Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Vận dụng quan điểm lý luận nhận thức vào sự phát triển của kinh tế ở việt nam từ đổi mới đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.14 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
ĐỀ TÀI:
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM LÝ LUẬN NHẬN THỨC VÀO SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA KINH TẾ Ở VIỆT NAM TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY

SINH VIÊN:
LỚP:
NGÀNH:

HÀ NỘI , THÁNG 8 NĂM 2021


MỤC LỤC
1. LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................1
2. NỘI DUNG...................................................................................................2
2.1. Một số lý luận cơ bản về nhận thức...............................................2
2.1.1. Các quan niệm về nhận thức.......................................................2
2.1.2. Các cấp độ của nhận thức............................................................3
2.2. Thực trạng vận dụng quan điểm nhận thức trong sự phát triển
của kinh tế ở Việt Nam từ thời kỳ đổi mới đến nay.............................7
2.2.1. Đánh giá chung............................................................................7
2.2.2. Một số thành tựu đạt được trong quá trinh phát triển kinh tế Việt
Nam.......................................................................................................9
2.2.3. Một số hạn chế trong công tác vận dụng quan điểm nhận thức
trong phát triển kinh tế thị trường.......................................................10
2.3. Giải pháp vận dụng lý luận nhận thức để phát triển kinh tế Việt
Nam.........................................................................................................12
3. KẾT LUẬN................................................................................................14


4. TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................15

i


1. LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự đột phá trong tư duy
và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là
vấn đề lý luận và thực tiễn mới mẻ và hết sức phức tạp, gắn bó giữa việc nhận
thức quy luật khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng,
Nhà nước và nhân dân Việt Nam; là kết quả một quá trình tìm tịi, thể nghiệm
lâu dài, từ chưa đầy đủ đến ngày càng đầy đủ, từ chưa sâu sắc đến ngày càng
sâu sắc hơn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: phải có nhận thức đúng thì mới có
hành động đúng.Qua đó để thấy rằng giữa nhận thức và thực tiễn ln có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Nói cách khác giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng. Trên thực tế quá trình học tập, rèn luyện cũng vậy, nhận thực thức
chính xác và tồn diện vấn đề sẽ giúp học sinh, sinh viên đi đúng hướng, đêm
lại lợi ích cho cộng đồng... Ngược lại nếu khơng có nhận thức đúng đắn thì
sinh viên – tương lai của đất nước sẽ có những thế giới quan lệch lạc, đưa đất
nước vào ngõ cụt. Do đó, sau một thời gian tìm hiểu tơi đã lựa chọn đề tài
Vận dụng quan điểm lý luận nhận thức vào sự phát triển của kinh tế ở
Việt Nam từ đổi mới đến nay” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.

1


2. NỘI DUNG
2.1. Một số lý luận cơ bản về nhận thức
Khi trình bày bản chất của nhận thức, trong lịch sử triết học đã xuất hiện

một số quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
2.1.1. Các quan niệm về nhận thức
Quan niệm về nhận thức của các trào lưu triết học trước Mác
Xuất phát từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất,
chủ nghĩa duy tâm khách quan coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh
hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” hoặc là sự “tự ý thức về mình của ý niệm
tuyệt đối”. Cịn chủ nghĩa duy tâm chủ quan lại cho rằng nhận thức chỉ là sự
phức hợp những cảm giác của con người.
Những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi
về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên
tắc của nhận thức. Đến thời kỳ cận đại, khuynh hướng này phủ nhận khả năng
nhận thức của con người. Họ cho rằng con người chỉ nhận thức được các
thuộc tính bề ngồi, cịn bản chất bên trong của sự vật thì khơng thể nhận thức
được.
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước triết học MácLênin đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về
lý luận nhận thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy
được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Quan niệm về bản chất nhận thức của triết học Mác- Lênin
Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có, khái
quát các thành tựu khoa học, C. Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học
thuyết biện chứng duy vật về nhận thức. Học thuyết này ra đời đã tạo ra một
cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức vì đã xây dựng được những quan
2


điểm khoa học đúng đắn về bản chất của nhận thức. Học thuyết này ra đời
dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý
thức của con người.
Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi

nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là
hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Khơng có cái gì là khơng thể nhận
thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được mà thơi.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một q trình biện chứng, tích cực,
tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết
đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất.
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
2.1.2. Các cấp độ của nhận thức
Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp, bao gồm
nhiều giai đoạn, hình thức khác nhau. Tuỳ theo tính chất của sự nghiên cứu
mà q trình đó được phân ra thành cấp độ khác nhau: nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận, nhận thức
thông thường và nhận thức khoa học.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
a. Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai
đoạn đầu tiên của q trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các
giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Trực quan sinh
động bao gồm các hình thức sau:
- Cảm giác là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính
riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác
quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả
3


của sự chuyển hố những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý
thức. Lênin viết: “Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Nếu dừng lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể,
riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự
vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải

vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
- Tri giác là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối tồn vẹn
sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri
giác là sự tổng hợp các cảm giác.
So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong
phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và khơng
đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức địi hỏi phải
phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính khơng đặc trưng
và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó khơng cịn trực tiếp tác động lên cơ
quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận
thức cao hơn.
b. Nhận thức lý tính (Tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh gián
tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái
niệm, phán đốn, suy luận.
- Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật.
Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện
chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái
niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác
động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển.
Khái niệm có vai trị rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở
để hình thành các phán đốn và tư duy khoa học.
4


- Phán đốn là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với
nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng.
Nếu chỉ dừng lại ở phán đốn thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên
hệ giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong
phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối

quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua các
phán đốn thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngồi đặc tính dẫn điện giống nhau
thì giữa đồng với các kim loại khác cịn có các thuộc tính giống nhau nào
khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức
nhận thức suy luận.
c. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính với lý tính
Nhận thức cảm tính và lý tính có cùng chung đối tượng phản ánh, đó là
các sự vật; cùng chung chủ thể phản ánh đó là con người và cùng do thực tiễn
quy định. Đây là hai giai đoạn hợp thành quá trình nhận thức. Do vậy, chúng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, biểu hiện: Nhận thức cảm tính là cơ sở
cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính; nhận thức lý tính nhờ có tính khái qt
cao hiểu được bản chất nên đóng vai trị định hướng cho nhận thức cảm tính
để có thể phản ánh được sâu sắc hơn.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
Dựa vào trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng, ta có thể phân
chia thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.
a. Nhận thức kinh nghiệm
Đây là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả
nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai loại, tri
thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
5


- Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành từ
sự quan sát trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và sản xuất. Tri thức này rất
phong phú, nhờ có tri thức này con người có vốn kinh nghiệm sống dùng để
điều chỉnh hoạt động hàng ngày.
- Tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ sự khảo sát
các thí nghiệm khoa học, loại tri thức này quan trọng ở chỗ đây là cơ sở để

hình thành nhận thức khoa học và lý luận.
Hai loại tri thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau
để tạo nên tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm.
b.Nhận thức lý luận (gọi tắt là lý luận)
Đây là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và
quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính gián tiếp vì nó
được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm. Nhận
thức lý luận có tính trừu tượng và khái qt vì nó chỉ tập trung phản ánh cái
bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận
thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
Khi căn cứ vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất
của sự vật thì nhận thức lại có thể được phân ra thành nhận thức thơng
thường và nhận thức khoa học.
a. Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) là loại nhận
thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày
của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc
điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận
thức thơng thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn với những quan
niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó thường xun chi phối hoạt động của
con người trong xã hội. Thế nhưng, nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ
6


dừng lại ở bề ngồi, ngẫu nhiên tự nó khơng thể chuyển thành nhận thức khoa
học được.
b. Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự
giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của
các sự vật.
Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái qt lại

vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một cách
hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường
và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng
nghiên cứu. Vì thế nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt
động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ.
2.2. Thực trạng vận dụng quan điểm nhận thức trong sự phát triển của
kinh tế ở Việt Nam từ thời kỳ đổi mới đến nay
2.2.1. Đánh giá chung
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mơ hình tổng qt, là
đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đến nay, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc.
Về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. “Mục đích của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản
xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân”.
Đặc trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế
độ sở hữu về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở
7


hữu tập thể). Từ khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
thừa nhận trên thực tế có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm
cả công hữu và tư hữu.
Đặc trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác
là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Đặc trưng về phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa
trên các nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ
coi Nhà nước là chủ thể quyết định phân phối chuyển dần sang xác định thị
trường quyết định phân phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà
nước quản lý bằng chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ
chế thị trường để giải phóng sức sản xuất. Nhà nước ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật nhằm định hướng và tạo môi trường pháp lý cho sự phát
triển các thành phần kinh tế và các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khơng phải thị trường điều tiết hồn tồn
mà cịn có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà nước để đạt các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, khắc phục những bất cập, khuyết tật của cơ chế thị
trường.
Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước
sử dụng như một công cụ, phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa
8


xã hội. Cơ chế vận hành của kinh tế thị trường là một cơ chế mở, bị điều tiết
bởi các quy luật kinh tế cơ bản: giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên kinh tế thị
trường tạo ra khả năng kết nối hình thành chuỗi giá trị cho nền sản xuất toàn
cầu.
2.2.2. Một số thành tựu đạt được trong quá trinh phát triển kinh tế Việt Nam
Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mơ hình kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng hồn thiện, trở thành đóng góp
lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội XIII,
Đảng ta nhận định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp
tục được hồn thiện phù hợp với u cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện
đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng
bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới”. “Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo
hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập”. Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với
yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền
kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Nhờ vậy, sau 35 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước thốt khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, trở thành nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế
khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành
quốc gia thu nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới
(1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%(4), thì
giai đoạn 1991 - 1995, tăng trưởng GDP bình qn đã đạt 8,2%/năm. Các giai
đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao, riêng giai đoạn 2016 - 2019 đạt
mức bình quân 6,8(6). Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam
đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền
9


kinh tế mới nổi thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn
các nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động
của đại dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,91%, góp phần
làm cho GDP trong 5 năm (2016 - 2020) tăng trung bình 5,9%/năm, thuộc
nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới.
Quy mô nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ

USD thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 343 tỷ USD(8). Đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần, năm 2020, thu nhập bình
quân đầu người đạt trên 3.500 USD. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích
luỹ - tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động - việc
làm… tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ
mơ. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% năm
1990 xuống còn dưới 6% năm 2018(9); hơn 45 triệu người thoát nghèo trong
giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2018. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của
Việt Nam năm 2020 được xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia
có cùng mức thu nhập(10). Xếp hạng về phát triển bền vững của Việt Nam đã
tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020(11), cao hơn nhiều so với các
nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
2.2.3. Một số hạn chế trong công tác vận dụng quan điểm nhận thức trong
phát triển kinh tế thị trường
Tuy vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể là:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu
đồng bộ, thiếu nhất quán và những bất cập trong q trình hồn thiện thể chế
kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát triển
10


kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử lý
phù hợp, rõ ràng, minh bạch.

Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm
năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động
thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.


Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa
cơng bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình
đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh
thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng
xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của
nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có
nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá
nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới
đời sống xã hội.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mơ
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực
chất lượng cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập”(12). “Tập
trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ
thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh
doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động,
quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai,
tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng
11


cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu
hiệu”(13).

2.3. Giải pháp vận dụng lý luận nhận thức để phát triển kinh tế Việt Nam
Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được
củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực
lượng vật chất quan trọng đế Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng,
điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật
của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù
hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được
phân bổ theo cơ chế thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị
quốc gia. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát
triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ
12


trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mơ hình kinh
doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở
phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân
quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân
và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.

“Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là
các thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầy đủ
quyền tự do, an toàn trong hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng
hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường”. Xây dựng, hoàn thiện
khung khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá
trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mơ hình kinh tế mới, khởi
nghiệp sáng tạo, cung cấp dịch vụ công, quản lý và bảo vệ môi trường... Nhà
nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị
trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh,
thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân
phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội,
bảo đảm an sinh, nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường.

13


3. KẾT LUẬN
Sự kết hợp hoàn hảo giữa nhận thức và thực tiễn là tìm được đến chân
lý. Vì chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được
thực tiễn kiểm nghiệm. Bởi lẽ chân lý thực chất là kết quả của nhận thức
thông qua những hoạt động thực tiễn mà hình thành, phát triển dần dần từng
bước và phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào hoạt động thực tiễn và
hoạt động nhận thức của con người.
Có thể khẳng định, lý luận và thực tiễn nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội Chủ nghĩa là sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mới đây, trong bài viết: “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đưa ra quan niệm

phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý
luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua
35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp
thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”. Điều này không chỉ tạo tiền đề xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam mà còn góp phần bổ
sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại mới.

14


4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 59-60
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 31
(4), Võ Hồng Phúc: “Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm
đổi mới (1986 - 2005)”, in trong sách: Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 141, 143
(5)

/>
dinh-huong-2020/385934.vgp
(6)

/>
nam-631311/
(7) “Kinh tế Việt Nam 2020: một năm tăng trưởng đầy bản lĩnh”,
http:/ww.gso.gov.vn
(8)


/>
hang-cao-ve-Chi-so-Doi-moi-sang-tao-toan-cau/405951.vgp

15



×