Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

LÝ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ MÁC LENIN VỀ HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.88 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
ĐỀ TÀI :

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ……………………………………………….
SINH VIÊN THƯC HIỆN:
HỌ TÊN SV

MSSV

MÃ LỚP

…………………………….. …………………… ……………………
…………………………….. …………………… ……………………
…………………………….. …………………… ……………………
…………………………….. …………………… ……………………
HÀ NỘI,THÁNG 8 NĂM 2020


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................3
1. Sự cần thiết của đề tài...........................................................................3
2. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................4
3. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................4
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu............................................................4
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................5
CHƯƠNG I: Lý luận của học thuyết Kinh tế...........................................5
Mác Lenin về hai phương pháp sản xuất giá trị.......................................5


thặng dư........................................................................................................5
1.1. Tư bản và giá trị thặng dư..................................................................6
1.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối................................6
1.3. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối..............................7
CHƯƠNG II: SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA 2 PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.................8
2.1 Giai đoạn trước đổi mới năm 1986.....................................................8
2.1.1 Mơ hình kinh tế trước năm 1986..................................................8
2.1.2 Sự hoạt động của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trước
năm 1986...............................................................................................9
2.1.3 Sự phát triển của nền kinh tế trước năm 1986..............................9
2.2. Giai đoạn đổi mới từ 1986 đến nay..................................................10
2.2.1 Mơ hình kinh tế sau năm 1986...................................................10
2.2.2. Sự hoạt động của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư sau
năm 1986.............................................................................................11


CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
CỦA VIỆT NAM , TRONG BỐI CẢNH CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC
QUYỀN ĐANG PHỔ BIẾN TRÊN TOÀN THẾ GIỚI.........................14
3.1. Mục tiêu............................................................................................14
3.2. Một số khuyến nghị Đối với Nhà nước............................................14
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................17


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Sau hơn ba mươi năm đổi mới, đất nước ta đã gặt hái được nhiều thành tựu
như kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, uy tín
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, với xuất phát điểm

từ nông nghiệp nên nền kinh tế nước ta có quy mơ nhỏ, q trình hịa nhập
quốc tế đang gặp phải nhiều khó khăn. Vì vậy, để khắc phục thực trạng yếu
kém và phát huy thế mạnh hiện có nước ta đã phát triển nền kinh tế thị trường
để hiện đại hóa đất nước. Trong đó, việc vận dụng các quy luật kinh tế mà đặc
biệt là học thuyết giá trị thặng dư đã và đang là một hướng áp dụng có hiệu
quả trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay. Giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác và theo
như V.I.Lênin nhận xét thì “ Học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng của
học thuyết kinh tế của Mác ”Giá trị thặng dư đã mang lại những bước phát
triển cho nước ta trong giai đoạn hiện nay.Tính tất yếu khách quan về việc
vận dụng giá trị thặng dư vào Việt Nam đã được thông qua trong các văn kiện
Đại hội của Đảng nhưng trong một chừng mực nào đó vẫn còn tồn tại các
thành kiến với các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản coi thành phần kinh tế
này là bốc lột và nhận thức này không chỉ xảy ra với một số cán bộ là Đảng
viên làm công tác quản lý mà còn xảy ra ngay trong những người trực tiếp
làm kinh tế tư nhân ở nước ta. Trong bối cảnh đó, việc học tập và nghiên cứu
mơn kinh tế chính trị mà đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư sẽ góp phần
giải quyết những vướng mắc trong quá trình phát triển các thành phần kinh tế
cũng như quá trình vận dụng giá trị thặng dư vào việc phát triển nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay với mong muốn có thể khắc phục sự lạc hậu về
lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách rời lý luận và cuộc sống và góp phần hình
thành tư duy kinh tế mới, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy nhanh q
trình cơng nghiếp hóa – hiện đại hóa.


2. Đối tượng nghiên cứu
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Nền kinh tế thị trường của Việt Nam
3. Phạm vi nghiên cứu
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung của Việt Nam từ trước năm 1986 và nền

kinh tế thị trường Việt Nam từ năm 1986 đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu
• Nghiên cứu lí thuyết : quan điểm toàn diện của học thuyết kinh tế Mác –
Lê-nin, các khái niệm và tác động của nền kinh tế thị trường.
• Nghiên cứu thực tiễn: nghiên cứu về nền kinh tế thị trường của Việt Nam,
thông qua việc thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu, xử lí, phân tích các số
liệu và kiểm tra trong thực tiễn.
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu
Chương 1: Lý luận của học thuyết kinh tế Mác – Lê-nin về hai phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư
Chương 2: Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong
nền kinh tế Việt Nam


PHẦN II: NỘI DUNG

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ
MÁC LENIN VỀ HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ

Theo Mác, tư bản nẩy sinh từ tiền vào đầu thế kỷ XVI. Khi ơng phân
tích những hình thái kinh tế trong đó q trình lưu thơng hàng hố, thì tiền là
hình thái cuối cùng. "Sản vật cuối cùng ấy của lưu thơng hàng hố là hình thái
biểu hiện đầu tiên của tư bản. Xét về mặt lịch sử thì đâu đâu tư bản cũng đối
lập với sở hữu ruộng đất, trước tiên là dưới hình thái tiền, với tư cách là tài
sản bằng tiền, tư bản của thương nhân và tư bản cho vay nặng lãi... Lịch sử ấy
hàng ngày đang diễn ra trước mắt chúng ta. Khi mới xuất hiện lần đầu tiên
trên vũ đài, tức là trên thị trường, - thị trường hàng hoá, thị trường lao động
hay thị trường tiền tệ, - thì mỗi một tư bản bao giờ cũng xuất hiện dưới dạng
tiền, số tiền này phải được chuyển hố thành tư bản thơng qua những q

trình nhất định". Sau đó Mác tiếp tục nghiên cứu những quá trình nhờ chúng
mà tiền biến thành tư bản, và trước hết ơng thấy rằng hình thức trong đó tiền
lưu thơng với tư cách là tư bản (T H T’), và một hình thức ngược lại với hình
thức trên, tiền lưu thơng với tư cách là vật ngang giá chung của các hàng hoá
(H-T-H’). Một người chủ hàng hố giản đơn thì bán để mua; anh ta bán cái
mà anh ta không cần dùng, và với tiền thu được, anh ta mua cái mà anh ta cần
dùng. Cịn nhà tư bản bắt tay vào cơng việc thì thoạt tiên mua cái mà bản thân
hắn không cần đến; hắn mua để bán, hơn nữa lại để bán đắt hơn, nhằm thu trở
lại giá trị của số tiền đã bỏ ra lúc ban đầu để mua, cộng với số tiền tăng thêm
nào đó, Mác gọi là giá trị thặng dư. Nhà tư bản sản xuất ra hàng hóa có giá trị


sử dụng, giá trị sử dụng là nội dung vật chất của hàng hóa, là vật mang tới giá
trị và giá trị thặng dư (T’>T). Đây cũng là quá trình nhà tư bản sử dụng hàng
hóa sức lao động và tư liệu sản xuất để tạo ra giá trị thặng dư. Bởi thế mỗi sản
phẩm được làm ra đều được kiểm soát bởi nhà tư bản và thuộc sở hữu của nhà
tư bản. Trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ thể của
mình, cơng nhân lao động làm thuê sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị
của chúng vào hàng hoá, bằng lao động trừu tượng công nhân tạo ra giá trị
mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư. Như
vậy, giá trị thặng dư là giá rơi ra ngồi sức lao động do cơng nhân sáng tạo ra
và nhà tư bản chiếm không.
1.1. Tư bản và giá trị thặng dư
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng hai
phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị thặng dưtuyệt đối
và phương pháp giá trị thặng dư tương đối. Mỗi phương pháp đại 5 diện cho
một trình độ khác nhau của giai cấp tư sản, cũng như những giai đoạn lịch sử
khác nhau của xã hội.
1.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao

động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị
sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Bất cứ nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày
công lao động của công nhân, nhưng việc kéo dài đó khơng thể vượt qua giới
hạn sinh lý của cơng nhân. Bởi vì, người cơng nhân cần có thời gian ăn, ngủ,
nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Do vậy, việc kéo dài thời gian lao
động gặp sự phản kháng gay gắt của giai cấp cơng nhân địi giảm giờ làm.
Khi độ dài ngày lao động khơng thể kéo dài thêm, vì lợi nhuận của mình, nhà
tư bản lại tìm cách tăng cường độ lao động của người cơng nhân. Vì tăng
cường độ lao động có nghĩa là chi phí nhiều sức lao động hơn trong một


khoảng thời gian nhất định. Nên tăng cường độ lao động về thực chất cũng
tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động hay
tăng cường độ lao động đều để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Phương
pháp này chủ yếu áp dụng trong thời kỳ đầu nền sản xuất tư bản, với việc phổ
biến sử dụng lao động thủ công và năng suất lao động thấp
1.3. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Khái niệm: Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút
ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong
ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng
thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động,
cường độ lao động vẫn như cũ. Điểm mấu chốt của phương pháp này là phải
hạ thấp giá trị sức lao động. Điều đó đồng nghĩa với giảm giá trị các tư liệu
sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất
lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản
xuất tư liệu sản xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản phát
triển. nhưng lúc đầu chỉ một số nhà tư bản làm được vì điều kiện khoa học, kỹ
thuật chưa cho phép. Khi đó, các nhà tư bản này tăng được năng suất lao động

nên thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. Khi các nhà tư bản đều cải tiến kỹ
thuật, giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ khơng cịn. Tất cả sẽ thu được giá trị
thặng dư tương đối. Do đó giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị
thặng dư tương đối.


CHƯƠNG II: SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA 2 PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
2.1 Giai đoạn trước đổi mới năm 1986
2.1.1 Mơ hình kinh tế trước năm 1986
Giai đoạn kinh tế trước năm 1986, hay cịn gọi là Thời kì bao cấp, là
giai đoạn áp dụng mơ hình kinh tế cũ - kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở miền
Bắc cho cả nước sau thống nhất.
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành
chính dựa trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các
doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản
xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền
lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế
hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản
phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì
về vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các
quyết định khơng đúng gây ra thì ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ
hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát –
giao nộp”. Hạch tốn kinh tế chỉ là hình thức. Cơ chế bao cấp trong thời kì
này thể hiện chủ yếu qua 3 hình thức sau:
+ Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư,

hàng hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá trị thị trường.
Với giá thấp như vậy, coi như một phần những thứ đó được cho khơng. Do
đó, hạch tốn kinh tế chỉ là hình thức.


+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật): Nhà nước quy
định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, công
nhân theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá
khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật,
thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối
theo lao động.
+ Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng khơng có chế
tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó
vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn
kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin cho”.
2.1.2 Sự hoạt động của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trước năm
1986
Với việc Nhà nước kiểm soát toàn bộ hoạt động sản xuất, khiến cho
kinh tế tư nhân khơng có điều kiện phát triển, điều đó dẫn tới việc phương
thức sản xuất giá trị thặng dư cơ bản không tồn tại ở Việt Nam giai đoạn này.
2.1.3 Sự phát triển của nền kinh tế trước năm 1986
Trong giai đoạn này, Nhà nước liên tục thực hiện 2 kế hoạch đổi mới
kinh tế: kế hoạch 5 năm giai đoạn 1976-1980 và 1981-1986. Tuy nhiên trong
những năm đầu của kế hoạch 5 năm này cơ chế cũ chưa mất đi, cơ chế mới
chưa hình thành nên Đổi mới chưa có hiệu quả đáng kể. Trong giai đoạn 5
năm lần thứ nhất, kế hoạch có nhiều điểm duy ý chí nên phần lớn chỉ tiêu đều
khơng đạt. Sản xuất đình trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4 %/ năm (kế hoạch là 1314 %) trong khi tỷ lệ tăng dân số hàng năm trên 2,3 %. Tình trạng thiếu lương
thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải nhập 1,576 triệu tấn lương thực. Ngân
sách thiếu hụt lớn, giá cả tăng hàng năm 20 %, nhập khẩu nhiều gấp 4-5 lần
xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhiều cơng trình phải

bỏ dở, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu trầm trọng.


2.2. Giai đoạn đổi mới từ 1986 đến nay
2.2.1 Mô hình kinh tế sau năm 1986
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc “Đổi mới” chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa
và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập
quốc tế. -Thực hiện mạnh mẽ chính sách dân chủ hoá về kinh tế trên cơ sở
các nguyên tắc hiến định là tự do kinh doanh, tự do khế ước trong khuôn khổ
pháp luật. Mọi công dân Việt Nam có đủ điều kiện theo luật định đều có
quyền tự mình hoặc liên kết với những người khác thành lập doanh nghiệp
hoặc kinh doanh trên mọi lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật khơng cấm.
Trên cơ sở đó, một nền kinh tế nhiều thành phần, khơng chỉ có quốc
doanh và tập thể như trước đây đã hình thành; nhiều loại hình sở hữu về tư
liệu sản xuất đã ra đời, trong đó có các loại hình sở hữu hỗn hợp đan xen nhau
giữa các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp
luật, được tự do cạnh tranh với nhau theo một “luật chơi’’ chung của kinh tế
thị trường. -Nhà nước thực hiện cổ phần hóa các danh nghiệp nhà nước trao
một phần quyền kiểm soát đến các doanh nghiệp tư nhân.Tuy nhiên, để bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước sẽ định
ra một số ngành nghề then chốt mà kinh tế quốc doanh nắm độc quyền giữ vai
trị chủ đạo - Từng bước xố bỏ, đi đến xố bỏ hồn tồn cơ chế quản lý kinh
tế cũ theo lối hành chính, mệnh lệnh và kế hoạch hoá tập trung cao độ trên cơ
sở thiết lập từng bước vững chắc cơ chế thị trường, Nhà nước vẫn giữ vai trị
điều tiết vĩ mơ nền kinh tế quốc dân bằng các chính sách và cơng cụ kinh tế,
chấm dứt sự can thiệp theo lối mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp, ngay cả đối với các doanh nghiệp nhà
nước.



2.2.2. Sự hoạt động của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư sau năm 1986
Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, trong xã hội Việt Nam có
một hình thái hoạt động vốn bình thường nay trở nên sơi động. Đó là thành
phần kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Các
doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi dần hình
thành và tăng trửng nhanh chóng.
Hàng hóa được trao đổi mua bán mạnh mẽ trong và ngoài nước đem về lơi
nhuận cho các nhà sản xuất. Trong giai đoạn đầu này, khi cơ chế quản lí các
hoạt động kinh tế còn nhiều han chế phương pháp sx gttd tuyệt đối vẫn được
sử dụng nhưng ngay sau đó đã nhanh chóng chuyển sang phương thức sản
xuất thặng dư tương đối nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật khiến năng
suốt lao động tăng cao.
Sự phát triển của nền kinh tế sau năm 1986 Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế gây ấn tượng, được thế giới
đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của đất nước tăng lên nhiều. Sau 10 năm đổi
mới (1996) đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội; sau 25 năm
đổi mới (năm 2010) đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển,
bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Trong giai đoạn 2001- 2010,
kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD gấp 3,26 lần
so với năm 2000, năm 2011 khoảng 170 tỷ USD. GDP bình quân đầu người
năm 2010 đạt 1168 USD, năm 2014 ước tính khoảng 1900 USD/ người.
Trong 5 năm 2011-2015, do sự tác động của khủng hoảng tài chính thê giới,
suy thối kinh tế toàn cầu nên nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tốc
độ tăng GDP bị giảm sút. Tuy vậy, tốc độ tăng GDP bình quân vẫn ở mức
khá, ước đạt 5,8%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 5 năm
2006-2010 đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng vốn
ODA cam kết



đạt trên 31 tỷ USD, gấn hớn 1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt
khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 17,5%. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo
hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch
vụ tăng lên, khu vực nông nghiệp giảm xuống. Năm 2010, trong cơ cấu GDP,
khu vực công nghiệp chiếm 41,1%, khu vực dịch vụ chiếm 38,3%, khu vực
nông nghiệp chiếm 20,6%. Kết cấu hạ tầng ngày càng được xây dựng hiện
đại, đồng bộ; nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng lên ( năm 2013 là
49%), đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Những thành tựu đó cho
thấy những đóng góp khơng nhỏ trong việc áp dụng phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư đối với nền kinh tế thị trường ở VN. Cụ thể về phương thức sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối,hien nay mất dần. Chỉ tồn tại ở một số hoạt
động sản xuất nhỏ lẻ như thủ công và một số hoạt động sản xuất có sức lao
động thấp. Về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối, các tiến bộ
khoa học kĩ thuật được ứng dụng vào trong hoạt động sản xuất ngày càng
nhiều. Máy móc, trang thiết bị hiện đại đã giúp giảm thiểu sức lao động của
con người đi đáng kể trong khi vẫn đem tới giá trị thặng dư cho doanh nghiệp
cũng như các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Xu hướng sản xuất giá trị
thặng dư trở thành phương thức chủ yếu trong hoạt động kinh tế với qui mô
và tốc độ phát triển ngày càng cao. Tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế
tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá thể ln duy trì ổn định trong khoảng 39-40%.
Bước đầu đã hình thành được một số tập đồn kinh tế tư nhân có quy mơ lớn,
hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong
nước và quốc tế; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh. Số lượng DN của
tư nhân tăng nhanh với nhiều loại hình đa dạng; phong trào khởi nghiệp được
đẩy mạnh. Mức độ đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước của kinh tế tư
nhân luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng liên tục trong những năm qua. Tính đến
nay, cả nước có khoảng trên 500.000 DN tư nhân đang hoạt động và mỗi năm
có thêm hàng vạn DN được thành lập mới; Thu hút khoảng 51% lực lượng lao

động cả nước và tạo khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động mỗi năm,


góp phần quan trọng vào q trình tái cấu trúc nền kinh tế, tăng thu nhập cho
người dân. Trong nhiều năm trở lại đây các dự án có vốn đầu tư nước
ngoài(FDI) vào Việt Nam ngày càng nhiều, đặc biệt là Nhật Bản. Số liệu từ
Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, năm 2017, vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt 35,88 tỷ USD, tăng 44,4% so
với cùng kỳ 2016 và tăng cao nhất trong 10 năm trở lại đây. Cùng với đó, vốn
FDI giải ngân đạt 17,5 tỷ USD, tăng cao nhất từ trước đến nay


CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI TIẾN TRÌNH HỘI
NHẬP CỦA VIỆT NAM , TRONG BỐI CẢNH CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN ĐỘC QUYỀN ĐANG PHỔ BIẾN TRÊN TOÀN THẾ GIỚI

3.1. Mục tiêu
Về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Nước ta có nguồn
lao động dồi dào, cần phát huy khả năng tạo việc làm cho người lao động.
Tận dụng lợi thế này để sử dụng hiệu quá sức lao động trong sản xuất thúc
đẩy kinh tế phát triển. Về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Cần phát huy sự năng động của DN, tháo gỡ các khó khăn trong các chính
sách, tạo điều kiện thuận cho doanh nghiệp năng động sáng tạo thích ứng với
sự cạnh tranh của nền kinh tế. -Khoa học công nghệ có vai trị quan trọng
trong q trình sản xuất của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Tuy nhiên vấn đề này vẫn còn nhiều hạn chế. Từ năm 2001 đến nay, Nhà
nước chủ trương chi cho KHCN 2% tổng chi ngân sách hằng năm, nhưng
thực tế chưa năm nào đạt 2%, mà thông thường chỉ đạt 1,5 - 1,7% tổng chi.
Dự toán ngân sách nhà nước năm 2018 vừa được Quốc hội thông qua đã
quyết định tăng chi cho KHCN 8% so với năm 2017, nhưng chi cho KHCN
vẫn chưa đạt 2% tổng chi ngân sách. Chúng ta cần tăng cường ngân sách hơn

nữa cho hoạt động trên. -Nâng cao khả năng quản trị trong doanh nghiệp và
năng suốt lao động - Tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng và hạn chế sự
phân phối bất bình đẳng, sự chiếm đoạt phúc lợi, chế độ bảo hiểm của công
nhân …

3.2. Một số khuyến nghị Đối với Nhà nước
Nhà nước cần phải hồn thiện pháp luật, các chính sách, các chủ trương
để bảo vệ quyền lợi người lao động. Ví dụ như Nhà nước quy định mức lương
tối thiểu và thời gian làm việc của công nhân cho tất cả các doanh nghiệp ở


Việt Nam. Từ đó ấn định giá trị thấp nhất của sức lao động khiến cho nhà tư
bản không thể lợi dụng tình trạng thiếu việc làm để trả lương thấp hay kéo giá
trị sức lao động xuống thấp (Hiện tại mức lương tổi thiểu cho người lao động
là 2.580.000đ và thời gian làm việc theo quy định là 8 tiếng một ngày).
Đối với các doanh nghiệp: Chế độ đãi ngộ là quá trình chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần của người lao đơng để họ có thể hồn thành tốt
nhiệm vụ được giao và qua đó góp phần hoàn thành mục tiêu của doanh
nghiệp. Chế độ đãi ngộ nhân sự đóng vai trị khơng thể thiếu cho các doanh
nghiệp vì nó là điều kiện đủ để nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Chính sách đãi ngộ cịn giúp nâng cao đời sống cơng nhân,
góp phần tạo động lực kích thích người lao động lao động làm việc hiệu quả,
từ đó giúp cho các doanh nghiệp có thể duy trì nguồn nhân lực ổn định và có
chất lượng. Các doanh nghiệp cần phải hướng đến chính sách đãi ngộ tài diện
hơn. Ngồi những hình thức đãi ngộ qua con đường tài chính như bên cạnh
lương cơ bản cịn có các khoản trực tiếp phụ cấp lương, tiền thưởng hay gián
tiếp như bảo hiểm, trợ cấp xã hội, phúc lợi; doanh nghiệp cần phải cải thiện
chính sách đãi ngộ phi tài như mơi trường làm việc an toàn và lành mạnh, cơ
hội thăng tiến trong cơng việc, … Các doanh nghiệp phải có tổ chức cơng
đồn bảo vệ quyền lợi người lao động. Tổ chức cơng đồn bảo đảm cho cơng

nhân lao động trong điều kiện tốt và giảm sự nặng nề trong bóc lột của nhà tư
bản với công nhân. Đối với người lao động: Người lao động cần phải thực
hiện nghĩa vụ của người lao động, bao gồm các việc: thực hiện hợp đồng lao
động, thỏa ước lao động tập thể; chấp hành kỉ luật lao động, nội quy lao động,
tuân theo sự điều hành hợp pháp của người sử dụng lao động; thực hiện các
quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Người lao động
cũng cần phải nhận thức được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bao gồm
các việc như tự do lựa chọn nghề nghiệp, nâng cao trình độ bản thân, được
hưởng lương phù hợp với trình độ kĩ năng của mình trên cơ sở thỏa thuận,


được bảo hộ lao động, làm việc trong môi trường bảo đẩm an toàn lao động,
vệ sinh lao động; được nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và được
hưởng phúc lợi tập thể. Khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại,
người lao động có quyền được yêu cầu và đối thoại với các chủ doanh nghiệp
xem xét lại hoặc có thể tự mình đấu tranh thơng qua các hình thức như tổ
chức đình cơng hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật
nếu như không nhận được phản hồi thỏa đáng.


PHẦN III: KẾT LUẬN
Sau hơn 30 năm hội nhập, mở của thị trường, nên kinh tế Việt Nam đã
đạt được những tựu to lớn . Những thành tựu đó là kết quả của việc vận dụng
hiệu quả phương pháp sản xuất thăng dự trong hoạt động kinh tế. Tạo điều
kiện cho nền sản xuất hàng hóa tự do phát triển trong một nền kinh tế thị
trương đinh hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung
và lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích
nghiên cứu của kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản cổ

điển và xu hướng thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì
giờ đây, bên cạnh mục đích như trước, chúng ta cịn có mục đích nghiên cứu,
khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận
phong phú và sâu sắc về kinh tế thị trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới. Qua phân tích một
số vấn đề chủ yếu của lý luận giá trị thặng dư ở trên chúng ta vẫn tiếp tục
khẳng định rằng học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết về bản chất bóc lột và
địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản vẫn là cơ sở phương pháp luận để nhận
thức đúng chủ nghĩa tư bản hiện đại. Học thuyết đó cịn là cơ sở lý luận cho
sự vận dụng vào quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.


TÀI LIỆU THAM KHẢO.

( />( />Link: />m_1976-1986_%28Retail_price%29.png
Bảng 4.10, trang 273, trong Trần Văn Thọ chủ biên (2000), Kinh tế Việt Nam
1955-2000: Tính tốn mới, phân tích mới, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.)
/>phan_22.htm)
( )
( />( />
( />


×