Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư của c mác trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.03 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI : VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ CỦA C.MÁC TRONG XÂY DỰNG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

HỌ VÀ TÊN:

…………………………………………

MSSV:

…………………………………………

MÃ LỚP:

…………………………………………

HÀ NỘI,THÁNG 6 NĂM 2021


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
1.

Sự cần thiết của đề tài........................................................................1

2.



Đối tượng nghiên cứu........................................................................2

3.

Phương pháp nghiên cứu...................................................................2

4.

Giới thiệu nội dung nghiên cứu.........................................................2

B. NỘI DUNG..................................................................................................3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ MÁC LENIN
VỀ HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ.............3
1.1. Tư bản và giá trị thặng dư..................................................................3
1.2. Một số phương pháp sản xuất giá trị thặng dư...................................4
1.2.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.........................4
1.2.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.......................5
1.3. Hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư............................................5
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TẠI
NƯỚC TA HIỆN NAY...............................................................................8
2.1. Quan điểm của Đảng trong vận dụng sản xuất giá trị thặng dư trong
xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa........................8
2.1.1. Sức lao động của quá trình sản xuất và sản xuất ra giá trị thặng
dư...........................................................................................................8
2.1.2. Đảng lãnh đạo toàn dân làm kinh tế và vai trò của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.................................................................9
2.1.3. Đảng viên phải biết làm kinh tế................................................10
2.2. Thực trạng sản xuất giá trị thặng dư trong xây dựng kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa......................................................11



2.2.1. Vấn đề bóc lột trong sản xuất và phân phối giá trị thặng dư.....11
2.2.2. Áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất...............................13
2.2.3. Khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả....................13
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư trong xây dựng nền kinh tế thị trường......................................15
2.3.1.

Nâng cao chất lượng nguồn lao động.....................................15

2.3.2. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế và giữ vững
định hướng XHCN..............................................................................16
C. KẾT LUẬN...............................................................................................19
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................20


A. MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Sau hơn ba mươi lăm năm đổi mới, đất nước ta đã gặt hái được nhiều
thành tựu như kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện,
uy tín Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, với xuất phát
điểm từ nông nghiệp nên nền kinh tế nước ta có quy mơ nhỏ, q trình hịa
nhập quốc tế đang gặp phải nhiều khó khăn. Vì vậy, để khắc phục thực trạng
yếu kém và phát huy thế mạnh hiện có nước ta đã phát triển nền kinh tế thị
trường để hiện đại hóa đất nước. Trong đó, việc vận dụng các quy luật kinh tế
mà đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư đã và đang là một hướng áp dụng có
hiệu quả trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay.
Giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác và theo

như V.I.Lênin nhận xét thì “ Học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng của
học thuyết kinh tế của Mác ”Giá trị thặng dư đã mang lại những bước phát
triển cho nước ta trong giai đoạn hiện nay.Tính tất yếu khách quan về việc
vận dụng giá trị thặng dư vào Việt Nam đã được thông qua trong các văn kiện
Đại hội của Đảng nhưng trong một chừng mực nào đó vẫn cịn tồn tại các
thành kiến với các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản coi thành phần kinh tế
này là bốc lột và nhận thức này không chỉ xảy ra với một số cán bộ là Đảng
viên làm công tác quản lý mà còn xảy ra ngay trong những người trực tiếp
làm kinh tế tư nhân ở nước ta. Trong bối cảnh đó, việc học tập và nghiên cứu
mơn kinh tế chính trị mà đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư sẽ góp phần
giải quyết những vướng mắc trong quá trình phát triển các thành phần kinh tế
cũng như quá trình vận dụng giá trị thặng dư vào việc phát triển nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay với mong muốn có thể khắc phục sự lạc hậu về
lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách rời lý luận và cuộc sống và góp phần hình
1


thành tư duy kinh tế mới, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy nhanh q
trình cơng nghiếp hóa – hiện đại hóa.
Vì vậy sau khoảng thời gian học hỏi kiến thức ở trường, em đã quyết định
lựa chọn đề tài ” Vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư của
C.Mác trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay” để hiểu rõ hơn về thực trạng đất nước cũng như việc vận
dụng thực tế của Đảng và nhà nước.
2. Đới tượng nghiên cứu
Bài tiểu luận tập trung tìm hiểu về hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
và nền kinh tế thị trường của Việt Nam
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận dùng các phương pháp nghiên cứu chính:
• Nghiên cứu lí thút : quan điểm toàn diện của học thuyết kinh tế Mác –

Lê-nin, các khái niệm và tác đợng của nền kinh tế thị trường.
• Nghiên cứu thực tiễn: nghiên cứu về nền kinh tế thị trường của Việt Nam,
thông qua việc thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu, xử lí, phân tích các số
liệu và kiểm tra trong thực tiễn.
4. Giới thiệu nội dung nghiên cứu
Chương I: Lý Luận Của Học Thuyết Kinh Tế Mác Lenin Về Hai Phương
Pháp Sản Xuất Giá Trị Thặng Dư
Chương II: Thực Trạng Sản Xuất Giá Trị Thặng Dư Tại Nước Ta Hiện Nay
Chương III: Một Số Giải Pháp Để Vận Dụng Lý Luận Giá Trị Thặng Dư
Nhằm Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xhcn Ở Nước Ta
Hiện Nay

2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ MÁC LENIN
VỀ HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1.1. Tư bản và giá trị thặng dư
Theo Mác, tư bản nảy sinh từ tiền vào đầu thế kỷ XVI. Khi ơng phân
tích những hình thái kinh tế trong đó q trình lưu thơng hàng hố, thì tiền là
hình thái cuối cùng. "Sản vật cuối cùng ấy của lưu thơng hàng hố là hình thái
biểu hiện đầu tiên của tư bản. Xét về mặt lịch sử thì đâu đâu tư bản cũng đối
lập với sở hữu ruộng đất, trước tiên là dưới hình thái tiền, với tư cách là tài
sản bằng tiền, tư bản của thương nhân và tư bản cho vay nặng lãi... Lịch sử ấy
hàng ngày đang diễn ra trước mắt chúng ta. Khi mới xuất hiện lần đầu tiên
trên vũ đài, tức là trên thị trường, - thị trường hàng hoá, thị trường lao động
hay thị trường tiền tệ, - thì mỗi một tư bản bao giờ cũng xuất hiện dưới dạng
tiền, số tiền này phải được chuyển hố thành tư bản thơng qua những q
trình nhất định". Sau đó Mác tiếp tục nghiên cứu những quá trình nhờ chúng

mà tiền biến thành tư bản, và trước hết ơng thấy rằng hình thức trong đó tiền
lưu thông với tư cách là tư bản (T H T’), và một hình thức ngược lại với hình
thức trên, tiền lưu thông với tư cách là vật ngang giá chung của các hàng hoá
(H-T-H’). Một người chủ hàng hoá giản đơn thì bán để mua; anh ta bán cái
mà anh ta không cần dùng, và với tiền thu được, anh ta mua cái mà anh ta cần
dùng. Còn nhà tư bản bắt tay vào cơng việc thì thoạt tiên mua cái mà bản thân
hắn không cần đến; hắn mua để bán, hơn nữa lại để bán đắt hơn, nhằm thu trở
lại giá trị của số tiền đã bỏ ra lúc ban đầu để mua, cộng với số tiền tăng thêm
nào đó, Mác gọi là giá trị thặng dư. Nhà tư bản sản xuất ra hàng hóa có giá trị
sử dụng, giá trị sử dụng là nội dung vật chất của hàng hóa, là vật mang tới giá
trị và giá trị thặng dư (T’>T). Đây cũng là quá trình nhà tư bản sử dụng hàng
hóa sức lao động và tư liệu sản xuất để tạo ra giá trị thặng dư. Bởi thế mỗi sản
phẩm được làm ra đều được kiểm soát bởi nhà tư bản và thuộc sở hữu của nhà
3


tư bản. Trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ thể của
mình, cơng nhân lao động làm thuê sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị
của chúng vào hàng hoá, bằng lao động trừu tượng công nhân tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư. Như
vậy, giá trị thặng dư là giá rơi ra ngồi sức lao động do cơng nhân sáng tạo ra
và nhà tư bản chiếm khơng.
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng
hai phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị thặng dưtuyệt
đối và phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Mỗi phương pháp đại 5 diện
cho một trình độ khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như những giai đoạn lịch
sử khác nhau của xã hội.
1.2. Một số phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
1.2.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời

gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao
động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Bất cứ nhà tư bản nào cũng
muốn kéo dài ngày công lao động của cơng nhân, nhưng việc kéo dài đó
khơng thể vượt qua giới hạn sinh lý của cơng nhân. Bởi vì, người cơng nhân
cần có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Do vậy, việc
kéo dài thời gian lao động gặp sự phản kháng gay gắt của giai cấp cơng nhân
địi giảm giờ làm. Khi độ dài ngày lao động không thể kéo dài thêm, vì lợi
nhuận của mình, nhà tư bản lại tìm cách tăng cường độ lao động của người
cơng nhân. Vì tăng cường độ lao động có nghĩa là chi phí nhiều sức lao động
hơn trong một khoảng thời gian nhất định. Nên tăng cường độ lao động về
thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian
lao động hay tăng cường độ lao động đều để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt

4


đối. Phương pháp này chủ yếu áp dụng trong thời kỳ đầu nền sản xuất tư bản,
với việc phổ biến sử dụng lao động thủ công và năng suất lao động thấp
1.2.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Khái niệm: Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do
rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động
trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ
đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao
động, cường độ lao động vẫn như cũ. Điểm mấu chốt của phương pháp này là
phải hạ thấp giá trị sức lao động. Điều đó đồng nghĩa với giảm giá trị các tư
liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho công nhân. Muốn vậy phải tăng năng
suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành
sản xuất tư liệu sản xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu
dùng.

Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong giai đoạn chủ nghĩa tư
bản phát triển. nhưng lúc đầu chỉ một số nhà tư bản làm được vì điều kiện
khoa học, kỹ thuật chưa cho phép. Khi đó, các nhà tư bản này tăng được năng
suất lao động nên thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Khi các nhà tư bản
đều cải tiến kỹ thuật, giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ khơng cịn. Tất cả sẽ thu
được giá trị thặng dư tương đối. Do đó giá trị thặng dư siêu ngạch là biến
tướng của giá trị thặng dư tương đối.
1.3. Hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
Lợi nhuận
Để sản xuất hàng hóa phải có chi phí lao động q khứ và lao động
sống, khi đó giá trị hàng hóa được tạo ra là W = c + v + m.
Nhà tư bản phải mua tư liệu sản xuất (c) và thuê lao động (v), như vậy,
chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là k = c + v. Khi đó, giá trị hàng hóa sẽ biểu
hiện ra dưới hình thái khác là W = k + m.
5


Sự hình thành phạm trù chi phí sản xuất cùng với việc giá cả sức lao
động biểu hiện ra dưới hình thái chuyển hóa là tiền cơng, là ngun nhân làm
cho giá trị thặng dư biểu hiện ra dưới hình thái chuyển hóa là lợi nhuận (p).
Khi xuất hiện phạm trù lợi nhuận thì giá trị hàng hóa sẽ biểu hiện thành W = k
+ p.
C.Mác nêu ra định nghĩa lợi nhuận: “Giá trị thặng dư, được quan niệm
là con đẻ của tồn bộ tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển hóa là lợi
nhuận”.
Lợi nhuận của tư bản thương nghiệp
Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp do chênh lệch giữa giá bán với giá
mua hàng hoá của tư bản thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp là một
phần giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất do nhà tư bản công nghiệp
“nhường” cho nhà tư bản thương nghiệp.

Lợi tức của tư bản cho vay và lợi nhuận ngân hàng
Tư bản cho vay (TBCV) là một bộ phận của tư bản tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi trong quá trình tuần hoàn của TBCN được tách ra và vận động độc
lập với TBCN. TBCV là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một
người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó.
Số lời đó gọi là lợi tức (Z). Hình thức vận động của TBCV T – T’.
Lợi nhuận ngân hàng = (Z cho vay + thu khác) – (Z đi vay + chi phí
nghiệp vụ).
Địa tơ
Định nghĩa
Địa tơ tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch do lao động
của công nhân làm thuê trong lĩnh vực nông nghiệp tạo ra sau khi đã khấu trừ
6


đi phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp buộc
phải nộp cho nhà địa chủ (R).
Hình thức
Địa tơ chênh lệch là số dư ngồi lợi nhuận bình quân thu được trên
những ruộng đất tốt và trung bình so với ruộng đất kém nhất, là số chênh lệch
giữa giá cả sản xuất chung của nông phẩm được quyết định bởi điều kiện sản
xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình.
Địa tơ chênh lệch I thu được trên cơ sở đất đai có điều kiện tự nhiên thuận lợi
(gắn với điều kiện tự nhiên thuận lợi bị độc chiếm. Do vậy, nó thuộc về chủ
ruộng đất). Địa tơ chênh lệch II do thâm canh mà có.
Địa tô tuyệt đối là địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp đều phải nộp cho địa chủ dù ruộng đất tốt hay xấu. Đây là loại tô thu
trên tất cả mọi thứ ruộng đất. Địa tô tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu
ngạch ngồi lợi nhuận bình qn, hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản
trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, mà bất cứ nhà tư bản thuê loại

ruộng đất nào đều phải nộp cho địa chủ. Tính chất lịch sử của địa tô tuyệt đối
gắn liền với quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất, với tính chất lạc hậu tương
đối của sản xuất nông nghiệp so với sản xuất công nghiệp.

7


CHƯƠNG II: VẬN DỤNG SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TẠI
NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Quan điểm của Đảng trong vận dụng sản xuất giá trị thặng dư trong
xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đảng ta đã khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, và coi đây là mô hình kinh tế tổng quát cho giai đoạn quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi
công dân được phát triển kinh tế tư nhân để làm giàu ở những ngành, những
lĩnh vực mà pháp luật của Nhà nước không cấm và phải chấp hành nghiêm
chỉnh các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó, đảng viên của Đảng
phải là những công dân tiên phong và gương mẫu trong sự nghiệp làm kinh tế,
làm giàu cho nhà, cho nước và phải có trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức người
lao động làm giàu.
2.1.1. Sức lao động của quá trình sản xuất và sản xuất ra giá trị thặng dư.
Quá trình sản xuất, khi làm ra một sản phẩm tốt, có sức cạnh tranh trên
thị trường khơng chỉ địi hỏi sức lao động cơ bắp, mà cịn địi hỏi lao động trí
tuệ có hàm lượng chất xám cao. Điều đó, đã tạo ra sự liên kết giữa các chuyên
gia khoa học, công nghệ, các nhà quản lý và các nhà doanh nghiệp. Do đó,
quyền sở hữu tài sản và tiền vốn của "ơng chủ" sở hữu khơng cịn giữ vai trị
địa vị chi phối tuyệt đối của quá trình sản xuất và phân phối giá trị thặng dư,
mà nó bị phân quyền sở hữu bởi Nhà nước, tập thể, tư nhân. Như vậy, sự cấu
thành các nguồn sức lao động của quá trình sản xuất và sản xuất ra giá trị
thặng dư đã có sự thay đổi trong nền kinh tế thị trường hiện đại với sự phát

triển cao của lực lượng sản xuất trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế.
Tài sản và tiền vốn có nguồn gốc từ lao động, hàm chứa chất xám của
khoa học, công nghệ. Những yếu tố này đóng vai trị rất quan trọng của q
trình sản xuất vật chất. Nếu khơng có tiền vốn, tài sản và tri thức, đương
nhiên sẽ không tạo ra được giá trị thặng dư. Có tài sản, vốn, thiết bị, nguyên
8


liệu, cơng nghệ và năng lực quản lý tốt thì giá trị thặng dư cao và ngược lại.
Như vậy, các yếu tố của quá trình sản xuất tạo ra được những sản phẩm tốt,
giá thành hạ, sức cạnh tranh trên thị trường cao. Khi nộp thuế đầy đủ cho Nhà
nước, trả công cho người lao động đúng với giá trị sức lao động, chấp hành
luật pháp nghiêm chỉnh thì sự hưởng thụ lợi nhuận đó là chính đáng. Đó cũng
là một thực tế ở nước ta khi đã thừa nhận việc phân phối lợi nhuận cho vốn theo vốn, thừa nhận lãi suất tín dụng...; cũng như trong cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước hiện nay, phần góp vốn của người lao động cũng được phân
phối một phần lợi nhuận cho vốn - theo vốn.
2.1.2. Đảng lãnh đạo toàn dân làm kinh tế và vai trò của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong thời đại hiện nay, các yếu tố tham gia vào quá trình tạo ra giá trị
thăng dư ngày càng chịu sự tác động trực tiếp của nền kinh tế tri thức với các
tiến bộ khoa học, công nghệ, chất xám của các nhà khoa học. Do đó, giá trị
của lao động trí tuệ mang lại hiệu quả gấp nhiều lần lao động giản đơn. Trong
đó có sự đóng góp rất lớn bằng trí lực, vật lực của người chủ kinh doanh để
nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo ra nhiều lợi nhuận, nhiều việc làm ổn định
cho người lao động; đóng góp nhiều cho ngân sách của Nhà nước, cho phúc
lợi xã hội. Bằng luật pháp của Nhà nước pháp quyền, sự liên kết, giáo dục, trợ
giúp lẫn nhau trong Hiệp Hội các loại hình doanh nghiệp, các "ông chủ"
không được trả lương cho người lao động dưới giá trị thực của ngày công lao
động đối với người làm công; đồng thời, phải bảo đảm tốt các mặt: điều kiện
làm việc, bảo hiểm, các trợ cấp lao động... Mặt khác, để khoảng cách giữa

người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp trong xã hội ở mức hợp lý
thì Nhà nước đánh thuế thu nhập. Thu nhập càng cao, thuế thu nhập càng lớn,
ngân sách nhà nước sẽ tăng để có tiền giải quyết các nhu cầu về phúc lợi xã
hội và tái sản xuất mở rộng.

9


Như vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc chấp nhận sở hữu tư nhân và sử dụng lao
động làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân khơng nhất thiết gắn với bóc
lột. Vấn đề đặt ra là, hệ thống phân phối, quản lý phân phối lại giá trị thặng
dư có hợp lý hay khơng; những tiêu cực trong quản lý kinh tế có hạn chế, đẩy
lùi được hay khơng? Trên cơ sở đó, Nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp
luật, để nắm vai trò điều hành phân phối lại giá trị thặng dư. Từng bước và
tiến tới loại trừ tệ tham nhũng, tiêu cực trong phân phối lại giá trị thặng dư.
Vấn đề cần nhấn mạnh ở đây là, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý có
hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa sẽ tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế biết cách vươn lên làm giàu chân chính, hợp pháp; đồng
thời, hướng dẫn, tổ chức các doanh nghiệp tư nhân làm giàu. Điều đó sẽ khác
về cơ bản so với những phương thức làm giàu của các nhà tư sản trong thời
kỳ kinh tế thị trường tư bản trước đây.
2.1.3. Đảng viên phải biết làm kinh tế.
Như chúng ta đã biết, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta khuyến khích
mọi người, mọi nhà làm giàu chân chính, hợp pháp để thúc đẩy sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh. Do vậy, đảng viên phải làm giàu theo lời kêu gọi của Đảng;
đây không chỉ là trách nhiệm của đảng viên trước Đảng mà còn là nghĩa vụ,
quyền lợi của người cộng sản, người cơng dân mẫu mực. Bởi vì, sự lãnh đạo

của Đảng không phải chỉ dừng lại ở đường lối, chủ trương, tun truyền, động
viên mà cịn phải thơng qua hành động và sự gương mẫu của người đảng viên
hoạt động trong các lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội, hướng dẫn mọi người
làm kinh tế tư nhân đúng pháp luật, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Nếu,
đảng viên chỉ là người nghèo, thậm chí phải đi làm th mà khơng phải là chủ
doanh nghiệp thì chẳng những không thể lãnh đạo được những chủ doanh
10


nghiệp chưa phải là đảng viên; mà quan trọng hơn là dẫn đến sự nghi ngờ đối
của những chủ doanh nghiệp chưa phải là đảng viên. Họ cho rằng, phải chăng
chính sách của Đảng khuyến khích mọi người làm giàu bằng kinh tế tư nhân
vươn lên thành chủ doanh nghiệp tư nhân đối với những người chưa phải là
đảng viên; cịn đảng viên bị ngăn cấm là để "ni béo rồi làm thịt" như các
đợt cải cách, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh trước đây? Nếu để
cho sự nghi ngờ đó xuất hiện đối với đường lối của Đảng ta hiện nay thì đó là
điều nguy hại cho nền kinh tế nước nhà. Đây là một nỗi lo, sự phân tâm trong
xã hội ta mà Đảng ta cần làm rõ và giải quyết đến nơi, đến chốn để đạt được
sự thống nhất chung, tạo sự tin tưởng của mọi thành phần kinh tế trong xã hội
với mục tiêu đổi mới toàn diện của Đảng.
2.2. Thực trạng sản xuất giá trị thặng dư trong xây dựng kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
2.2.1. Vấn đề bóc lột trong sản xuất và phân phối giá trị thặng dư
Ngày nay, với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự xã hội hoá sản
xuất, sự cấu thành các nguồn sức lao động của quá trình sản xuất và sản xuất
ra giá trị thặng dư đã có sự thay đổi. Sức cạnh tranh trên thị trường ngày càng
lớn, để thành công trong công việc kinh doanh, phải cần đến sự nỗ lực kinh
doanh, sự quản lý sản xuất tốt, và thế một người chủ kinh doanh ngày nay
không chỉ có đóng góp tài sản, tiền vốn mà cịn đóng góp sức lao động của
mình vào q trình sản xuất. Sức lao động đó trực tiếp góp phần tạo ra giá trị

thặng dư. Do đó, phần thu nhập từ phân phối giá trị thặng dư do cơng sức đó
là chính đáng. Tài sản và tiền vốn có nguồn gốc từ lao động – là sản phẩm của
lao động – lao động vật hoá, hàm chứa chất mới của khoa học kỹ thuật và
công nghệ (là yếu tố của lực lượng sản xuất trực tiếp) đóng vai trị hết sức
quan trọng của quá trình sản xuất. Tài sản và vốn là yếu tố thu hút sức lao
động, nếu khơng có tài sản và vốn nhà xưởng, máy móc, thiết bị, khơng có
việc làm với năng suất lao động cao, và theo đó cũng khơng có việc sản xuất
11


ra giá trị thặng dư. Vậy phần thu nhập của người chủ sở hữu vốn, theo vốn là
chính đáng, khơng liên quan đến bóc lột. Và hiện nay, ở nước ta cũng đang
thực hiện cách phân phối này, phân phối theo lao động và phân phối theo vốn,
tài sản và những đóng góp khác. Phân phối theo lao động là lấy lao động làm
thước đo, làm căn cứ để phân phối vật phẩm tiêu dùng cho người lao động
dựa trên nguyên tắc lao động ngang nhau thì hưởng ngang nhau, làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít.
Với xu thế cổ phần hố trong sự hình thành và phát triển hệ thống
doanh nghiệp, theo đó có phần góp vốn của người lao động và người lao động
cũng được phân phối một phần lợi nhuận cho vốn – theo vốn của họ. ở trên là
các hình thức phân phối giá trị thặng dư chính ở nước ta, đó là lần phân phối
thứ nhất, nhưng để đạt được sự công bằng hơn trong xã hội (vì do cịn nhiều
yếu tố xã hội khác làm cho một số người thiệt thịi khơng thể tham gia lao
động hay góp vốn vào sản vào sản xuất…) cần phải có hình thức phân phối lại
qua các quỹ phúc lợi công cộng của xã hội và của tập thể. Nội dung của hình
thức phân phối này được biểu hiện ở việc: mọi cơng dân đều phải có nghĩa vụ
đóng thuế cho Nhà nước - Nhà nước là đại diện cho lợi ích của tồn dân, tồn
xã hội - Nhà nước trích một phần ở trong ngân sách thu từ thuế lập quỹ phúc
lợi xã hội, mọi công dân và những người thuộc diện chính sách xã hội được
nhận phân phối từ quỹ phúc lợi xã hội này; đối với các doanh nghiệp phải

trích một phần lợi nhuận của mình lập quỹ phúc lợi tập thể của doanh nghiệp,
mọi thanh viên trong doanh nghiệp đó được hưởng từ quỹ phúc lợi tập thể
này; nguồn phân phối từ quỹ phúc lợi xã hội và tập thể đối với những người
được hưởng có những khoản khơng phải trả bằng tiền nhưng cũng có những
khoản phải trả bằng tiền.
Và như thế, hiện nay, chúng ta có 3 hình thức phân phối chính là: Phân
phối theo lao động; phân phối theo vốn tài sản và những đóng góp khác; phân
phối thơng qua quỹ phúc lợi công cộng của xã hội và tập thể. Như vậy, đối
12


với người lao động, họ sẽ không trực tiếp được hưởng ngay một lúc toàn bộ
giá trị mà họ đã sáng tạo ra, mà họ sẽ được hưởng gián tiếp từ từ thông qua
các quỹ phúc lợi hay các hàng hố cơng cộng.
2.2.2. Áp dụng khoa học cơng nghệ vào sản xuất
Theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, máy móc khơng tạo ra giá trị
thặng dư, nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị
cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá trị thặng
dư tăng lên. Vì thế, vấn đề áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất là sự
vận dụng lý luận giá trị thặng dư.
Ngày nay, việc ứng dụng khoa học – kỹ thuật đã trở thành một nhu cầu
không thể thiếu đối với nông nghiệp, nông thôn, nhiều giống cây trồng, vật
ni mới có giá trị kinh tế cao đã được sử dụng, nhiều công nghệ mới đã
được đưa vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, nâng cao chất lượng và
sức cạnh tranh của nông sản. Hàng năm, khoa học cơng nghệ đã góp phần tạo
ra trên 30% giá trị tổng sản lượng lương thực cả nước.
Đối với công nghiệp, nhất là trong ngành công nghệ thông tin, điện tử,
viễn thông đã ứng dụng nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật của thế giới và đã
thực hiện được đúng theo chủ trương “đi trước đón đầu” của Đảng ta. Với các
lĩnh vực khác trong ngành công nghiệp, việc sử dụng các máy móc hiện đại

vào sản xuất cũng được đẩy mạnh, góp phần tăng giá trị sản xuất cơng nghiệp
lên 14,9% (năm 2015).
2.2.3. Khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả
Trong sự nghiệp CNH, HĐH, nguồn vốn đầu tư luôn được quan tâm
hàng đầu. Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ trương nhằm khuyến khích và
thu hút nguốn vốn đầu tư từ cả trong nước và nước ngồi.
Về khuyến khích đầu tư trong nước, việc công nhận và phân định rõ 6
thành phần kinh tế, cũng như ban hành luật doanh nghiệp nhằm thu hút vốn
13


trong các thành phần kinh tế, đồng thời với chủ trương tự do trong kinh
doanh, cơ cấu vốn đầu tư theo ngành cũng có sự chuyển dịch. Từ năm 1991,
nguồn vốn đầu tư trong nước
Đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngồi, chúng ta cũng có nhiều
thành tựu. Ta đã tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
ngày càng lớn, từ năm 1993, chúng ta đã bình thường hố quan hệ với các
định chế tài chính, và nhờ đó, nguồn ODA của IMF, WB, ADB, nhật bản…
được khai thác và không ngừng tăng. Cho đến nay, tổng mức cam kết tài trợ
là13,04 tỷ USD, trong đó vốn đã được ký là gần 10 tỷ USD và số vốn đã giải
ngân tới cuối 1999 là gần 6 tỷ USD. Riêng tại hội nghị nhóm tư vấn lần thứ 7
tại Hà Nội tháng 12 năm 1999, các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết dành cho
Việt Nam 2,15 tỷ USD cùng với 700 triệu USD để giúp Việt Nam đẩy mạnh
quá trình đổi mới kinh tế. Nhà nước đã ban hành “luật đầu tư nước ngoài”, có
nhiều điều kiện ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài, và bằng nhiều nỗ
lực to lớn đã thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngồi
(FDI). Cho đến hết 2000, đã có 66 nước và vùng lãnh thổ với nhiều cơng ty,
tập đồn lớn đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Với 3265 dự án được cấp giấy
phép, vốn đăng ký trên 38,6 tỷ USD và vốn thực hiện trên 15 tỷ USD, nguồn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, đóng góp

khoảng trên 13,3 GDP. 7% thu ngân sách, gần 35% giá trị sản lượng công
nghiệp, trên 23% kinh ngạch xuất khẩu và thu hút gần 30 vạn lao động trực
tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác.
Trong cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành ta thấy, vốn đầu tư thuộc
kinh tế nhà nước phần lớn dành cho ngành dịch vụ từ 51,02% năm 1999 lên
51,45% năm 2001, vốn đầu tư cho công nghiệp giảm từ 36,13% năm 1999
xuống 35,81% năm 2001. Còn cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành của kinh tế
ngồi quốc doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi đã có những chuyển
biến tích cực, tỷ trọng vốn đầu tư dành cho công nghiệp và nông nghiệp
14


không ngừng tăng lên, vốn đầu tư dành cho ngành dịch vụ giảm từ 45,83%
năm 1999 xuống 44,04% năm 2001. Hiện nay, Chính phủ đã quan tâm đầu tư
cho hệ thống thơng tin liên lạc theo trình độ tiên tiến của thế giới, đây là một
chủ trương đúng đắn của Chính phủ, sự phát triển của ngành tơng tin liên lạc
sẽ là một trong những tiền đề để phát triển kinh tế xã hội.
Tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng hoạt động đầu tư vẫn còn
nhiều hạn chế: Cơ cấu vốn đầu tư cho ngành dịch vụ vẫn quá cao, trong khi
công nghiệp và nông nghiệp chưa được đầu tư một cách thoả đáng. Bởi phát
triển dịch vụ sẽ không tạo ra được thế mạnh căn bản cho chúng ta trên thị
trường quốc tế. Muốn tạo được chỗ đứng cho mình trên thị trường quốc tế, thì
chúng ta phải có những sản phẩm hàng hố mang thương hiệu Việt Nam, vì
thế phải phát triển cơng nghiệp, thu hút vốn đầu tư nhằm nâng cao sức mạnh
cho công nghiệp; Hiệu quả của vốn đầu tư cịn thấp và khơng ổn định.
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư trong xây dựng nền kinh tế thị trường
2.3.1. Nâng cao chất lượng nguồn lao động
Phát triển thị trường lao động với tư cách là một yếu tố đầu vào quan
trọng của quá trình sản xuất, theo đó cung về lao động phải đáp ứng cầu về

lao động cho cơng nghiệp hố, hiện đại hoá.
+ Để phát triển thị trường sức lao động ở nước ta cịn cần phải nhanh
chóng cải cách chế độ tiền lương, chế độ tiền lương mới cần phải có sự phân
biệt đáng kể về thu nhập trên cơ sở lấy hiệu quả lao động làm chính, phân biệt
giữa người làm ít với người làm nhiều, giữa lao động phức tạp với lao động
giản đơn. Sự phân biệt này góp phần thúc đẩy quá trình tự nâng cao chất
lượng lao động đối với mỗi người lao động, khuyến khích người lao động bán
sức lao động của họ ở những nơi có mức tiền lương cao. Mặt khác vẫn phải
duy trì những ưu đãi xã hội và thực hiện tốt vấn đề bảo hiểm xã hội…
15


+ Cần phải chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, phù hợp với mục tiêu
cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện nay theo chủ trương của Đảng và Nhà
nước. Tăng cả về số lượng và chất lượng của lao động trong ngành công
nghiệp, giảm về số lượng lao động trong ngành nông nghiệp.
+ Nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp. Cải cách phương pháp đào tạo, gắn việc dạy lý
thuyết với thực hành, khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học.
Nhằm tăng lao động lành nghề, lao động có tri thức để tiếp nhận kỹ thuật,
cơng nghệ mới. Tăng nhanh tỷ lệ lao động chất xám, lao động có kỹ thuật.
+ Thường xuyên đào tạo mới và đào tạo lại lao động, để đáp ứng nhu
cầu trên thị trường sức lao động, đồng thời phải đảm bảo cơ hội bình đẳng về
việc làm cho người lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp với
nhà trường trong việc đào tạo.
+ Đối với các doanh nghiệp cần phải thực hiện nghiêm túc việc tổ chức
khám chữa bệnh định kỳ cho công nhân, đặc biệt là với những ngành nghề lao
động trong mơi trường độc hại.
2.3.2. Nâng cao vai trị quản lý của Nhà nước về kinh tế và giữ vững định
hướng XHCN

+ Cần tiến hành phân cấp quản lý nhà nước, đặc biệt là việc phân cấp
quản lý nhà nước về kinh tế. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà
nước, tránh sự quản lý chồng chéo, gây ra sự phiền hà đối với việc kinh doanh
của các doanh nghiệp. Nhất là, trong việc quản lý đăng ký kinh doanh của các
doanh nghiệp, hiện nay còn có nhiều cơ quan thuộc các cấp khác nhau quản lý
việc đăng ký kinh doanh, gây tình trạng lộn xộn, khiến việc nắm về số lượng,
việc kiểm tra giám sát việc kinh doanh của các doanh nghiệp khó khăn. Cần
phải quy định riêng một cơ quan làm công việc này.

16


+ Hiện nay, trong lĩnh vực quản lý nguồn vốn đầu tư cịn nhiều bất cập như:
khơng theo kịp địi hỏi của thực tiễn đặt ra, lỏng lẻo trong khâu kiểm tra, giám
sát việc thực hiện nguồn vốn đầu tư, gây những hiện tượng lãng phí, tham
nhũng… Vì vậy, phải chú trọng nâng cao năng lực quản lý vốn đầu tư bằng
cách: nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ về quản lý hoạt động đầu tư
cho các cán bộ chuyên trách. Thường xuyên kiểm tra trình độ của các cán bộ
này. Khi giải quyết bất kỳ một vấn đề gì của hoạt động đầu tư, một mặt phải
dựa trên ý kiến, nguyện vọng, lực lượng, tinh thần chủ động, sáng tạo của các
đối tượng bị quản lý , mặt khác phải có một trung tâm quản lý tập trung và
thống nhất với mức độ phù hợp, không quan liêu, có sự phân cấp trog việc
quản lý hoạt động vốn đầu tư.
+ Kiện toàn hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mơ để nâng
cao năng lực quản lý của Nhà nước. Hệ thống pháp luật phải thơng thống,
thống nhất, một mặt phải bảo đảm việc trả lương tương xứng cho người lao
động (và việc mua bảo hiểm xã hội cho người lao động) của các doanh
nghiệp, mặt khác phải định hướng dư luận, bảo vệ những người có thu nhập
cao chính đáng. Các chính sách kinh tế vĩ mô, phát huy đúng tác dụng điều
tiết nền kinh tế, tránh những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường,

khuyến khích sản xuất phát triển…
+ Hiện nay, chúng ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân, nghĩa là nền kinh tế ở
nước ta vẫn cịn bóc lột ở mức độ nào đó. Để giảm sự tiêu cực đó, nhà nước
cần thực hiện chế độ phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
(hay phân phối theo mức độ đóng góp); phải thực hiện tốt các chính sách xã
hội như phúc lợi xã hội, các ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội…
+ Bên cạnh những ưu đãi đối với hoạt động kinh doanh của các doanh
nhân nước ngoài hiện nay ở nước ta, cũng cần phải xây dựng hoàn chỉnh và
17



×