Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận cao học, lý luận của lenin về phát triển kinh te trong thòi ký qua do và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.27 KB, 19 trang )

PHẦN TỔNG QUAN
V.I.Lênin vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp Vơ sản Nga và tồn thế
giới đã để lại cho chúng ta những di sản lý luận quí báu sống mãi
với thời đại. Một trong những di sản lý luận mà Người để lại cho
chúng ta hôm nay là “chính sách kinh tế mới”.
Cách đây 81 năm, sau bước thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã
hội bằng “con đường trực tiếp” (chính sách Cộng sản thời chiến)
khơng đem lại kết quả. Nói cách khác là đã hết vai trị lịch sử của
nó. V.I.Lênin đã chủ trương chuyển sang phát triển chính sách kinh
tế mới (NEP) trong đó coi việc phát triển chủ nghĩa Tư bản Nhà
nước, phát triển các quan hệ thương mại… như là một bước ngoặt
cách mạng. Để cứu vãn nước Nga và dẫn dắt cách mạng đi đến thắng
lợi một cách chắc chắn hơn.
Có nhiều cơng trình nghiên cứu đã phân tích NEP dưới nhiều
góc độ khác nhau. Có quan điểm coi nội dung cơ bản của NEP chỉ là
việc chuyển từ chế độ trưng thu lương thực sang thuế lương
thực.Nói như vậy khơng sai nhưng rõ ràng là chưa đủ, cái cốt lõi của
vấn đề là phát triển chủ nghĩa Tư bản Nhà nước và các quan hệ
thương mại mới thực chất là nội dung quan trong quyết định đặc
trưng của giai đoạn cách mạng mới của nước Nga lúc bấy giờ và
đồng thời cũng là đặc trưng của thòi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nói chung.
Với tư cách là đường lối phát triển kinh tế, NEP chứa đựng
một nội dung hết sức phong phú trong đó vấn đề sử dụng chủ nghĩa
Tư bản Nhà nước là một nội dung cơ bản. Tất nhiên việc sử dụng
chủ nghĩa Tư bản Nhà nước của Lênin là một con đường mới chưa
từng có, nhiều người Cộng sản đã phản đối gay gắt, buộc V.I.Lênin

1



phải giải đáp thắc mắc thuyết phục họ dẫn dắt họ vào thực tiễn.
Theo V.I.Lênin nếu giải quyết những nhiệm vụ cách mạng bằng lối
cũ thì có nghĩa là đã hy sinh chủ nghĩa Mác sinh động để lấy cái từ
ngữ chết.
Hiện nay là sinh viên thuộc khối lý luận, em học về đề tài này
là một việc rất có ý nghĩa vì nó hỗ trợ cho việc học các mơn khác.
Trên thực tế sách nghiên cứu các cơng trình viết về “sử dụng chủ
nghĩa Tư bản – Nhà nước” trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”
nổi tiếng của Lênin cịn ít ỏi và chưa đầy đủ bởi vậy em nghiên cứu
đề tài này nhằm góp phần rất nhỏ vào việc làm phong phú bổ sung
cho sự khiếm khuyết đó.
Để việc nghiên cứu đề tài đạt kết quả cao, em đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu đó là: Phương pháp phân tích, chứng minh,
so sánh và tổng hợp.

2


PHẦN NỘI DUNG
1. Hoàn cảnh lịch sử nước Nga - Xô Viết sau nội chiến:
- Không bao lâu sau cách mạng tháng 10/1917, việc thực hiện
kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của VI.Lênin bị gián đoạn bởi
cuộc nội chiến (1918-1920). Trong thời kì này VI.Lênin đã áp dụng
chính sách Cộng sản thời chiến. Nội dung cơ bản của chính sách
Cộng sản thời chiến là trưng thu lương thực thừa của nông dân sau
khi dành cho họ mức ăn tối thiểu. Đồng thời xoá bỏ quan hệ hàng
hoá tiền tệ xố bỏ việc tự do bn bán lương thực trên thị trường,
thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy Nhà
nước.
Chích sách Cộng sản thời chiến đã đóng vai trị quan trọng

trong thắng lợi của Nhà nước Xơ Viết. Nhờ nó mà qn đội đủ sức
để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ Nhà nước Xơ Viết cịn non trẻ của
mình.
Tuy nhiên, khi hồ bình lập lại chính sách Cộng sản thời chiến
khơng cịn thích hợp, nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Hậu quả của chiến tranh đối với kinh tế là rất
nặng nề, thêm vào đó là việc xoá bỏ quan hệ hàng hoá - tiền tệ làm
mất tính năng động của nền kinh tế vốn dĩ mới bước vào giai đoạn
phát triển. Vì vậy khủng hoảng kinh tế - chính trị diễn ra rất sâu sắc.
Điều đó địi hỏi phải có chính sách kinh tế thích ứng thay thế. Chính
sách kinh tế mới được VI.Lênin đề xướng để đáp ứng yêu cầu này
nhằm tiếp tục kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn
mới với tư cách là đường lối phát triển kinh tế.
Chích sách kinh tế mới chứa đựng một nội dung rất phong phú,
trong đó vấn đề sử dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước là một nội dung
căn bản, là con đường duy nhất để cứu vãn nước Nga Vô Viết khỏi
3


khủng hoảng, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách chắc
chắn nhất.
2. Sử dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước ở nước Nga Xô
Viết- một tư tưởng sáng suốt của V.I.Lênin:
“Chủ nghĩa Tư bản Nhà nước là một thứ chủ nghĩa Tư bản mà
chúng ta có thể hạn chế quy định giới hạn nó gắn liền với Nhà nước,
mà Nhà nước ở đây là công nhân…” 1 Thực ra khơng phải chỉ đến lúc
chính thức tun bố “chính sách kinh tế mới” (NEP), V.I.Lênin mới
đưa ra quan niệm về việc sử dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước, mà
ngay trước khi cách mạng tháng 10 nổ ra, Người đã nói về “vai trị
của chủ nghĩa Tư bản Nhà nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa

xã hội”. Người viết: “Biện chứng của Vơ sản chính là ở chỗ này.
Chiến tranh đã thúc đẩy nhanh chóng phi thường sự chuyên hoá của
chủ nghĩa Tư bản độc quyền – Nhà nước, và chính bằng cách đó đã
làm cho nhân loại tiến hết sức gần chủ nghĩa xã hội,” 2
V.I.Lênin đã phát hiện một cách tài tình những mâu thuẫn nội
tại của nền kinh tế nước Nga lúc bấy giờ và tìm cách giải quyết các
mâu thuẫn ấy để đưa cách mạng tiến lên.
Vấn đề thứ nhất mà V.I.Lênin đề cập đến đó là xác định đúng
mâu thuẫn chính của giai đoạn cách mạng cụ thể từ đó đề ra giải
pháp cách mạng táo bạo vượt lên trên những lối mòn cũ kĩ. Nếu giải
quyết những nhiệm vụ cách mạng bằng lối cũ thì có nghĩa là, theo
V.I.Lênin, đã hy sinh chủ nghĩa Mác sinh động để đổi lấy cái từ ngữ
chết. V.I.Lênin chỉ ra mâu thuẫn giữa một Nhà nước cách mạng
được lịch sử giao phó những nhiệm vụ chính trị cực kì tiến bộ, cực
kì nhân đạo với những cơ sở vật chất kĩ thuật thấp kém của nền kinh
tế và trình độ văn hóa lạc hậu, khó có thể thực hiện trọn vẹn các mục
1
2

V.I.Lênin –Tồn tập. Nxb Tiến bộ, Mát xcơva 1976. T45, tr102
V.I.Lênin –Toàn tập. Nxb Tiến bộ, Mát xcơva 1976. T34, tr257-258

4


tiêu vĩ đại ấy. Người nói bây giờ cần nắm lấy đúng cái mắt xích
quan trọng nhất: “Mấu chốt lúc này (mắt xích) bằng sự xa cách giữa
các nhiệm vụ vĩ đại được giao phó và sự nghèo nàn khơng những về
vật chất mà cả về văn hoá” 3 . Việc tháo gỡ cái mắt xích đó chính là
việc đẩy mạnh nội thương theo sự điều tiết đúng đắn của Nhà nước.

Theo V.I.Lênin, chủ nghĩa Tư bản Nhà nước đã là một bước lùi, thì
“Ngày nay, chúng ta đang lùi tới chỗ Nhà nước điều tiết thương
nghiệp” 4 . Điều đó có nghĩa là cách mạng Nga lúc bấy giờ đã lùi từ
những hình thức kinh tế, hay cịn gọi là thành phần kinh tế, cụ thể là
chủ nghĩa Tư bản Nhà nước sang các quan hệ kinh tế có tính chất Tư
bản chủ nghĩa - quan hệ bn bán tự do, quan hệ thương mại.
V.I.Lênin viết: “… ở chỗ nào có những thành phần Tư bản chủ nghĩa
nói chung thì ở đó có chủ nghĩa Tư bản Nhà nước dưới hình thức
này hay hình thức khác, ở trình độ này hay trình độ nọ” 5 . Có thể nói
đó là “bước lùi” về phát triển, trở lại đúng với quy luật khách quan
của lực lượng sản xuất. Khái niệm chủ nghĩa Tư bản Nhà nước đã
trở nên rộng hơn bản thân nó là thành phần kinh tế.
V.I.Lênin xác định rõ trình độ phát triển của nước Nga trong
trục phát triển chung của lực lượng sản xuất. Người viết “chủ nghĩa
Tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội nhưng lại là tốt so với thời
trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng
phân tán của những người tiểu sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có
điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã
hội bởi vậy trong một mức độ nào đó chủ nghĩa Tư bản là không thể
tránh khỏi” 6

3
4
5

6

V.I.Lênin – Sđd, T45, tr 474
V.I.Lênin – Sđd, T44, tr 284
V.I.Lênin – Sđd, T43, tr 268

V.I.Lênin – Sđd, T43, tr 276

5


Chủ nghĩa Tư bản Nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của
Nhà nước vào các doanh nghiệp Tư bản. Trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, đó là chủ nghĩa Tư bản Nhà nước đặc biệt do Nhà
nước Vô sản “sáng tạo ra”, “đi theo tay lái” của Nhà nước Vô sản.
V.I.Lênin vạch rõ: chủ nghĩa Tư bản Nhà nước mà chúng ta có thể
hạn chế, có thể quy định giới hạn. Theo V.I.Lênin. chủ nghĩa Tư bản
Nhà nước là hình thức kinh tế cao hơn so với sản xuất nhỏ. Việc sử
dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước là cần thiết để phát triển lực lượng
sản xuất. Sử dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước, Nhà nước Vô sản
huy động được vốn, vật tư - kĩ thuật kinh nghiệm quản lí của các nhà
Tư bản, và cuối cùng vẫn thay thế được chủ nghĩa Tư bản bằng chủ
nghĩa xã hội một cách êm thấm mà những người Tư sản có thể chấp
nhận được. Bằng chứng cho thấy theo V.I.Lênin: “…chúng ta làm
việc đó cịn rất tồi; dẫn chứng là bệnh quan liêu. Chúng ta không
nên sợ thú nhận rằng ở đây chúng ta có thể và phải học tập nhiều
nữa ở bọn Tư bản” 7 . Chủ nghĩa Tư bản Nhà nước là cái gì có tính
chất tập trung được tính tốn được kiểm sốt và được xã hội hoá, thế
mà nước Nga lại thiếu chính cái đó. Và đang bị đe doạ bởi tính tự
phát của cái thói vơ tổ chức tiểu tư sản, tính tự phát ấy đẻ ra chủ yếu
từ lịch sử nước Nga và từ nền kinh tế của nó. Và tính tự phát ấy hiện
đang ngăn cản việc thực hiện chính cái bước ấy, cái bước quyết định
sự thành cơng của chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin còn so sánh “… nếu
ta đứng về mặt kinh tế mà suy xét thì chủ nghĩa Cộng sản với
thương nghiệp cũng khơng xa gì nhau, hơn là chủ nghĩa Cộng sản
với nền tiểu nông, gia trưởng của nơng dân” 8 và “khơng có kĩ thuật

Tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh
mới nhất của khoa học hiện đại. Khơng có một tổ chức Nhà nước có
kế hoạch có thể khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết
7
8

V.I.Lênin – Sđd, T43, tr 280
V.I.Lênin – Sđd, T44, tr 280

6


sức nghiêm khắc một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất
và phân phối sản phẩm thì khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội ” 9 . Sử
dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước là điều không thể tránh khỏi là tất
yếu của lịch sử một đất nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh,
nhưng theo V.I.Lênin muốn thực hiện được thành cơng cần phải có
vai trị của kiểm kê kiểm soát. Người viết: “… từ chủ nghĩa Tư bản
tiểu tư sản đi đến chủ nghĩa Tư bản Nhà nước với quy mô lớn cũng
như đi đến chủ nghĩa xã hội, đều trải qua cùng một con đường,
thơng qua cùng một trạm trung gian, đó là “sự kiểm kê và kiểm
sốt” của tồn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm” 10 .
Trong nhận thức của đại đa số đảng viên Đảng Cộng sản Nga
lúc đó vẫn đang bị hạn chế bởi lối mịn đem chủ nghĩa Tư bản đối
lập một cách trừu tượng với chủ nghĩa xã hội mà khơng nghiên cứu
những hình thức cụ thể và các giai đoạn cụ thể của thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Họ cho rằng V.I.Lênin khơng cịn là người theo
chủ nghĩa Mác nữa, sẽ đưa đất nước Nga Xô Viết quay trở lại con
đường Tư bản chủ nghĩa cho nên họ chống đối quyết liệt. Nhưng
theo V.I.Lênin bản thân lí luận của Mác khơng phải là một công

thức lịch sử - triết học bắt buộc mọi người phải theo mà chỉ là kim
chỉ nam cho mọi hành động. V.I.Lênin chỉ ra rằng “chủ nghĩa Tư
bản Nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện
nay của nước ta, đó là điều thứ nhất, điều thứ hai chủ nghĩa Tư bản
Nhà nước khơng có gì là đáng sợ đối với chính quyền Xơ Viết, vì
nước Xơ Viết là một nước mà trong đó chính quyền của cơng nhân
và nơng dân nghèo đã được đảm bảo…” 11
V.I.Lênin đã đánh giá cao chủ nghĩa Tư bản Nhà nước từ rất
sớm thậm chí ngay từ khi những người Bơnxêvích chưa nắm được
V.I.Lênin – Sđd, T38, tr 368
V.I.Lênin – Sđd, T36, tr 369
11
V.I.Lênin – Sđd, T43, tr 252
9

10

7


chính quyền. Thời đó nước Đức là đỉnh cao của chủ nghĩa Tư bản về
kĩ thuật đại Tư bản chủ nghĩa và về tổ chức có kế hoạch nhưng nền
kinh tế đó lại phục tùng chủ nghĩa đế quốc Gioong-ke tư sản.
V.I.Lênin nói “Nếu… thay tiếng Nhà nước quân phiệt, Gioongke, tư sản, đế quốc cũng bằng một tiếng là Nhà nước, nhưng là một
Nhà nước kiểu khác về mặt xã hội và khác về nội dung giai cấp, Nhà
nước Xơ Viết, tức là Nhà nước Vơ sản thì các anh sẽ có tất cả các điều
kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội ” 12 và “… chủ nghĩa Tư bản độc
quyền Nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã
hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà
giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì

khơng có một nấc thang nào ở giữa cả” 13 . Theo Người, về phương
diện kinh tế chủ nghĩa Tư bản Nhà nước hiện đại ở trình độ cao hơn
rất nhiều so với nền kinh tế của các nước tiểu nông đang trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và do vậy, nếu khơng trải qua một cái gì
chung cho chủ nghĩa Tư bản khó có thể thốt ra khỏi tình trạng lạc
hậu về kinh tế. Nếu ai không nhận thấy điều đó, theo V.I.Lênin, đó là
một sai lầm hết sức nghiêm trọng về phương diện lí luận.
Khi khẳng định cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một
nước tiểu nông nhất thiết phải dựa trên cơ sở cải biến cơ cấu kinh tế
và xã hội cũ “một cách thận trọng và từng bước” theo phương thức
Nhà nước điều tiết ở một mức độ nào đó. V.I.Lênin cho rằng, chúng
ta phải biết áp dụng các biện pháp quá độ, các hình thức trung gian,
“phải biết nghĩ đến các mắt xích trung gian” có thể tạo điều kiện
thuận lợi cho bước chuyển từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội.
Một trong những “mắt xích trung gian” cần phải sử dụng đó theo
V.I.Lênin là chủ nghĩa Tư bản Nhà nước.
12
13

V.I.Lênin – Sđd, T43, tr 252-253
V.I.Lênin – Sđd, T43, tr 256

8


Khẳng định NEP là đường lối chiến lược và là bước đi không
thể tránh khỏi đối với một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. V.I.Lênin ln trăn trở với câu hỏi: liệu có thể kết hợp,
phối hợp Nhà nước do giai cấp Vô sản lãnh đạo với chủ nghĩa Tư
bản Nhà nước được không? và chỉ qua một thời gian ngắn thực hiện

NEP, V.I.Lênin đã trả lời một cách dứt khoát: “Tất nhiên là được”,
song người cảnh tỉnh rằng toàn bộ sự phức tạp và khó khăn “về lí
luận cũng như thực tiễn” của vấn đề này là ở chỗ, phải “tìm ra
những phương pháp đúng giúp ta hướng sự phát triển không thể
tránh được (đến một trình độ nào đó và trong một thời gian nào đó)
của chủ nghĩa Tư bản vào con đường chủ nghĩa Tư bản Nhà nước là
đặt ra những điều kiện cần thiết cho công việc ấy và bảo đảm sự
chuyển biến từ chủ nghĩa Tư bản Nhà nước sang chủ nghĩa xã hội
trong một tương lai gần” 14 .
V.I.Lênin đã chỉ ra những hình thức của chủ nghĩa Tư bản Nhà
nước:
- Hình thức thứ nhất là tơ nhượng, đó là loại hình Nhà nước Vơ
sản nhường cho Tư bản nước ngoài quyền khai thác một số doanh
nghiệp, hầm mỏ, khu trường dưới sự kiểm soát của Nhà nước, Nhà
nước chun chính Vơ sản và Nhà nước Tư bản nước ngồi cùng
nhau kí kết hợp đồng quy định thời hạn tô nhượng, quy mô doanh
nghiệp, khối lượng đầu tư và sản lượng, doanh lợi của hai bên, điều
kiện Nhà nước trưng mua trước thời hạn… theo V.I.Lênin “tô nhượng
là cần thiết”, “Đó là một giao kèo, một sự liên kết, lột liên minh giữa
chính quyền Nhà nước Xơ Viết, nghĩa là Nhà nước Vô sản, với chủ
nghĩa Tư bản Nhà nước, chống lại thế lực tự phát triển tư hữu” 15
14
15

V.I.Lênin – Sđd, T43, tr 268
V.I.Lênin – Sđd, T43, tr 269

9



- Hình thức thứ hai là cho các nhà Tư bản tư nhân trong nước
thuê đất để tổ chức sản xuất kinh doanh, bản hợp đồng cũng như bản
hợp đồng tơ nhượng.
- Hình thức thứ ba là giao cho nhà Tư bản với tư cách một nhà
buôn bán những sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của
những người sản xuất cụ thể, theo dõi tình hình sản xuất và phân
phối sản phẩm.
- Hình thức thứ tư là hợp tác xã. Với loại hình này Nhà nước
thực hiện kiểm kê, kiểm sốt, theo dõi tình hình sản xuất và phân
phối sản phẩm.
Tuỳ từng điều kiện mà áp dụng các phương pháp quốc hữu hố
khác nhau. Nhìn chung, phương pháp tịch thu khơng hồn lại diễn ra
nhanh hơn. V.I.Lênin gọi đó là “cuộc tấn cơng của cận vệ đỏ” vào
giai cấp tư sản. Song phương pháp cải tạo hồ bình là rẻ nhất, dễ
tiếp thu nhất với giai cấp tư sản và có hiệu quả kinh tế cao.
Từ một nước với nền kinh tế tiểu nông là chủ yếu quá độ lên
chủ nghĩa xã hội theo V.I.Lênin, khơng có con đường nào khác và
thích hợp hơn là “phải bắc những chiếc cầu nối nhỏ vững chắc, đi
xuyên qua chủ nghĩa Tư bản Nhà nước … không phải bằng cách trực
tiếp dựa vào nhiệt tình, mà là với nhiệt tình đó cuộc cách mạng vĩ
đại sinh ra, bằng cách khuyến khích lợi ích cá nhân, bằng áp dụng
chế độ, hạch tốn kinh tế” 16 . Theo V.I.Lênin chủ nghĩa Tư bản Nhà
nước có vai trị quan trọng là thành phần kinh tế cơ bản tạo nên một
“kết cấu kinh tế – xã hội quá độ” tạo nên tính chất đan xen của nền
kinh tế này, và khi xét đến mức độ tiến bộ, trình độ phát triển, khả
năng hiện thực và tính hữu ích của chúng đối với cơng cuộc xây
dựng xã hội mới trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một
16

V.I.Lênin – Sđd, T44, tr189


10


nước tiểu nơng thì chúng ta cần dành một quyền ưu tiên nhất định
cho chủ nghĩa Tư bản Nhà nước. Bởi lẽ việc phát triển kinh tế Tư
bản Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, là cơ sở để tăng nhanh lực lượng sản xuất thúc đẩy công cuộc
khôi phục và cải tạo kinh tế, “đưa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội
bằng con đường chắc chắn nhất” và “bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội
được củng cố”.
Trong q trình thực hiện NEP, V.I.Lênin ln nói về chủ
nghĩa Tư bản Nhà nước và dành nhiều thời gian để nghiên cứu hình
thái kinh tế mới mẻ này. Người coi những hình thức kinh tế cơ bản
trong việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là những hình
thức của

chủ nghĩa Tư bản Nhà nước, như hình thức tơ nhượng

trong cơng nghiệp, hình thức hợp tác xã của những người sản xuất
nhỏ, hình thức tư nhân làm đại lí cho Nhà nước trong thương nghiệp,
hình thức Nhà nước cho tư nhân thuê các xí nghiệp, cơ sở sản
xuất…
Trong những năm thực hiện NEP, V.I.Lênin đặc biệt chú ý tới
hình thức tơ nhượng với tư cách là “một sự liên kết với chủ nghĩa Tư
bản các nước tiên tiến” Người viết “so với những hình thức khác của
chủ nghĩa Tư bản Nhà nước trong lòng chế độ Xơ Viết, thì chủ nghĩa
Tư bản Nhà nước dưới hình thức tơ nhượng có lẽ là hình thức đơn
giản nhất, rành mạch nhất, sáng tỏ nhất, có hình thù rõ rệt nhất, ở
đây chúng ta có một hợp đồng trực tiếp chính thức viết trên giấy tờ

với chủ nghĩa Tư bản Tây Âu là chủ nghĩa Tư bản văn minh nhất
tiên tiến nhất” 17 . Người rất coi trọng loại xí nghiệp tơ nhượng theo
kiểu cho Tư bản nước ngồi thuê lại các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà
nước, bởi theo Người, hình thức tơ nhượng trong cơng nghiệp chẳng
những có khả năng đảm bảo mức sống khá giả cho một số bộ phận
17

V.I.Lênin – Sđd, T43, tr 270

11


nào đó, dù là nhỏ của giai cấp cơng nhân mà cịn giúp cho giai cấp
cơng nhân học tập cách quản lí hợp lí, đẩy nhanh việc khơi phục
kinh tế, củng cố nền hồ bình mà khi đó đang là đòi hỏi bức thiết.
V.I.Lênin cho rằng, việc thực hiện chế độ tô nhượng sẽ “gây ra
những nguy cơ mới”, song nếu vì thế mà cho rằng khơng nên thực
hiện chế độ tơ nhượng thì “những người chủ chúng ta khơng nên
đảm nhiệm điều khiển một Nhà nước”. Thực hiện tô nhượng buộc
chúng ta phải giải quyết “những vấn đề cực kì khó khăn nhưng điều
đó khơng có gì là đáng sợ bởi chúng ta có đủ khả năng” “bắt chúng
phải khuất phục và cải tạo chúng”. Rằng “tô nhượng là một hình
thức chiến tranh mới” chiến tranh kinh tế về cách thức đấu tranh thì
thực tiễn sẽ chỉ ra cho chúng ta. V.I.Lênin cịn coi việc “chuyển tư
chế độ tơ nhượng lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ một hình thức
đại sản xuất này sang một hình thức đại sản xuất khác”. Và khi
thành cơng nó sẽ đưa lại cho chúng ta những xí nghiệp lớn kiểu mẫu
“ngang trình độ của chủ nghĩa Tư bản tiên tiến hiện đại”.
Trong số các xí nghiệp tơ nhượng, V.I.Lênin ln dành sự đánh
giá hơn cho kiểu xí nghiệp tơ nhượng theo lối cơng ty liên doanh mà ở

đó, nhà kinh doanh nước ngoài hợp tác với Nhà nước chủ nghĩa xã hội
“theo cổ phần”. Người coi việc sử dụng rộng rãi các cơng ty liên
doanh sẽ có lợi hơn cho cơng việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một
nước công nghiệp lạc hậu. Hình thức Nhà nước cho tư nhân thuê lại
các xí nghiệp quốc doanh, hình thức thương nghiệp tư doanh và hình
thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ cũng được V.I.Lênin
coi là những hình thức của chủ nghĩa Tư bản Nhà nước khi chúng
phục tùng, phục vụ và chịu sự điều tiết của Nhà nước chủ nghĩa xã
hội. Người cho rằng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước không chỉ là thành
phần kinh tế biểu hiện dưới dạng thuần t, nhất là xí nghiệp tơ

12


nhượng mà còn là sự hợp tác của Nhà nước chủ nghĩa xã hội với khu
vực tư doanh trên cơ sở của chế độ tư hữu nhà nước về tư liệu sản
xuất.
Những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về NEP, đặc biệt là vấn đề
sử dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước hiện nay vẫn là mẫu mực về một
sách lược tình thế, đồng thời mang ý nghĩa của một đường lối chiến
lược lâu dài đối với tất cả các nước có nền sản xuất tiểu nơng, kinh tế
kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có Việt Nam.
3. Ý nghĩa, thực tiễn vận dụng tư tưởng này vào phát triển
đất nước Việt Nam:
Xuất phát từ quan điểm như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đề
ra chủ trương đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà
nước, kinh tế hợp tác xã; lấy kinh tế Nhà nước làm chủ đạo, phát
triển kinh tế hợp tác xã để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho
chúng dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Bên
cạnh đó, phải tạo điều kiện kinh tế và pháp lí thuận lợi để các nhà

kinh doanh yên tâm đầu tư, làm ăn lâu dài; đồng thời mở rộng các
hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với các thành
phần kinh tế khác cả trong và ngồi nước. Để thực hiện tốt cơng việc
này, cần “áp dụng phổ biến các hình thức kinh tế Tư bản Nhà
nước” 18
Kinh tế Tư bản Nhà nước với tư cách là thành phần kinh tế bao
gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với Tư
bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước
với Tư bản nước ngồi, như Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định, “có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về
vốn, công nghê, khả năng tổ chức quản lí… của các nhà Tư bản vì
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr
92
18

13


lợi ích của bản thân họ, cũng như của cơng cuộc xây dựng và phát
triển đất nước” 1919 . Để kinh tế Tư bản Nhà nước thực hiện được vai
trò quan trọng đó, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương áp dụng
nhiều phương thức góp vốn kinh doanh giữa Nhà nước với các nhà
kinh doanh tư nhân trong nước nhằm “tạo thế, tạo lực” cho các
doanh nghiệp của Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh
tranh với bên ngồi; cải thiện mơi trường đầu tư và nâng cao năng
lực quản lí để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong
các xí nghiệp hợp tác, liên doanh.
Cụ thể hóa chủ trương đó, tại Hội nghị Trung ương 4 khoá
VIII, một lần nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, trong nền

kinh tế nhiều thành phần kinh tế Tư bản Nhà nước là thành phần
kinh tế cần được “khuyến khích phát triển”, và đề ra những biện
pháp cụ thể để khuyến khích sự phát triển của nó trong khn khổ
luật pháp, với sự điều tiết của Nhà nước nhằm tạo ra những điều
kiện thuận lợi để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với quan niệm nhất quán như vậy về việc phát triển kinh tế Tư
bản Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tại Đại hội lần thứ IX, khi tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới
đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự đánh giá đúng đắn, sát
thực về vị trí và vai trò của thành phần kinh tế Tư bản Nhà nước.
Trên cơ sở đó, Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương “phát triển đa
dạng kinh tế Tư bản tư nhân trong nước và ngồi nước” nhằm mang
lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh và qua đó, thúc
1919

95

Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần tứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr

14


đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tăng hiệu quả phát triển kinh tếxã hội, đưa đất nước Việt Nam nhanh chóng đạt tới trình độ của một
nước cơng nghiệp phát triển theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Các quan hệ có tính chất Tư bản Nhà nước, ngày nay, không
chỉ nằm trong giới hạn của các quan hệ sản xuất, kinh doanh trong
nước, mà còn phát triển rộng ra bên ngoài, quan hệ giữa Nhà nước
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tất cả các nước trên

thế giới, trong đó phần đơng là các nước Tư bản chủ nghĩa. Điều đó
được thể hiện phần nào trong mục tiêu và là tuyên bố của Đảng, như
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng
định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hồ bình độc lập và phát triển” 2020 .
Hơn thế nữa, ngày nay Đảng và Nhà nước đang tạo thuận lợi để
các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng và đều trở thành những
bộ phận cấu thành quan trọng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là Việt Nam xác
định và cam kết lịch trình để hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế,
đang tích cực đàm phán để được gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Và như Văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng cũng đã nhấn mạnh phương châm: “Vận dụng các hình thức
kinh tế và phương pháp quản lí nền kinh tế thị trường là để sử dụng
mặt tích cực của nó phục vụ mục đích xây dựng chủ nghĩa xã
hội…” 2121 . Với tư cách là những bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế Tư bản Nhà nước hay
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr
119
2121
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.1996,
tr.72
2020

15


thành phần kinh tế có vốn đâu tư nước ngồi, trên thực tế, lại cũng

đang rất cần đến một Nhà nước thống nhất để tổ chức xã hội trên cơ
sở pháp luật, duy trì sự ổn định kinh tế - chính trị - xã hội, nếu
khơng chính bản thân q trình sản xuất với trình độ cơng nghệ hiện
đại của chúng không thể vươn lên chiến thắng tự do vô chính phủ,
đầu cơ và hối lộ của lề lối tiểu tư sản, tiểu nơng sản xuất nhỏ, và do
đó khơng thể tiến lên sản xuất lớn. Ngồi ra, cịn cần đến các hình
thức quản lí và cơng nghệ tiên tiến của các thành phần kinh tế này
để hình thành các mơ hình thích hợp dẫn dắt hàng triệu hộ nơng dân,
khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển đúng quỹ đạo tiến lên sản
xuất lớn, đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua “những chiếc cầu nhỏ
vững chắc” của chủ nghĩa xã hội Tư bản Nhà nước.
Việt Nam đã lựa chọn con đường phát triển theo mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, mà khơng
ai có thể can thiệp hay cản trở. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận trên thế
giới, nay Việt Nam hồn tồn có quyền ngồi vào bàn đàm phán với
tất cả các nước trên cơ sở “bình đẳng, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, và đơi bên cùng có lợi” để kí kết các hiệp định hợp
tác trên nhiều lĩnh vực. Nền kinh tế - xã hội đang trên đà tăng
trưởng đều đặn và bền vững, nền chính trị được giữ vững và ổn
định; trật tự và an toàn xã hội đang được bảo đảm… Tất cả những
thành tựu ấy chính là những bước tiến vững chắc trên con đường xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, có thể nói, trong cơng cuộc xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, việc làm sáng tỏ quan niệm của V.I.Lênin về vấn đề sử dụng
chủ nghĩa Tư bản Nhà nước trong thời kì q độ ln ln là vấn đề
có ý nghĩa thời sự và cần thiết. Bởi nó đem lại cho chúng ta một cơ

16



sở lí luận để tổng kết thực tiễn và định hướng đúng đắn việc phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong
những năm tiếp theo.

PHẦN KẾT THÚC

17


Sự vận dụng chủ nghĩa Mác vào thực tiễn cách mạng chủ nghĩa
xã hội nước Nga của V.I.Lênin là kiểu mẫu sáng ngời về việc bảo vệ
và phát triển chủ nghĩa Mác. Những phân tích của Lênin về mối
quan hệ giữa cải lương và cách mạng khi giai cấp Vô sản chưa nắm
chính quyền và khi đã giành được chính quyền, những cương lĩnh
cách mạng trong thời kì chuẩn bị cho cách mạng tháng 10, chính
sách “Cộng sản thời chiến”, “chính sách kinh tế mới”… là những
đóng góp vĩ đại của V.I.Lênin vào kho tàng lí luận chủ nghĩa Mác và
làm cho chủ nghĩa Mác trở thành chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn cách mạng
của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.
Nói đến chính sách kinh tế mới của Lênin chúng ta không thể
không nhắc đến một tư tưởng hết sức cơ bản của nó- tư tưởng về
việc sử dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước trong thời kì q độ lên
chủ nghĩa xã hội. Nó có ý nghĩa cực kì quan trọng trước hết nó khơi
phục được kinh tế Xô Viết sau chiến tranh. Chỉ trong một thời gian
ngắn đã tạo ra một bước phát triển quan trọng biến “nước Nga đói”
thành một đất nước có nguồn lương thực dồi dào. Từ đó đã khắc
phục được khủng hoảng kinh tế – chính trị, củng cố lịng tin cho
nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bán chất tốt đẹp của chủ nghĩa

xã hội theo những nguyên lí mà V.I.Lênin đã vạch ra. Ngồi ra nó
cịn có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam - Lào. Những quan
điểm kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất là từ Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ V đến nay đã thể hiện sự nhận thức. Và vận
dụng quan điểm sử dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước. Tất nhiên do
thời gian và không gian cách xa nhau trải qua những biến động khác
nhau nên nhận thức và vận dụng có thể có sự khác nhau, kể cả về
bước đi nội dung và biện pháp cụ thể trong khi triển khai ở Việt
Nam.
Ngày nay đứng trong toàn bộ bối cảnh kinh tế quốc tế, khi mà
xu thế hội nhập và toàn cầu hố các nền kinh tế là khơng thể đảo
ngược, nhìn lại điều kiện của nước Nga lúc bây giờ mới thấy đó là
một quyết định cực kì sáng suốt, cực kì cách mạng.
18


MỤC LỤC
PHẦN TỔNG QUAN ...................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................3

1. Hoàn cảnh lịch sử nước Nga – Xô Viết sau nội chiến...........3
2. Sử dụng chủ nghĩa Tư bản Nhà nước ở nước Nga Xô Viết –
một tư tưởng sáng suốt của V.I.Lênin.....................................4
3. Ý nghĩa thực tiễn vận dụng tư tưởng này vào phát triển đất
nước Việt Nam.........................................................................13
PHẦN KẾT THÚC ....................................................................................18

19




×