Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tieu luan quyen luc chinh tri, quyền lực chính trị, những đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị và các hình thức tổ chức thực hiện quyền lực ấy trong các xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.63 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Vấn đề quyền lực nói chung và quyền lực chính trị nói riêng ln là vấn đề quan
tâm hàng đầu của mọi giai cấp, mọi đảng phái trong xã hội có giai cấp – xã hội được
tổ chức thành nhà nước.
Quyền lực chính trị là phạm trù xuất phát, nền tảng xuyên suốt và bao trùm của
chính trị; mọi phạm trù chính trị khác đều là sự phát sinh từ phạm trù này. Nắm lấy
quyền lực chính trị là vấn đề trung tâm của mọi cuộc đấu tranh giai cấp, mục tiêu trực
tiếp của mọi chủ thể chính trị. Một giai cấp chỉ có thể hiện thực hóa được lợi ích của
mình khi và chỉ khi giữ được và sử dụng đúng đắn quyền lực của xã hội mà trọng tâm
là quyền lực nhà nước.
Quyền lực chính trị cũng như hình thức tổ chức thực hiện quyền lực đó được quy
định bởi bản chất giai cấp; bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp; bởi cơ cấu giai
cấp xã hội thích ứng với cơ cấu của nền kinh tế; bởi trình độ phát triển của sản xuất,
của kinh tế, bởi trình độ phát triển của khoa học- kỹ thuật và cơng nghệ, bởi trình độ
văn hóa chung đặc biệt là trình độ văn hóa chính trị của người dân… các nhân tố vừa
nêu thì ln thay đổi. Quan niệm như vậy trở thành điểm xuất phát để nghiên cứu sự
tiến hóa của quyền lực chính trị cũng như các hình thức tổ chức thực hiện nó trong
các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội có giai cấp.
Và trong điều kiện cải cách và đổi mới hệ thống chính trị, việc tìm hiểu quyền
lực chính trị và các hình thức thể hiện nó trong các xã hơi có giai cấp có ý nghĩa tích
cực. Bởi vì, khơng thể đổi mới và hồn thiện hệ thống chính trị khi không biết kế thừa
và phát triển những nhân tố hợp lí đã có của nhân loại. Do vây, tơi xin chọn đề tài
"Quyền lực chính trị, những đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị và các hình
thức tổ chức thực hiện quyền lực ấy trong các xã hội có giai cấp" lam tiểu luận hết
mơn Chính trị học.

1


PHẦN NỘI DUNG
I.



MỘT SỐ QUAN NIÊM VỀ QUYỀN LỰC, QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
1.1. Quan niệm về quyền lực và quyền lực chính trị:
1.1.1. Quyền lực:
Trong lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại, ngay từ thời cổ đại, quyền lực đã được

lưu ý và đề cập. Arixtốt quan niệm quyền lực khơng chỉ có ở mọi sự vật biết cảm giác
mà cịn có ở cả trong giới tự nhiên vơ cơ. Thời trung cổ, các nhà thần học tôn vinh
“quyền lực thượng đế” lên hàng đầu. Song, bên trong cái “vỏ thánh thần” đó S.Ogt
xtanh khẳng định: “con người thì cần một xã hội mà xã hội thì cần một quyền uy”.
Thời Phục Hưng và Khai Sáng các nhà không tưởng và Bách khoa toàn thư chủ
trương đánh đổ quyền lực phong kiến để xác lập quyền lực tư sản, nhưng chỉ nhấn
mạnh nhà nước là “vương quốc của lí trí”. Thời hiện đại, qua những thăng trầm của
lịch sử nhân loại, Bertrand Russel rút ra nhận xét: “lòng đam mê quyền lực và danh
vọng là những ước muốn vô hạn của con người. Nó chính là nguồn gốc sinh ra mọi
đổi thay” hay “quyền lực là khả năng tạo ra những sản phẩm một cách có chủ ý.
Nhà chính trị học Mỹ Robert Dahl cho rằng: quyền lực là cái mà nhờ đó người
khác phải phục tùng. Cịn LebicLipson thì xem quyền lực là khả năng đạt tới kết quả
nhờ một hành động phối hợp. A.Toffler thì khẳng định: “quyền lực là cái buộc người
khác phải hành động theo ý của ta”.
Bách khoa triết hoc Liên Xô định nghĩa: quyền lực là khả năng thực hiện ý chí
của mình, có tác động đến hành vi của người khác nhờ một phương tiện nào đó như
uy tín, sức mạnh.
Qua những định nghĩa trên cho thấy, các nhà khoa học đã nêu ra quan niệm
chung nhất về quyền lực. Song, ở đây còn giới hạn xem xét vấn đề quyền lực trong
quan hệ cá nhân mà chưa thấy được quan hệ quyền lực là quan hệ giữa các giai cấp;
giai cấp này có thể chi phối giai cấp khác là do có địa vị ưu thế trong hệ thống sản
xuất xã hội và trong thực tế còn cho thấy quan hệ quyền lực giữa các cá nhân thường
2



gắn với quan hệ quyền lực giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội, các quốc gia dân
tộc… mà họ đại diện.
Quan hệ quyền lựcthể hiện ở hành vi ít nhất là hai chủ thể: chi phối vàbị chi phối
hay chỉ huy ra lệnh và tuân thủ phục tùng. Có thể nói, đó là đặc trưng cơ bản của quan
hệ quyền lực và để thực hiện được điều đó chủ thể đó phải có hai điều kiện:
Có sức mạnh hơn chủ thể khác.
Có địa vị xã hội ưu thế hơn chủ thể khác.
Từ sự phân tích trên có thể định nghĩa: quyền lực là mối quan hệ giữa các chủ thể
hành động của đời sống xã hội, trong đó chủ thể này có thể chi phối hoặc buộc chủ
thể khác phải phục tùng ý chí của mình nhờ có sức mạnh, vị thế nào đó trong quan hệ
xã hội.
1.1.2. Quyền lực chính trị:
Quyền lực chính trị là phạm trù cơ bản của chính trị học nói lên thực chất hoạt
động chính trị của mọi giai cấp, mọi đảng phái trong xã hội có giai cấp. Mọi phạm trù
cịn lại của chính trị học đều có thể được xem là những phạm trù phát sinh, cụ thể hóa
và làm sáng tỏ các phương diện khác nhau của chính trị. Nói tới quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước là nó tới quyền lực của một giai cấp này dùng quyền lực để trấn
áp giai cấp khác.
Sự hình thành các khái niệm về quyền lực chính trị trong xã hội lồi người đã trải
qua một quá trình lịch sử lâu dài. Khái niệm đầu tiên về quyền lực và quyền lực chính
trị được Arixtốt nghiên cứu trong tác phẩm “chính trị Aten” từ thời cổ đại. Thời
Trung cổ các nhà tư tưởng xem quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước như là thứ
quyền lực của Thượng đế. Các nhà Khai Sáng và bách khoa thời Phục Hưng ở châu
Âu lại quan niệm quyền lực chính trị là quyền lực nhà nước như là vương quốc của lí
trí và đặt vấn đề xác lập quyền lực chímh trị của giai cấp tư sản như là một thứ quyền
lực siêu giai cấp và phi giai cấp.
Trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác- Lênin đã
có một cách tiếp cận mới mang tính khoa hoc và cách mạng về quyền lực và quyền
lực chính trị. Quyền lực chính trị, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, là

3


quyền lực của một giai cấp hay một liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội hoặc của nhân
dân – trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội. Nó nói lên khả năng của một giai cấp thực
hiện lợi ích của mình. Quyền lực chính trị theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ
chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác. Quyền lực chính trị của giai cấp
cầm quyền được tổ chức thành nhà nước. Quyền lực nhà nước là quyền lực của giai
cấp thống trị được thực hiện bằng cả một hệ thống chun chính do giai cấp đó đặt ra.
Quyền lực chính trị là khả năng để một giai cấp hoặc một liên minh giai cấp thực hiện
lợi ích khách quan của mình. Quyền lực nhà nước được tổ chức thành cả một hệ thống
thiết chế và có khả năng vận dụng các công cụ của nhà nước để buộc các giai cấp,
tầng lớp xã hội khác phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
II. QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ VÀ CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC THỰC
HIỆN QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ TRONG LỊCH SỬ:
2.1. Quyền lực chính trị và các hình thức tổ chức thực hiện nó trong xã hội
chiếm hữu nơ lệ:
Trong xã hội có giai cấp, sự biến đổi của cơ sở kinh tế và cùng với nó là sự biến
đổi của cơ cấu xã hội giai cấp cũng như vị trí lịch sử của các tầng lớp, giai cấp mà
quyền lực chính trị cũng khơng ngừng biến đổi. Quyền lực chính trị được tập trung
chủ yếu vào quyền lực nhà nước, nghĩa là chủ yếu là quyền lực của giai cấp thống trị.
Chế độ chủ nô dựa trên cơ sở xã hội phân chia thành hai giai cấp cơ bản: chủ nô
và nô lệ cùng với một số tầng lớp lao động khác (nông dân, thợ thủ công…). Cơ sở xã
hội cho sự thống trị đó là xã hội chiếm hữu nô lệ, cơ sở kinh tế là tư liệu sản xuất cơ
bản nằm trong tay giai cấp chủ nô. Sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô lệ đánh dấu
thời điểm xuất hiện của loại quyền lực chính trị đầu tiên trong lịch sử – quyền lực của
chủ nô là chủ thể sở hữu ruộng đất , nông cụ, súc vật và cả người nô lệ, chủ nơ trở
thành chủ thể duy nhất của quyền lực chính trị. Nơ lệ chỉ là những “cơng cụ biết nói”
và phụ thuộc hồn tồn vào chủ nơ kể cả sự tồn vong về thể xác.
4



Quyền lực chính trị của chủ nơ chủ yếu được thực hiện bằng nhà nước chủ nơ
dưới hình thức qn chủ cộng hịa dân chủ chủ nơ hoặc cộng hịa q tộc chủ nơ.
Nhìn một cách khái qt đặc trưng cơ bản về quyền lực chính trị và các hình thức
thể hiện, thực hiện quyền lực ấy trong xã hội chiếm hữu nơ lệ có một số điểm cơ bản
sau:
Quyền lực chính trị trong xã hội chiếm hữu nơ lệ, thực chất là quyền lực nhà
nước với hình thức chính thể chủ yếu là quân chủ. Quyền lực ấy là quyền lực có tổ
chức chỉ của giai cấp chủ nơ được thực hiện chủ yếu bằng bộ máy nhà nước, lực
lượng chủ yếu của bộ máy nhà nước chủ nô là quân đội và cảnh sát.
Bộ máy quyền lực nhà nước lúc đầu còn đơn giản, chức năng chủ yếu là cơng cụ
trấn áp. Chủ nơ nắm tồn bộ quyền lực, vừa tự đặt ra pháp luật, vừa tổ chức thực hiện,
vừa xét xử và vừa là người lãnh đạo quân sự. Tổ chức quyền lực còn đơn sơ. Sau này,
cùng với sự phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ bộ máy nhà nước của chủ nô được
tăng cường và có bước phát triển hơn, lực lượng vũ trang và các cơ quan xét xử tách
rời nhau và được tổ chức độc lập.
Công cụ để điều hành và quản lý xã hội của nhà nước chủ nô chủ yếu là bạo lực
để trấn áp nơ lệ. Tính chất quân phiệt, tàn bạo với đại bộ phận dân cư là đặc trưng phổ
biến. Tuy nhiên ở các nhà nước chủ nô phương Tây các phương pháp thực hiện quyền
lực nhà nước ít nhiều có tính dân chủ hơn. Trong khi đó hệ thống quyền lực chủ nơ
phương Đơng chủ yếu mang tính độc tài, chun chế
Hình thức tổ chức quyền lực chính trị tối cao phổ biến là quân chủ chuyên chế. Ở
đó đứng đầu quyền lực tối cao thuộc về một người. Người đó được mệnh danh là “con
trời” thể theo lịng trời mà làm vua, khơng chịu trách nhiệm pháp lý trước ai cả.
Nhìn chung, quyền lực chính trị của chủ nơ được thiết lập trên nền tảng xã hội ở
trình độ thấp, lực lượng sản xuất chưa phát triển, các mối quan hệ xã hội còn đơn
giản, nên hình thức tổ chức quyền lực nhà nước chưa chặt chẽ, phạm vi tác động và
điều chỉnh còn hẹn hẹp.
2.2. Quyền lực chính trị và các hình thức tổ chức thực hiện nó trong xã hội

phong kiến:

5


Để hiểu đặc trưng của quyền lực chính trị phong kiến cũng như hình thức tổ chức
thực hiện nó cần phải làm sáng tỏ đặc điểm của cơ sở kinh tế và kết cấu giai cấp xã
hội trong xã hội đó.
Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là sở hữu của địa chủ phong kiến đối với
ruộng đất cũng như những tư liệu sản xuất khác và sở hữu cá thể của nông dân trong
sự lệ thuộc vào địa chủ.
Bước sang xã hội phong kiến, cấu trúc xã hội phức tạp hơn. Ngồi hai giai cấp
chính là địa chủ và nơng dân cịn có thương nhân, thợ thủ công và tầng lớp quý tộc
đang sa sút. Đặc trưng của chế độ phong kiến là cấu trúc thứ bậc trong chiếm hữu
ruộng đất và đứng ở vị trí cao nhất của hệ thống thứ bậc đó là vua hoặc quốc vương.
Người nông dân sống trên lãnh địa của phong kiến và lao động cho phong kiến.
Ngồi ra, họ cịn là những người sản xuất nhỏ họ có mảnh ruộng, nhà ở, công cụ canh
tác… đây được xem là một ưu thế của phương thức sản xuất phong kiến so với
phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên, sự bóc lột của địa chủ phong kiến
đối với nơng dân cịn rất nặng nề.
Ngồi ra, ở thời kỳ Trung cổ, sự xuất hiện của thành phố và các trung tâm
thương mại đóng vai trị quan trọng đối với đời sống kinh tế – chính trị của các quốc
gia phong kiến và cùng với sự phát triển của thủ công nghiệp mâu thuẫn xã hội trong
phường hội cũng hình thành và phát triển.
Với một cơ sở kinh tế và kết cấu xã hội khá phức tạp đó của xã hội phong kiến
đã quy định bản chất của quyền lực chính trị trong các nhà nước phong kiến. Dựa vào
sức mạnh của bộ máy nhà nước, quyền lực chính trị trong xã hội phong kiến chủ yếu
là quyền lực nhà nước. Nhà nước là tổ chức cơ bản nhất để thực hiện quyền lực chính
trị của giai cấp phong kiến. Đó là sức mạnh chuyên chính của địa chủ phong kiến
chống lại những người sản xuất nhỏ: nông dân và thợ thủ cơng.

Thích ứng với trạng thái kinh tế và cơ cấu xã hội giai cấp nêu trên, hình thức
quân chủ trở thành phương thức tổ chức quyền lực chính trị tối cao trong nhà nước
phong kiến.Trong quá trình phát triển hệ thống quyền lực phương Tây trải qua hai
giai đoạn: cát cứ và tập quyền.

6


Ở giai đoạn cát cứ, bộ máy quyền lực nhà nước với người đứng đầu là lãnh chúa.
Bên cạnh lãnh chúa là những người giúp việc và lực lượng vũ trang, vua được xem là
lãnh chúa lớn nhất. Ở giai đoạn này quyền lực chính trị lại được thể hiện ở quyền lực
của các lãnh chúa ở các địa phương, trở thành các lực lượng cát cứ, gây cản trở cho sự
phát triển lực lượng sản xuất và làm suy yếu trung ương. Tồn bộ nước phong kiến có
một quyền lưc chính trị tối cao ở trung ương nhưng yếu. Thực chất của quyền lực tối
cao này là sự liên hợp của nhiều quyền lực độc lập hoặc hầu như độc lập.
Tùy theo điều kiện mỗi nước, các chính thể và hình thức tổ chức có những biến
dạng nhất định, song có điểm khơng thay đổi là: ở đâu tồn tại hình thức cát cứ thì ơng
vua chỉ nắm quyền trên danh nghĩa. Nhưng các chúa phong kiến có trách nhiệm phải
thần phục vua và phải có nghĩa vụ đối với vua. Tuy nhiên, những chúa phong kiến lớn
thường tìm cách bành trướng để hạn chế việc tăng cường quyền lực của chính quyền
trung ương.
Trong giai đoạn tập quyền: do sự phát triển của kinh tế hàng hóa – sự trưởng
thành của các đô thị và tầng lớp thị dân địi hỏi phải gạt bỏ các trở ngại do tình trạng
cát cứ gây nên. Đòng thời các địa chủ vừa và nhỏ, tầng lớp thị dân ủng hộ việc tập
trung quyền lực vào chính quyền trung ương, xóa bỏ các đặc quyền của lãnh chúa ở
các lãnh địa để họ dễ dàng tiêu thụ sản phẩm nơng nghiệp, tìm sức lao động… mặt
khác, do sự đàn áp bóc lột của các lãnh chúa phong kiến, các cuộc khởi nghĩa của
nông dân ngày càng lớn mạnh cũng khiến cho các chúa đất thấy cần phải có nhà nước
trung ương tập quyền mạnh với quân đội thường trực mới có thể giữ được chính
quyền của chúng. Ngồi ra, ở một số nước, do yêu cầu về phòng vệ chống ngoại xâm

cũng là một yếu tố địi hỏi phải hình thành nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.
Trong thời kỳ này, quyền lực tập trung tuyệt đối vào triều đình, triều đình trở
thành trung tâm sinh hoạt chính trị của nhà nước, ông vua có quyền lực tối cao là
người nắm quyền thống trị về mặt chính trị, vua khơng bị ai hoặc tổ chức nào hạn chế
và ràng buộc về quyền lực, nhân dân chỉ là thần dân, là con vua. Do vậy, vua có thể
ban phát cho bất kỳ ai và với mức độ nào theo ý mình. Ở phương Đơng trong suốt q
trình phát triển chế độ phong kiến, quyền lực chính trị tập trung cao độ vào bộ máy
7


nhà nước trung ương, vua là “con trời”, “thế thiên hành đạo”, bộ máy nhà nước do
vua lập ra để bảo vệ chế độ chuyên chế. Tuy nhiên có những ông vua cũng có tư
tưởng thân dân, coi dân như con và tạo điều kiện cho dân phát triển kinh tế – xã hội
được hưởng một số quyền tự trị nhất định.
Một trong những đặc trưng điển hình của quyền lực chính trị trong xã hội phong
kiến là sự kết hợp chặt chẽ giữa quyền lực thế tục và quyền lực tôn giáo. Sự đan xen
của hai thứ quyền lực ấy bao trùm lên toàn xã hội tạo nên sức mạnh sai khiến toàn xã
hội. Quyền lực nhà nước cũng như quyền lực tôn giáo được thực hiện và thể hiện theo
đẳng cấp tạo thành các bậc thang quyền lực. Tất cả tôn ti trật tự của đẳng cấp phong
kiến đè nặng lên xã hội. Để bảo vệ quyền lực chính trị và trật tự đẳng cấp của quyền
lực ấy, nhà nước phong kiến đã sử dụng phương tiện pháp luật. Nhưng pháp luật đó
được đặt ra khơng phải để bảo vệ quyền lợi của đại đa số người dân trong xã hội mà
nó là phương tiện để bảo vệ và duy trì sự thống trị của đẳng cấp phong kiến. Vì vậy
có thể nói pháp luật phong kiến là pháp luật đặc quyền, quy định hình phạt tập thể
một cách phổ biến đồng thời nó cịn mở rộng sự tùy tiện cho người áp dụng pháp luật.
Ngoài ra, pháp luật phong kiến cịn cơng khai thừa nhận việc sử dụng bạo lực trực
tiếp để bảo vệ và củng cố quyền lực phong kiến.
Như vậy, với hình thức tổ chức quyền lực tập trung tuyệt đối, đã hình thành một
bộ máy quan liêu phức tạp. Chế độ đẳng cấp theo quan hệ lãnh chúa chư hầu biến
thành chế độ đẳng cấp phục vụ triều đình.

Do sự phát triển của thủ cơng nghiệp và thương nghiệp, các thành thị hình thành
trong nước phong kiến và hầu hết chúng phụ thuộc vào các lãnh chúa phong kiến
hoặc lệ thuộc trực tiếp vào nhà vua. Tuy nhiên, cũng có những thành thị giành được
quyền tự trị. Các thành thị này tổ chức quyền lực chính trị theo chính thể cộng hịa.
Người đứng đầu quyền lực nhà nước do dân cư thành thị đó bầu ra.
Như vậy, chế độ phong kiến phát triển đến đỉnh cao của nó sẽ ra đời hình thức
cộng hịa phong kiến. Đó là sản phẩm của tương quan lực lượng giữa giai cấp phong
kiến đang suy tàn với tầng lớp thị dân đang vươn lên. Bước nhảy vọt trong so sánh
8


lực lượng đó sẽ dẫn đến cải biến căn bản hệ thống quyền lực phong kiến. Quyền lực
và hệ thống quyền lực chính trị của giai cấp tư sản ra đời.
2.3. Quyền lực chính trị và các hình thức tổ chức, thực hiện nó trong xã hội
tư bản:
Kể từ khi ra đời cho đến nay, chủ nghĩa tư bản đã tiến hóa qua nhiều giai đoạn,
trong đó có thể đưa ra hai giai đoạn cơ bản: giai đoạn đầu được gọi là giai đoạn chủ
nghĩa tư bản cổ điển, giai đoạn hai được xem là chủ nghĩa tư bản hiện đại
2.3.1. Quyền lực chính trị và các hình thức tổ chức, thực hiện nó trong xã hội
tư sản cổ điển:
Đây là giai đoạn hình thành chế độ tư hữu tư bản đối với tư liệu sản xuất là giai
đoạn phát triển cạnh tranh tự do. Sự phát triển của xã hội tư bản trong giai đoạn này
chủ yếu được điều chỉnh bằng các quy luật nội tại của bản thân nó. Xã hội tư sản
trong giai đoạn này được củng cố và phát triển theo chiều hướng đi lên. Có thể nói
đây là bước tiến bộ vượt bậc so với các xã hội trước đó.
Cơ sở xã hội của sự thống trị của giai cấp tư sản là xã hội tư bản. Đặc điểm của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là nền sản xuất đại cơng nghiệp cơ khí. Trong xã hội có
nhiều nhóm lợi ích, nhiều tầng lớp, nhiều giai cấp và nhiều mối quan hệ đan xen phức
tạp, trong đó hai giai cấp cơ bản có lợi ích cơ bản đối lập nhau là giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản. Để đảm bảo sự thống trị của mình, giai cấp tư sản đã thiết lập nên một

hệ thống tổ chứcquyền lực chính trị phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội. Hệ thống
quyền lực đó có kết cấu chặt chẽ và tính tập trung cao. Điều đó tạo cho nhà nước của
giai cấp tư sản có đủ sức mạnh để điều chỉnh các quan hệ xã hội, điều hòa các mâu
thuẫn giai cấp và khống chế sự phản kháng của các lực lượng đối lập, đăc biệt là đối
với giai cấp vô sản. Trong giai đoạn này quyền lực chính trị của giai cấp tư sản được
tổ chức, củng cố và xác lập bằng các thể chế dân chủ mà các xã hội trước đó chưa có.
Quyền lực nhà nước là biểu hiện tập trung của quyền lực chính trị nhưng quyền
lực nhà nước giai đoạn này dường như nó đứng ngồi hoạt động kinh tế của xã hội tư
bản nó chỉ can thiệp vào một số hoạt động có biểu hiện làm lung lay chế độ tư sản.
Đây chính là sự phân cơng tương đối rạch ròi giữa quyền lực nhà nước và quyền lực
9


kinh tế của giai cấp tư sản. Điều đó chứng tỏ rằng lúc này quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa chưa cần có sự can thiệp của nhà nước, bởi sự phát triển của chúng được điều
chỉnh bằng các quy luật của bản thân nó. Lúc này nhà nước tư sản sẳn sàng bảo vệ lợi
ích của tất cả các chủ sở hữu, kể cả tiểu chủ đối với tư liệu sản xuất.
Bộ máy quyền lực nhà nước của giai cấp tư sản trong giai đoạn này có một số
đặc trưng cơ bản như sau:
Bộ máy quyền lực nhà nước tư sản mang tính kế thừa: xét về mặt bản chất, bộ
máy nhà nước tư sản có cùng tính chất với bộ máy nhà nước phong kiến là công cụ
bóc lột giai cấp, duy trì sự thống trị của một giai cấp đối với số đông trong xã hội. Vì
vậy, cách mạng tư sản, lẽ ra phải đập tan bộ máy thống trị , xây dựng bộ máy nhà
nước tư sản mới thì giai cấp tư sản lại làm cho bộ máy đó hồn thiện thêm, giai cấp tư
sản sau khi giành được thắng lợi, đã kế thừa các thiết chế của chế độ cũ, cải biến và
hoàn thiện bộ máy đó để nó thích ứng với điều kiện mới và trở thành công cụ đắc lực
phục vụ cho lợi ích giai cấp tư sản.
Quyền lực nhà nước tư sản được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền: cơ sở để
tạo cho quyền lực chính trị tư sản đủ mạnh, giữ vững được sự thống trị của mình là sự
phân quyền trong tổ chức quyền lực. Quyền lực nhà nước được phân ra làm ba quyền:

lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này chế ước, kiểm soát lẫn nhau tạo nên
thế giằng co, hạn chế được sự tha hóa của quyền lực. Bên cạnh đó, pháp luật cịn được
sử dụng như một cơng cụ đắc lực của nhà nước. Nó trở thành quyền lực tối thượng mà
ngay cả hoạt động của nhà nước cũng đặt dưới quyền kiểm sốt của nó.
Một số bộ phận cấu thành cơ bản của quyền lực nhà nước tư sản trong giai
đoạn này:
Nghị viện: có vị trí đặc biệt trong hệ thống cơ quan quyền lực trung ương của
nhà nước tư sản. Về hình thức đó là cơ quan đại diện cao nhất. Với tư cách là bộ phận
cấu thành của bộ máy quyền lực nhà nước, lại là cơ quan quyền lực và cơ quan lập
pháp của nhà nước tư sản, nghị viện thể chế hóa các quyết định chính trị quan trọng,
biến ý chí của giai cấp tư sản thành pháp luật. Nghị viện tư sản khơng cịn là cơ quan
chỉ nói xng mà nó ngày càng trở thành diễn đàn đấu tranh gay gắt giữa các thế lực
10


khác nhau trong xã hội, nó được xem là một trong những thể chế dân chủ nhất của bộ
máy quyền lực nhà nước tư sản.
Chính phủ: chính phủ ở các nước tư sản là cơ quan hành pháp, chịu trách
nhiệm về hoạt động quản lí nhà nước, chính phủ chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống
các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương, đứng đầu chính phủ là thủ tướng.
Chính phủ các nước tư sản có quyền hạn rộng rãi trong lĩnh vực hành pháp. Trên thực
tế nó quyết định phần lớn các chính sách đối nội đối ngoại của nhà nước.
Nguyên thủ quốc gia: trong hệ thống các cơ quan nhà nước tối cao ở các nước
tư sản, về mặt pháp lý, nguyên thủ quốc gia ngay từ đầu đứng ở vị trí hàng đầu, chịu
trách nhiệm lãnh đạo bộ máy nhà nước. Thông thường nguyên thủ quốc gia là người
đại diện cho quyền hành pháp, đại diện cao nhất của nhà nước trong quan hệ quốc tế
và quyền hạn của nguyên thủ quốc gia được quy định khác nhau tùy theo hình thức
chính thể của từng nước.
Hệ thống tòa án: trong bộ máy quyền lực nhà nước tư sản, tịa án là cơ quan có
vị trí đặc biệt. Là khâu độc lập của cơ quan quyền lực nhà nước, tách khỏi nhân dân,

tòa án tư sản đóng vai trị rất quan trọng trong việc thực hiện quyền lực chính trị của
giai cấp tư sản và khơng chịu tác động của q trình dân chủ hóa đời sống chính trị
của đất nước. Về hình thức, bên cạnh hệ thống tòa án truyền thống, ở một số nước tư
sản cịn lập ra tịa án Hiến pháp, tồ án hành chính, tịa án lao động…
Bộ máy hành chính: hoạt động của các cơ quan quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp của bộ máy nhà nước tư sản được bảo đảm bằng bộ máy hành chính. Bộ máy
này được tạo nên bởi hệ thống quan chức hành chính, gồm các cơ quan nhà nước và
các quan chức, dưới sự chỉ đạo của chính phủ thực hiện các chức năng quản lí nhà
nước.
Các hình thức tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước tư sản:
Xét từ góc độ pháp lý, hình thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước tư sản
gồm hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.

11


Hình thức chính thể: hình thức chính thể của nhà nước tư sản là cách thức tổ
chức và trật tự thành lập cơ quan quyền lực nhà nước tối cao và xác lập mối quan hệ
giữa chúng. Hình thức chính thể bao gồm: chính thể quân chủ và chính thể cộng hịa.
Chính thể qn chủ: chính thể qn chủ ở các nước tư sản là chính thể quân
chủ lập hiến, quyền lực nhà nước của nguyên thủ (vua, quốc vương) được truyền lại
cho người kế vị. Nguyên nhân tồn tại của chính thể quân chủ lập hiến là sự thỏa hiệp
giữa tư sản và phong kiến. Ở các nước có chính thể quân chủ lập hiến, chế độ quân
chủ vẫn tồn tại, nhưng đã dần dần thích ứng với lợi ích của giai cấp tư sản đang nắm
chính quyền. Quyền lực của vua bị hạn chế bởi Hiến pháp di Nghị viện ban hành.
Căn cứ vào tương quan quyền lực giữa nhà vua và nghị viện, có thể phân chia
chính thể quân chủ lập hiến thành chính thể quân chủ nhị hợp và chính thể quân chủ
đại nghị. Trong chính thể quân chủ nhị hợp tồn tại tính song phương quyền lực giữa
nhà vua và nghị viện, quyền lực của vua bị hạn chế ở lĩnh vực lập pháp nhưng lại rất
rộng ở lĩnh vực hành pháp. Cịn trong chính thể qn chủ đại nghị vua tồn tại mang

tính hình thức. Quyền lực của vua khơng có ảnh hưởng trong lĩnh vực lập pháp và bị
hạn chế rất nhiều ở lĩnh vực hành pháp.
Chính thể cộng hịa: đây là hình thức cai trị tiến bộ và dân chủ hơn so với
chính thể qn chủ. Chính thể cộng hịa gồm hai loại: cộng hòa tổng thống và cộng
hòa đại nghị.
Cộng hòa tổng thống: trong chính thể cộng hịa tổng thống, vai trò của tổng
thống rất lớn. Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu chính
phủ. Chính phủ do tổng thống lập ra và độc lập với nghị viện. Các thành viên của
chính phủ do tổng thống lựa chọn và chỉ chịu trách nhiệm trước tổng thống. Nghị viện
khơng có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với chính phủ. Tổng thống do nhân dân trực
tiếp hay do đại cử tri bầu ra theo nhiệm kỳ. Trong thực hiện quyền lực nhà nước tổng
thống ngang quyền với nghị viện. Tổng thống không được quyền giải tán nghị viện
trước thời hạn, và nghị viện cũng khơng có quyền giải tán chính phủ. Ở đây, sự phân
định quyền lực giữa tổng thống, nghị viện, chính phủ khá rõ ràng.
12


Cộng hịa đại nghị: cộng hịa đại nghị có đặc điểm là chính phủ do nghị viện
lập ra và chịu trách nhiệm trước nghị viện. Nghị viện có quyền kiểm tra hoạt động của
chính phủ. Tổng thống do chính nghị viện bầu ra. Tổng thống có quyền chọn thành
viên chính phủ, nhưng phải là những đại biểu từ phái đa số trong nghị viện. Trong
trường hợp chính phủ khơng được tín nhiệm của nghị viện, thì hoặc là chính phủ phải
từ chức tập thể hoặc là nghị viện bị giải thể để bầu nghị viện mới. Ở các nước có chế
độ cộng hòa đại nghị, vai trò của tổng thống tương đối lu mờ trước thủ tướng là người
đứng đầu chính phủ.
Hình thức cấu trúc nhà nước: là cơ cấu tổ chức quyền lực hành chính lãnh thổ
của nhà nước, mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với các bộ phận cấu thành, giữa
các đơn vị hành chính với nhau cũng như các mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước
trung ương với địa phương.
Nhà nước tư sản có hai hình thức cấu trúc là hình thức đơn nhất và hình thức liên

bang.
Nhà nước đơn nhất: là một quốc gia thống nhất được chia thành các đơn vị
hành chính lãnh thổ. Các đơn vị hành chính - lãnh thổ là bộ phận cấu thành nhà nước
đơn nhất, chúng không có quyền lực chính trị riêng. Ở các nước đơn nhất. Việc tổ
chức thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương có những sự khác nhau. Trong một
số nước, xu hướng quyền lực tập trung cao độ về trung ương được coi trọng. Nhà
nước cử đại diện của mình về địa phương trực tiếp quản lí mọi mặt hoạt động ở đây.
Ở một số nước khác thực hiện tản quyền trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước
ở địa phương. Tại các nước này xuất hiện dấu hiệu tự trị của chính quyền địa phương.
Nhà nước liên bang: là cấu trúc nhà nước bao gồm nhiều đơn vị cấu thành,
trong đó, mỗi đơn vị đều có quyền lực riêng. Các đơn vị trong cấu trúc nhà nước liên
bang có sự độc lâp tương đối ở một số lĩnh vực trong quan hệ với quyền lực nhà nước
liên bang và với nhau. Nhà nước liên bang có Hiến pháp và hệ thống pháp luật của
mình. Hiến pháp và các đạo luật của nhà nước liên bang có hiệu lực tác động trên tồn
bộ lãnh thổ của liên bang, khơng bị hạn chế bởi biên giới của các bang; chúng mang
13


tính tối cao đối với Hiến pháp và hệ thống luật lệ của mỗi bang. Công dân của mỗi
bang đồng thời là cơng dân của liên bang.
Chế độ chính trị: được hiểu là tập hợp các phương pháp và thủ doạn mà giai cấp
tư sản sử dụng để thực hiện quyền lực chính trị của mình. Chế độ chính trị của nhà
nước tư sản được phản ánh qua các phương pháp hoạt động của hệ thống cơ quan nhà
nước, qua địa vị pháp lý của công dân và các tổ chức chính trị, xã hội. Chế độ chính
trị mang tính năng động thường xuyên thay đổi do tác động của hồn cảnh lịch sử cụ
thể. Trong các chế độ chính trị do nhà nước tư sản thực hiện, thì chế độ dân chủ tư sản
trong giai đoạn đầu (cổ điển) là tiến bộ hơn cả. Khi nền dân chủ tư sản được thiết lập,
nguyên tắc phổ thong đầu phiếu được ban hành và nó thừa nhận sự bình đẳng của mọi
người dân trước pháp luật. Nhưng khi áp lực từ phía nhân dân lao động tăng cao, ở
một số nước chế độ quân phiệt dần dần lấn át, nhà nước tư sản đàn áp dã man, khốc

liệt các lực lượng chống đối. Rõ ràng nền dân chủ tư sản chỉ có thể tồn tại đến khi nào
cịn có lợi cho giai cấp tư sản.
2.3.2. Quyền lực chính trị và các hình thức tỏ chức, thực hiện nó trong xã
hội tư bản hiện đại:
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản hiện đại, quyền lực chính trị và hệ thống thực
hiện nó có những sự biến đổi quan trọng:
Việc chuyển từ văn minh kỹ thuật sang nền văn minh tin học hóa, sử dụng những
thành tựu mới nhất của khoa học - cơng nghệ vào qúa trình kinh tế và xã hội đã phần
nào làm giảm áp lực đấu tranh của giai cấp công nhân trong nước cũng như của nhân
dân các nước khác muốn thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới. Mặt
khác, cũng nhờ áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật mà giai cấp tư sản đã
hồn thiện thêm được một bước cơng nghệ cai trị của mình.
Một điểm cũng rất đáng chú ý là nhà nước tư bản hiện đại có xu hướng thực hiện
ngày càng nhiều hơn, có hiệu quả hơn chức năng cơng quyền của mình. Trong khi
khẳng định bản chất tư sản của hệ thống quyền lực chính trị thì khả năng thực hiện
chức năng xã hội của nhà nước tư sản cũng được xem trọng.
14


Cũng như hệ thống quyền lực chính trị ở bất kỳ một xã hội có giai cấp nào khác,
nhà nước tư bản hiện đại là cơng cụ chính trị chủ yếu trong hệ thống quyền lực chính
trị của giai cấp tư sản. Ngồi ra sức mạnh quyền lực chính trị của giai cấp tư sản hiện
đại được nhân lên còn nhờ giai cấp tư sản đã biết kiến lập một hệ thống chính trị trên
cơ sở những thành tựu khoa học – kỹ thuật hiện đại. Trong giới hạn có thể được, cả
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở các nước tư bản phát triển đều được “khoa
học hóa”.
Tính phổ biến của sự phân lập các quyền cũng nha hình thức đa ngun về chính
trị với tư cách là đặc trưng thứ tư của hệ thống quyền lực chính trị trong chủ nghã tư
bản hiện đại cũng làm cho hệ thống quyền lực đó sống động hơn.
Ở các nước tư bản phát triển, quyền lực của cơng đồn, của các tổ chức gây áp

lực khác cũng có vị trí ngày càng tăng lên. Chính hoạt động của các tổ chức đó đã
mang lại quyền lực chính trị cho nhân dân với một tỉ trọng ngày một lớn hơn. Đây
cũng là một nhân tố dẫn tới sự tăng trưởng của thể chế dân chủ ngay trong các nước
tư bản phát triển; Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản cũng
được phản ánh đậm nét vào sự cạnh tranh ngay trong hệ thống quyền lực của giai cấp
tư sản cầm quyền hay ngay giữa các tư bản độc quyền siêu quốc gia cũng luôn có sự
cạnh tranh nhằm vươn tới vị trí áp đảo về kinh tế. Giành được quyền lực chính trị là
một trong những phương tiện quan trọng nhất góp phần đạt mục tiêu đó. Nêu lên như
vậy khơng có nghĩa ngày nay ở các nước tư bản phát triển giai cấp cơng nhân, nhân
dân lao động khơng có ảnh hưởng đáng kể nào tới cơ cấu quyền lực trong chủ nghĩa
tư bản mà ngược lại lực lượng này thực sự đã và đang trở thành một đối trọng đáng kể
đối với quyền lực của giai cấp tư sản cầm quyền. Việc tranh thủ được sự đồng tình
của bộ phận đơng đảo đó hay khơng trở thành vấn đề quyết định số phận quyền lực
của giai cấp tư sản.
Nghiên cứu hệ thống quyền lực trong chủ nghĩa tư bản hiện đại không thể không
chú ý tới một nhân tố quan trọng khác – đó là những quyền lực mang tính siêu quốc
gia của giai cấp tư sản độc quyền quốc tế. Đó là nền tảng vật chất để hình thành mối
15


liên minh trong sự khác biệt và mâu thuẫn giữa các tập đoàn, các giai cấp tư sản ở
những nước khác nhau.
Từ những thực tế nêu trên cho thấy, giai cấp tư sản có quan điểm khá thực tế
trong việc tổ chức hệ thống quyền lực của mình. Truyền thống lịch sử dân tộc, trạng
thái hiện có của đất nước cũng như của thời đại và mục tiêu cần đạt tới là những căn
cứ chủ yếu để thiết kế và vận hành hệ thống quyền lực chính trị trong quy mơ một
nước cũng như một số nước.
Trong tính đa dạng của các hình thức tổ chức quyền lực thuộc giai cấp tư sản
cầm quyền, chung quy lại có ba hình thức cơ bản:
Chế độ tổng thống: là chế độ mà ở đó, quyền lập pháp tương đối mạnh, sự phân

lập giữa các quyền rất cứng nhắc. Trên thực tế, tổng thống thực hiện đầy đủ quyền
hành pháp; tổng thống đề ra chính sách quốc gia, là người đứng đầu nền hành chính
của đất nước…
Chế độ đại nghị: sự lãnh đạo thực tế chính sách quốc gia là do chính phủ đảm
nhiệm dưới sự lãnh đạo của thủ tướng. Nghị viện do đa số chính phủ khống chế,
quyền lực được nhân cách hóa xung quanh thủ tướng.
Chế độ nửa tổng thống: nó là sự kết hợp giữa chế độ tổng thống và chế độ đại
nghị: chính phủ theo chế độ tập thể tham nghị và liên đới trách nhiệm trước nghị viện
được bầu theo phổ thông đầu phiếu. Mặt khác, tổng thống được bầu theo phổ thông
đầu phiếu. Do vậy, tổng thống có những đặc quyền về hành pháp và tư pháp lớn hơn
nguyên thủ quốc gia trong chế độ đại nghị.
Nhưng dù dưới hình thức nào, xu hướng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tổ
chức hệ thống quyền lực theo thể thức “tam quyền phân lập” là đặc trưng mang tính
phổ biến ở các nước tư bản. Tuy nhiên, đó khơng phải là xu hướng duy nhất mà ở một
số nước tư bản chủ nghĩa vẫn theo chế độ nhất nguyên về chính trị
2.4. Quyền lực chính trị và các hình thức tổ chức, thực hiện nó trong xã hội
xã hội chủ nghĩa:
Từ sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười, lần đầu tiên trong lịch sử chính trị
nhân loại, giai cấp vô sản đã giành được quyền lãnh đạo và tổ chức xã hội. Sau chiến
16


tranh thế giới lần hai, với sự ra đời của hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa châu Au đến
châu Á, châu Mỹ la tinh, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống trên thế giới.
Tuy nhiên, đến năm 1991, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Au, trên thế giới chỉ còn tồn tại một số nước xã hội chủ nghĩa. Các nước đang
trên đường tìm kiếm một thiết chế chính trị phù hợp dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa
Mác – Lênin, bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động.
Quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được tổ chức
thành nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cơ sở của nhà nước đó là khối đại đồn kết tồn dân

dựa trên nền tảng liên minh cơng – nơng – trí thức. Khối đại đoàn kết này bao gồm
đại đa số nhân dân lao động trong xã hội. Đây là đặc điểm nổi bật – nhà nước của đại
đa số nhân dân khác với nhà nước của giai cấp thiểu số bóc lột trước đó. Nhà nước lập
ra bộ máy gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng dựa trên nguyên tắc tập
quyền, quyền lực nhà nước thống nhất, nhưng có sự phân cơng, phối hợp trong việc
thực hiện mục tiêu chung, điều đó tạo nên sự thống nhất, tập trung cao độ trong thực
hiện quyền lực của nhân dân. Bên cạnh nhà nước có các tổ chức đồn thể nhân dân
như: Mặt trận tổ quốc, Cơng đồn, Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ
nữ… Đây là thiết chế để các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình,
tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Đảng cộng sản là cơ quan lãnh đạo, định
hướng, tổ chức các hoạt động của nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Nhà nước
dùng pháp luật để điều hành và quản lý xã hội, pháp chế xã hội chủ nghĩa được tăng
cường, việc tuyên truyền giáo dục pháp luật, đạo đức được đề cao. Các thiết chế chính
trị đó tạo cho xã hội sự ổn định, phát huy được trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân, và
điều đó tạo nên sức mạnh của các nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, hình thức tổ chức quyền lực chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa
cũng cịn nhiều hạn chế. mơ hình này đã tổng hợp và phát huy được sức mạnh của
tồn xã hội, nhưng chưa kích thích được sự phát triển của lực lượng sản xuất, chưa có
cơ chế thích hợp để phát triển kinh tế – xã hội, từ đó dẫn đến sự tụt hậu về kinh tế.
Mặt khác, quyền lực của nhân dân tập trung ở mức độ cao nhưng chưa có cơ chế kiểm
sốt thích hợp và có hiệu qủa trên thực tế, vì vậy tạo cho nhà nước trở thành bộ máy
17


quan liêu, nặng nề, xa rời dân. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đơng Âu có nhiều ngun nhân, nhưng xét dưới góc độ tổ chức quyền lực chính trị
thì quyền lực của nhân dân lao động được tập trung nhưng chưa được kiểm sốt chặt
chẽ, dẫn đến sự tha hóa, suy yếu và mất quyền lực khi bị kẻ thù tấn công. Đó cũng là
bài học kinh nghiệm đối với các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay trong quá trình cải
cách, đổi mới hệ thống chính trị.


KẾT LUẬN
Có thể nói rằng, trong đời sống chính trị, quyền lực là một vấn đề cơ bản. Cịn
trong khoa học chính trị, phạm trù quyền lực và quyền lực chính trị là phạm trù trung
tâm, xuyên suốt. Vì vậy, vấn đề vì sao người này lại có quyền đối với người khác,
quyền lực có cần thiết trong cuộc sống xã hội hay không? Quyền lực chính trị là gì và
các hình thức tổ chức thực hiện nó trong các xã hội có giai cấp ra sao đã được đề cập
và khám phá trong suốt chiều dài lịch sử.
Quyền lực, nói một cách chung nhất, là ý chí của người này được người khác thi
hành; đó là quyền uy và thế lực để quyết định cơng việc, điều hành người khác hành
động theo ý chí của mình. Cịn quyền lực chính trị được hiểu là khả năng thực hiện ý
18


chí của một giai cấp đối với sự phát triển của xã hội thông qua tổ chức quyền lực nhà
nước.
Trong các xã hội có giai cấp, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế và cùng với nó là sự
biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp cũng như vị trí lịch sử của các tầng lớp, giai cấp
mà quyền lực chính trị và các hình thức tổ chức thực hiện nó cũng khơng ngừng biến
đổi.
Sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô lệ đánh dấu thời điểm xuất hiện của loại
quyền lực chính trị đầu tiên trong lịch sử – quyền lực của chủ nô. Quyền lực đó về
thực chất là quyền lực nhà nước mà chính thể qn chủ là hình thức tổ chức chủ yếu
để giai cấp chủ nơ thực hiện quyền lực chính trị của mình và hình thức tổ chức quyền
lực cao nhất trong chế độ đó là quân chủ chuyên chế.
Đến xã hội phong kiến thì quyền lực chính trị cũng là thứ quyền lực thuộc về giai
cấp thống trị, tất cả quyền lực nhà nước tập trung vào tay một người duy nhất là vua.
Trong quá trình phát triển của mình, hệ thống quyền lực phong kiến thường trải qua
hai giai đoạn: cát cứ và tập quyền. Tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi nước, các chính
thể và hình thức tổ chức trên có những biến dạng nhất định.

Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mặc dù giai cấp tư sản đã chuyển những thần dân
của xã hội phong kiến thành những công dân của xã hội này. Nhưng giai cấp tư sản
với tư cách là chủ sở hữu tuyệt đối bộ phận những tư liệu sản xuất trong xã hội, họ
vẫn là bộ phận trung tâm trong nhân dân, nên quyền lực chính trị trong thể chế dân
chủ tư sản thực chất là quyền lực của giai cấp tư sản. Nhưng dù dưới hình thức nào,
xu hướng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tổ chức hệ thống quyền lực theo thể
thức “tam quyền phân lập” là đặc trưng mang tính phổ biến ở các nước tư bản. Tuy
nhiên, đó khơng phải là xu hướng duy nhất mà ở một số nước tư bản chủ nghĩa vẫn
theo chế độ nhất ngun về chính trị.
Trong xã hơi xã hội chủ nghĩa, quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động được tổ chức thành nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong xã đó giai
cấp công nhân không chỉ là lực lượng tiên tiến nhất của thời đại mà cùng với nhân
dân lao động trong đó giai cấp cơng nhân là nịng cốt – là chủ nhân chân chính của
19


chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thống nhất được một cách cơ
bản những lợi ích của nhân dân lao động, của dân tộc nên họ thực sự là bộ phận trung
tâm trong nhân dân, nắm quyền lãnh đạo quyền lực nhà nước. Nhà nước lập ra bộ
máy gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng dựa trên nguyên tắc tập quyền,
quyền lực nhà nước thống nhất, nhưng có sự phân cơng, phối hợp trong việc thực hiện
mục tiêu chung, điều đó tạo nên sự thống nhất, tập trung cao độ trong thực hiện quyền
lực của nhân dân.
Như vậy, trên cơ sở khái quát lại những vấn đề được trình bày trong nội dung
tiểu luận một lần nữa đã giúp chúng ta hiểu được một cách có hệ thống và khoa học
về quyền lực chính trị và các hình thức tổ chức thực hiện nó trong các xã hội có giai
cấp trong lịch sử.

20




×