp với chính tả, tác động trực tiếp
tới sự hình thành và phát triển nhân cách do xu hướng xã hội hoá văn hoá ngày một
mở rộng. Quản lí nhà nước về văn hoá trong bối cách kinh tế - xã hội hiện nay đòi hỏi
sử dụng đồng bộ các phương pháp kinh tế, giáo dục, hành chính thích hợp.
B, Liên hệ thực hiện nghị quyết của Đảng về xây dựng phát triển văn hóa
Việt Nam, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, hiện nay và tương lai:
Những định hướng lớn về văn hóa trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng XI
là sự tiếp nối các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa.
Tháng 7 năm 1998, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 (khoá VIII) ra Nghị
quyết về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Toàn bộ
tinh thần của Nghị quyết đã làm sáng lên bức tranh của nền văn hoá đất nước trong
tương lai. Đó là nền văn hoá với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,
động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa (CNH- HĐH) đất nước, gắn với những vấn đề nảy sinh trong xu thế toàn
cầu hoá và nền kinh tế thị trường. Cần khẳng định rằng, đó còn là một tầm nhìn rộng
MR AN.NOOD/3B 24
và xa của Đảng về sự phát triển bền vững của đất nước, ít nhất là trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước.
Đến Đại hội IX, những tư tưởng chủ yếu của Đảng về phát triển văn hoá tiếp tục
được thể hiện trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII);
nhấn mạnh vị trí, vai trò của văn hoá trong lịch sử phát triển của dân tộc ta; khẳng
định sức sống lâu bền của những quan điểm, tư tưởng nêu trong nghị quyết Trung
ương V (khóa VIII) trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về ý nghĩa “văn hoá là nền
tảng tinh thần của xã hội”, Nghị quyết nhấn mạnh đó là tầm cao, chiều sâu của sự
phát triển của dân tộc, khẳng định và làm rõ vị trí của văn hoá trong đời sống dân tộc,
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tại hội nghị Trung ương 10 (khoá IX), Ban Chấp
hành Trung ương đã tổ chức kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
(khoá VIII) và ra kết luận tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá
làm nền tảng tinh thần xã hội, gắn kết và đồng bộ với phát triển kinh tế là trung tâm,
xây dựng Đảng là then chốt.
Đại hội X, Đảng xác định tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Gắn kết chặt chẽ hơn với phát
triển kinh tế xã hội. Làm cho văn hoá thấm sâu và mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam. Bảo vệ và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, sinh viên, học sinh, đặc biệt
là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá Việt Nam.
Đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, di sản
văn hoá vật thể, phi vật thể. Kết hợp hài hoà giữa bảo tồn, phát huy với kế thừa và
phát triển, giữ gìn di tích với phát triển kinh tế du lịch, tinh thần tự nguyện, tính tự
quản của nhân dân trong xây dựng văn hoá. Đa dạng hoá các hoạt động của phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Xây dựng và phát triển chương
trình giáo dục văn hoá, thẩm mỹ, nếp sống văn hoá hiện đại trong nhân dân. Phát huy
tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá
trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Đồng thời tăng cường quản lý nhà nước về văn hoá.
Xây dựng cơ chế chính sách, chế tài ổn định. Tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác
quốc tế về văn hoá. Chống sự xâm nhập văn hoá độc hại, lai căng, phản động. Xây
dựng, nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá. Tạo điều kiện cho các lĩnh vực
xuất bản, thông tin đại chúng phát triển. Nâng cao chất lượng tư tưởng văn hoá, hiện
đại về mô hình, cơ cấu, cơ sở vật chất kỹ thuật. Xây dựng cơ chế quản lý khoa học,
phù hợp. Đảm bảo tự do, dân chủ cho những hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học,
nghệ thuật. Đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sỹ. Đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, cơ cấu tổ chức của các hội văn học- nghệ thuật từ
trung ương đến địa phương.
Đại hội XI, nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa được đúc kết cô đọng hơn, cụ
thể hơn, tập trung vào 4 nội dung quan trọng:
MR AN.NOOD/3B 25
Một là: Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong
phú, đa dạng; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội…; triển khai cuộc vận động xây dựng gia đình Việt Nam góp phần giữ
gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, còn người Việt Nam, nuôi
dưỡng giáo dục thế hệ trẻ.
Hai là: Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di
sản văn hóa truyền thống, cách mạng. Theo đó, tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ
thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn
lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi
mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác.
Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về
bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Xây
dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hóa, văn học,
nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Ba là: Chú trọng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và
phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và
đất nước. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất
bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu
của thời kỳ mới.
Bốn là: Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ
thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Xây dựng một số trung tâm văn
hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra
nước ngoài. Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các nước, giới
thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng Việt
Nam. Ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hóa sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi
trụy, phản động từ nước ngoài vào nước ta; bồi dưỡng và nâng cao sức đề kháng của
công chúng nhất là thế hệ trẻ.
Như vậy, đến Đại hội XI, các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam theo mục tiêu tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được
khẳng định. Nhưng từ thực tiễn đời sống văn hóa của đất nước những năm qua, đặc
biệt là trong xu thế hội nhập, có sự tác động nhiều chiều của quá trình toàn cầu hóa,
của nền kinh tế thị trường…, Đảng ta đã xác định bốn đầu việc cần được cấp ủy đảng,
chính quyền các cấp và nhất là ngành văn hóa coi trọng, tập trung chỉ đạo, tổ chức
thực hiện nhằm tiếp tục xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Trong đó, việc xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng có ý nghĩa rất quan trọng,
chi phối và gắn bó hữu cơ với ba công việc sau. Cần nhận thức đầy đủ rằng, xây dựng
môi trường văn hoá lành mạnh cũng chính là góp phần tạo ra môi trường chính trị- xã
hội ổn định, an toàn và bền vững trên cơ sở đời sống kinh tế được đảm bảo.
Quá trình xây dựng môi trường văn hóa phải chú trọng xây dựng đời sống văn hoá, vì
đó là bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá. Xây dựng đời