Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Một số vấn đề có tính quy luật cách mạng miền nam việt nam (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.05 KB, 51 trang )

A. MỞ ĐẦU
Hơn ba mươi năm năm đã qua kể từ ngày kết thúc toàn thắng cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân việt Nam đến nay, thế giới đã
có biết bao đổi thay và biến động, đất nước ta đang tiến mạnh trên con đường
đổi mới. Thời gian và những sự kiện càng làm chúng ta nhận thức sâu sắc hơn
về cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ, về tầm vóc
và nguyên nhân thắng lợi của nó.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một trong
những chiến công lớn của nhân dân ta trong thế kỉ XX. Đối với dân tộc Việt
Nam thì chiến cơng thắng Mỹ là trang sử vàng trong lịch sử hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đây cùng là một thiên anh hùng ca bất
hủ của cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Nó
đã đánh dấu bước ngoặt quyết định, đưa Tổ quốc ta bước hẳn vào kỷ nguyên
độc lập tự do và thống nhất nước nhà.
Trải qua gần 21 năm chiến đấu kiên cường nhân dân ta đã đánh thắng
cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới có quy mơ lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt
và dã man nhất kể từ sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Về thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội lần thứ IV của Đảng
(12/1976) đã tổng kết “là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên
sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam”. Trong đó, nhân tố quyết định
nhất chính là việc Đảng đã đề ra được một đường lối kháng chiến đúng đắn,
sáng tạo, độc lập tự chủ. Đó là đường lối tiến hành đồng thời cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, giương cao cùng lúc hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở đó, Đảng lựa chọn phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng tổng
hợp bao gồm lực lượng chính trị của quần chúng kết hợp lực lượng vũ trang
nhân dân. Đảng cùng đã vận dụng linh hoạt phương thức tiến hành chiến

1



tranh nhân dân cùng với những nghệ thuật quân sự độc đáo trong suốt quá
trình lãnh đạo và chỉ đạo cuộc kháng chiến.
Đây là những vấn đề có tính quy luật của cách mạng miền Nam trong
thời kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975). Nó đã góp phần căn
bản vào thắng lợi của Đảng và nhân dân ta trong cuộc đụng đầu lịch sử mang
tính chất thời đại sâu sắc. Là sản phẩm của thực tiễn và khái quát thành lý
luận trong những chủ trương đường lối chỉ đạo kháng chiến của Đảng nên
những vấn đề này có ý nghĩa hết sức cấp thiết, đặc biệt đối với những người
nghiên cứu, học tập và giảng dạy.
Với ý nghĩa như vậy của vấn đề này, em xin chọn đề tài “Một số vấn đề
có tính quy luật cách mạng miền Nam Việt Nam (1954 - 1975)” làm tiểu luận
học phần: Đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của mình.
Kết cấu của tiểu luận: Ngồi phần mở đầu và kết luận cùng mục lục,
danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận gồm 3 chương.

2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUY LUẬT VÀ
QUY LUẬT CÁCH MẠNG
1.1. Lý luận chung về quy luật
1.1.1. Khái niệm quy luật
“Quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học, phản ánh sự liên hệ của sự
vật, tính chỉnh thể của chúng. V.I.Lênin cho rằng khái niệm quy luật là một
trong những giai đoạn của sự nhận thức của con người về tính thống nhất và
liên hệ, sự phụ thuộc lẫn nhau và tính chỉnh thể của quá trình thế giới.
Trong từ điển Tiếng Việt, khái niệm quy luật được định nghĩa là “mối
liên hệ bản chất, ốn định, được lặp đi, lặp lại giữa các hiện tượng trong tự
nhiên và xã hội”(1)(1).

Quy luật phản ánh những mối liên hệ bên trong cơ bản của các hiện
tượng, chi phối sự phát triển tất yếu của những hiện tượng ấy. Quy luật biểu
hiện một trình tự nhất định của mối liên hệ nhân quả, tất yếu và ổn định giữa
các hiện tượng hoặc các đặc tính của đối tượng vật chất, biểu hiện những
quan hệ cơ bản được lặp đi lặp lại trong đó sự thay đổi những hiện tượng khác
một cách hoàn toàn xác định. Khái niệm quy luật gần gũi với khái niệm bản
chất là toàn bộ những mối liên hệ sâu sắc của các quá trình xác định những
đối tượng quan trọng nhất và những xu thế phát triển của sự vật. Việc nhận
thức quy luật địi hỏi phải chuyển hố từ những hiện tượng thành bản chất của
hiện tượng.
Trong quá trình phát triển của tư duy triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về quy luật.
Trong các hệ thống triết học duy vật phương Đông và Hi Lạp cổ đại,
quy luật được biểu hiện là một trật tự khách quan, là con đường phát triển tự
(1)(1)

Viện ngôn ngữ học: Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Hà Nội, 2000, Tr.813.

3


nhiên, vốn có của mọi sự vật. Ngược lại, các nhà triết học duy tâm lại phủ
nhận sự tồn tại khách quan của quy luật. Chẳng hạn, Platon cho rằng các tư
tưởng đang tồn tại là quy luật đối với sự vật, vì các sự vật chỉ là ảnh hưởng
của tư tưởng.
Đối với chủ nghĩa duy tâm khách quan, quy luật được giải thích khơng
phải là sự thể hiện của lý trí thế giới. “Lý trí thế giới”, theo các nhà duy tâm
khách quan, là quy luật của tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, trong số các nhà duy
tâm khách quan cũng có một số người có đóng góp rất quý giá trong việc hình
thành quan niệm chung nhất về quy luật. Hêghen trong quan niệm của mình cho

rằng: quy luật là cái bền vững, cái ổn định, cái đồng nhất trong hiện tượng, quy
luật là sự phản ánh “cái yên tĩnh” của hiện tượng, quy luật không phải là cái bên
ngoài đối với hiện tượng mà là cái vốn có trong hiện tượng. Các nhà thực chứng
mới thì lại cho rằng nhận thức khoa học không phải là việc đưa lại các tri thức về
quy luật khách quan, mà là sự hình thành một trật tự nhất định giữa các hiện
tượng, trật tự này dường như không phụ thuộc vào tự nhiên mà phụ thuộc vào
các nguyên tắc có tính ước lệ do chủ thể chọn trước. Do đó, theo họ, quy luật chỉ
là sản phẩm của sự nhất trí giữa các nhà khoa học với nhau.
Quan điểm duy vật biện chứng thì lại cho rằng mọi quy luật đều mang
tính khách quan. Các quy luật được phản ánh trong các khoa học không phải
là sự thuần tuý của tư tưởng. Những quy luật do khoa học phát hiện ra chính
là sự phản ánh những quy luật hiện thực của thế giới khách quan và tư duy.
1.1.2. Phân loại quy luật
Quy luật hết sức đa dạng, muôn màu muôn vẻ. Chúng khác nhau về
mức độ phổ biến, về phạm vi bao qt, về tính chất, về vai trị của chúng đối
với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Do vậy, việc phân loại quy
luật là việc làm hết sức cần thiết. Có phân loại được các quy luật thì mới có
thể nhận thức và vận dụng có hiệu quả các quy luật khác nhau vào những
trường hợp khác nhau, trong hoạt động thực tiễn con người.
4


Có rất nhiều quy luật, do đó việc phân loại quy luật phải dựa trên nhiều
căn cứ khác nhau để sắp xếp các quy luật vào từng nhóm khác nhau. Cụ thể:
Căn cứ vào trình độ tính phổ biến, các quy luật có thể được chia thành:
những quy luật riêng, những quy luật chung và phổ biến.
Các quy luật riêng: biểu hiện của mối liên hệ đặc trưng cho một phạm
vi nhất định những hiện tượng cùng loại. Nó phản ánh những quan hệ giữa
các hiện tượng đặc thù cụ thể, hoặc những đặc tính riêng biệt của vật chất.
Những quy luật chung cho một số lớn hiện tượng: được thể hiện trong

một phạm vi điều kiện rất rộng và đặc trưng cho những mối quan hệ giữa các
đặc tính chung của tập tập hợp lớn các sự vật và hiện tượng.
Những quy luật phổ biến: là những quy luật biện chứng cơ bản của thế
giới tác động trong mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội, tư duy. Nó biểu hiện
quan hệ giữa những đặc tính phổ biến, tồn tại khách quan, tồn tại khắp mọi
nơi hoặc phản ánh những xu thế phát triển của vật chất.
Tuy nhiên, ranh giới, sự khác biệt trong những quy luật ấy là điều kiện,
không phải bất biến. Trong những quy luật riêng đặc thù biểu hiện sự tác động của
những quy luật phổ biến, cịn những quy luật phổ biến thì được nhận thức bằng
cách khái quát những hiện tượng cụ thể, kể cả những quy luật riêng.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các quy luật được chia làm ba nhóm:
Quy luật xã hội: là những quy luật hoạt động chính của con người. Nó
ra đời, tồn tại, tác động thơng qua hoạt động của con người; nó là sản phẩm
khách quan của chính hoạt động đó; nhân tố người cùng những hoạt động đa
dạng của nó nằm ngay trong cơ chế tác động của quy luật xã hội.
Quy luật tự nhiên: là những quy luật nảy sinh, tác động không cần có
sự tham gia của con người (mặc dù một số quy luật tự nhiên cùng tồn tại
trong con người).
Quy luật của tư duy: là loại quy luật nói lên mối liên hệ nội tại của
những khái niệm, phạm trù, những phán đốn, mà nhờ đó tư duy của con
người hình thành được những tri thức về sự vật.
5


Dù là quy luật tự nhiên, quy luật xã hội hay quy luật của tư duy thì con
người cũng khơng thể sáng tạo ra hoặc tuỳ ý huỷ bỏ các quy luật. Quy luật chỉ
chấm dứt sự tồn tại và tác động của nó, khi mà sự vật mang quy luật đó thay
đổi, khi điều kiện cho sự tồn tại của quy luật đó mất đi.
Việc thực hiện của quy luật tuỳ thuộc vào sự có mặt những điều kiện
nhất định. Việc tạo ra những điều kiện đó đảm bảo cho những kết quả xuất

phát từ quy luật chuyển từ lĩnh vực khả năng sang lĩnh vực hiện thực. Trong
xã hội, việc thực hiện quy luật địi hỏi phải có hoạt động của con người có
khả năng tạo ra hay thủ tiêu - một cách tự giác hoặc không tự giác - những
điều kiện tác dụng của quy luật. Nhưng đồng thời, bản thân con người không
sáng tạo ra quy luật, mà chỉ có thể hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác dụng
của phạm vi quy luật phù hợp với nhu cầu và lợi ích của mình. Cịn bản thân
quy luật thì tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người,
với tính cách là biểu hiện của những quan hệ bên trong, cơ bản, tất yếu giữa
những đặc trưng của sự vật hoặc giữa những xu thế phát triển khác nhau.
1.2. Lý luận chung về cách mạng và quy luật cách mạng
1.2.1. Cách mạng
Từ “cách mạng” xuất hiện ở Trung Quốc đã hơn ba thiên niên kỷ. Thời
ấy, thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu), các vua (quân, vương…) được coi là trời
trao cho các mệnh hoặc “mạng”, nhân danh trời, làm con trời (thiên tử), mà
ngự trị các nước hoặc cả thiên hạ. Cai trị mà tỏ ra có đức có tài, hợp với lịng
tin u của dân thì được trời cho tiếp tục thừa hành mệnh lệnh ấy lâu dài cho
đến cuối đời và sẽ truyền ngôi cho người hiền hoặc cho con nối ngôi thiên tử.
Trái lại, cai trị mà tỏ ra bạo ngược, gian dâm, tham nhũng…bị dân căm ghét,
oán thù thì trời cách bỏ cái mệnh đã trao để chuyển cho người khác có đức và
có tài, xứng đáng dẫn đầu dân chúng nổi lên đánh đổ bạo chúa, tiếp nhận
mệnh trời làm cơng việc trị quốc – bình thiên hạ. Sự cách bỏ và đổi thay đó
gọi là cách mạng.

6


Sau thời kỳ Tam đại sang thời Xuân thu - Chiến quốc, các hùng và bá
tranh nhau nổi dậy khắp nơi gây nên tình trạng đại loạn trong thiên hạ đang
vận động theo xu thế đi đến chế độ phong kiến. Mệnh trời cũng mù mịt, rối
ren. Thừa loạn, Tần Doanh Chính nổi lên thơn tính cả sáu nước gộp vào nước

Tần, thống nhất thiên hạ, lập nên triều đại phong kiến nhà Tần, mở đường cho
các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh và Thanh.
Ở châu Âu nói riêng cũng như phương Tây nói chung, từ khi có sự
phân hoá xã hội thành những giai cấp đối kháng nhau, cuộc đấu tranh giữa
các thành phần bị áp bức bóc lột diễn ra khơng ngừng làm thay đổi hình thái
kinh tế - xã hội bằng những bước nhảy vọt đột biến. Trong tiếng Latinh, cuộc
biến đổi ấy được gọi là “revolutio”. Thời gian ngắn sau đó, ở Anh, Pháp và
các nước phương Tây nói chung, người ta hầu như đều dùng từ ấy, có thay
đổi âm tiết cuối cùng thành “révolution” – nghĩa là cách mạng.
Ngày nay khái niệm cách mạng được hiểu là “sự thay đổi căn bản, là sự
nhảy vọt về chất trong quá trình phát triển của tự nhiên, xã hội hoặc nhận thức
của con người. Khái niệm cách mạng được sử dụng trong lĩnh vực xã hội, đặc
trưng cho sự biến đổi sâu sắc, triệt để, không cỉa lương nửa vời, làm thay đổi
tận gốc rễ chế độ xã hội đưa giai cấp tiên tiến lên nắm chính quyền”(1)(1).
Trong cuốn Từ điển chính trị (Bản dịch tiếng việt, xuất bản năm 1961),
khái niệm cách mạng được hiểu là bước ngoặt căn bản trong sinh hoạt của xã
hội, bước ngoặt này đưa tới sự lật đổ chế độ xã hội lỗi thời và thiết lập mọt
chế độ xã hội mới, tiến bộ, chính quyền chuyển từ một tay giai cấp này (phản
động) sang một tay giai cấp khác (tiến bộ).
Trái hẳn với khoa học xã hội, tư sản cho rằng những cuộc cách mạng
xã hội là một điều “tình cờ”, là sự đi chệch ra khỏi con đường thì chủ nghĩa
Mác – Lênin đã dạy cho chúng ta rằng cách mạng là một giai đoạn phát triển
hợp với quy luật phát triển của xã hội. Mác đã khẳng định: lực lượng sản xuất
vật chất của xã hội phát triển đến một trình độ nhất định liền mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất đang tồn tại, hay là nói theo danh từ pháp lý, mâu thuẫn với
quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay lực lượng xã hội ấy vẫn phát triển.
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam: Từ điển Bách khoa Việt Nam (quyển 1),
Trung tâm biên soạn Từ điển bách khoa Vịêt Nam, H, 1995, Tr.326.
(1)(1)


7


Những quan hệ đó vốn trước kia là hình thức phát triển của lực lượng xã hội,
nay trở thành xiềng xích của lực lượng xã hội. Lúc đó bắt đầu thời kì cách
mạng xã hội.
1.2.2. Quy luật cách mạng
Trong xã hội có giai cấp, các cuộc cách mạng xã hội là điều khơng thể
tránh được, bởi vì các giai cấp thống trị đã dùng cả một loạt hệ thống cơ quan
chính trị, luật pháp và các cơ quan khác, trước hết là nhà nước và luật pháp,
để giữ vững những quan hệ sản xuất cũ. Vì thế, muốn mở đường cho xã hội
phát triển hơn nữa, thì giai cấp mới phải xoá bỏ chế độ Nhà nước đang tồn tại.
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền chuyển từ giai
cấp phản động sang tay giai cấp tiến bộ được thực hiện bằng con đường đấu
tranh giai cấp quyết liệt và nhiều khi dưới hình thức một cuộc nội chiến.
Cách mạng là hình thức đấu tranh giai cấp cao nhất. Tuy vậy, không
phải bất cứ cuộc lật đổ nào, trong đó một giai cấp này dùng bạo lực để lật đổ
một giai cấp khác, cùng đều có thể gọi là cuộc cách mạng. Khái niệm cách
mạng chỉ dùng trong trường hợp một giai cấp tiền phong lên nắm chính quyền
và mở đường cho một sự tiến bộ của xã hội. Quy định tính chất của một cuộc
cách mạng là phải phân tích xem cuộc cách mạng ấy giải quyết những mâu
thuẫn nào, thực hiện những nhiệm vụ xã hội nào, giai cấp nào đứng đầu cuộc
cách mạng ấy.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa khác căn bản với tất cả những cuộc cách
mạng từ trước đến nay. Tất cả những cuộc cách mạng trước khi chỉ đi tới sự
thay đổi hình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác. Mục đích của các
mạng xã hội chủ nghĩa là tiêu diệt hồn tồn mọi hình thái của ách áp bức xã
hội, tiêu diệt tình trạng người bóc lột người bóc lột người, xây dựng chủ nghĩa
cộng sản. Cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917 là mẫu mực của
cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng là sự lựa chọn tất yếu của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước trong cuộc đấu tranh chống các
thế lực thống trị. Khởi nghĩa là một nghệ thuật, cũng y như chiến tranh hay bất
cứ nghệ thuật nào khác. Khởi nghĩa phải tuân theo một số quy tắc nhất định,
8


đảng nào mà quên mất những quy tắc ấy sẽ không tránh khỏi tiêu vong. Mác đã
đưa ra hai quy tắc cơ bản của bất cứ cuộc khởi nghĩa nào, đó là: “thứ nhất khơng
bao giờ được đùa với cuộc khởi nghĩa, nếu khơng có quyết tâm tiến hành đến
cùng…thứ hai, một khi đã bước vào con đường khởi nghĩa, phải huy động với
một cuộc quyết tâm rất lớn và phải giành thế tiến công”(1)(1).Lý giải cho điều
này, với quy tắc thứ nhất, Mác chỉ rõ: “Khởi nghĩa là một bài tốn có những đại
lượng rất bất định mà giá trị có thể thay đổi hàng ngày, lực lượng chiến đấu của
đối phương có đủ mọi ưu thế về tố chức, về kỷ luật và về quyền uy vốn có từ lâu;
nếu những người khởi nghĩa khơng có lực lượng mạnh hơn hẳn để đối phó với
đối phương thì chắc chắn sẽ thua và bị tiêu diệt”(2)(2). Quy tắc thứ hai nêu rõ
phòng ngự là sự diệt vong của mọi cuộc khởi nghĩa vũ trang, nếu phòng ngự,
khởi nghĩa sẽ thất bại ngay sau khi họ đọ sức với kẻ thù. Phải tấn công đối
phương một cách bất ngờ khi lực lượng của nó cịn tản mạn; từng ngỳa phải
giành được những thắng lợi mới, dù nhỏ đi nữa; phải giữ vững ưu thế tinh thần
do cuộc nổi dậy thắng lợi đầu tiên đem lại.
V.I.Lênin trong quan điểm của mình luôn nhấn mạnh về sự cần thiết
phải tiến hành một cuộc cách mạng để giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc. Lênin chỉ rõ: “…không thể nào chiến thắng được giai cấp tư sản nếu
khơng có một cuộc chiến lâu dài, kiên trì, quyết liệt, nếu khơng có một cuộc
chiến đấu sống mãi địi hỏi phải có tính kiên định, kỷ luật, quyết tâm, một ý
chí thống nhất và khơng gì lay chuyển nổi”(3).
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam Hồ
Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người khẳng

định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác
con đường cách mạng vơ sản”(4)(4). Đó là con đường bạo lực cách mạng.
CHƯƠNG 2:

C. Mác và Ăghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1003, T.8, Tr.122-123.
Sđd: Tr.122
(3)(3)
Lênin toàn tậpk, Nxb. Tiến bộ, M, T.42, Tr.7
(4)(4)
Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Nxb Sự thật, H, 1960, Tr.705
(1)(1)
(2)(2)

9


NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY LUẬT
CÁCH MẠNG MIỀN NAM (1954 - 1975)
Những vấn đề có tính quy luật đối với mỗi cuộc cách mạng chính là đường lối
chính trị - đường lối chiến tranh; là những phương pháp cách mạng được sử
dụng trong cuộc chiến cùng các phương thức, hình thức chiến tranh và nghệ
thuật quân sự. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
miền Nam, Đảng ta cũng xác định cụ thể và hồn chỉnh đường lối cách mạng.
Từ đó Đảng đã lựa chọn những phương pháp cách mạng và nghệ thuật quân
sự phù hợp cho nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Trong giai đoạn Đảng lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân tiến hành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam (1954 – 1975), vấn đề này được thể
hiện qua những nội dung cơ bản sau:
2.1. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng
tạo, độc lập, tự chủ.

2.1.1. Quan điểm của Đảng trong việc xác định đường lối cách mạng
miền Nam (1954 – 1975).
Đối với một cuộc cách mạng thực sự nhân dân thì cái quyết định đầu tiên
là vấn đề đường lối. Đối với một đảng mácxít thì cái khó khăn lúc đầu là cái
khó trong việc xác định được một đường lối cách mạng đúng đắn. Vì vậy,
muốn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đi đúng hướng, thì ngồi những điều kiện
khác, một trong những điều kiện quyết định nhất là “đường lối của Đảng phải
đúng, quần chúng phải hiểu biết được đường lối đó là đúng đắn”(1)(1).
Chính trên ý nghĩa đó, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV(12/1976) của Đảng chỉ rõ: “đường lối
quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta. Thắng lợi vĩ đại của
sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường

(1)(1)

J. Xtalin: Toàn tập, Nxb ST, H, T.2, Tr.339.

10


lối chính trị”(1)(1). Đường lối đó chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Nó phản ánh đúng những đặc điểm
rieng biệt và những trái ngược cơ bản của cách mạng nước ta. Vì vậy, Đảng ta
bao giờ cũng xem việc phân tích một cách cách mạng khoa học, theo quan điểm
giai cấp, xã hội, mâu thuẫn trong việc định ra đường lối chính trị, đường lối quân
sự cho mỗi cuộc cách mạng, cuộc chiến tranh.
Đường lối cách mạng của Đảng bao gồm những quan điểm tư tưởng,
những nguyên tắc, phương châm chỉ đạo cách mạng, được đề ra qua các Hội
nghị Trung ương Đảng, Hội nghị Bộ Chính trị. Đường lối đó được hình thành
trên cơ sở phân tích đúng tình hình trong nước và thế giới, xác định đúng đối

tượng, động lực cách mạng, đối tượng tác chiến, đánh giá đúng tương quan
lực lượng giữa ta và địch qua các thời kì lịch sử.
Đường lối quân sự, chiến tranh của Đảng chính là những quan điểm
của Đảng ta đối với cách mạng miền Nam; là những phương pháp cách mạng,
những hình thức đấu tranh mà Đảng ta đã chọn lựa để chống Mỹ, cứu nước.
Đó là phương pháp bạo lực cách mạng tổng hợp với việc dựa vào hai lực
lượng: lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, bao gồm hai hính thức đấu
tranh: đấu tranh chính trị và vũ trang.
Đường lối chính trị đúng đắn để Đảng ta đề ra giải quyết tốt các mâu
thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam nói chung và xã hội miền Nam nói riêng,
đó là đường lối “Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng quan hệ chặt chẽ với nhau: cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc, nhằm mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, hoàn thành thống nhất nước nhà, tạo điều kiện đưa
cả nước lên chủ nghĩa xã hội”(1)(1).
(1)(1)
(1)(1)

ĐCSVN: Báo cáo chính trị của BCHTU Đảng tại ĐHĐBTQ lần thứ IV, Nxb.ST, H, 1977, Tr.22.
ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2004, T.37, Tr.978

11


Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là con đường giải phóng nhân
dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vạch ra, dưới ánh sáng của học
thuyết Mác – Lênin: ““Muốn cứư nước và giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”…vì “chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những

người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ””(1)(1).
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong đường lối của
Đảng có cái mới, cái phát triển đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được
nêu lên như hai ngọn cờ cách mạng và trở thành hai chiến lược cách mạng
được tiến hành đồng thời trên hai miền đất nước.
Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9/1960), Đảng ta đã
khẳng định: cả nước đang tồn tại mâu thuẫn chung giữa nhân dân ta với đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chung của cả nước.
Kẻ thù cần phải đánh đổ là kẻ thù chung của nhân dân từ Bắc chí Nam.
Miền Bắc, cùng với việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa hai con
đường, còn phải giải quyết mâu thuẫn giữa nhân dân miền Bắc với bọn đế
quốc Mỹ và tay sai. Miền Bắc càng tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã
hội, lực lượng các mặt ngày càng được củng cố thì càng làm trịn nghĩa vụ
hậu phương lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam phát triển
mạnh mẽ.
Còn ở miền Nam, tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam, tức là
giải quyết cùng một lúc hai mâu thuẫn cơ bản tồn tại trong xã hội miền Nam:
mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam với bọn đế quốc xâm lược, trước hết là
đế quốc Mỹ và tay sai của chúng; mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam (chủ
yếu là nông dân) với bọn địa chủ phong kiến.
Trước hành đọng của đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam, uy hiếp miền
Bắc nước ta và đe doạ nền hoà bình ở khu vực Đơng Nam Á, Đảng ta đã chỉ
rõ: giải phóng miền Nam là nghĩa vụ cấp bách và thiêng liêng của tồn thể
(1)(1)

Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb CTQG, H, 2002, T.9, Tr.314.

12



dân tộc ta đối với Tổ quốc mình và đối với phong trào cách mạng thế giới.
Chỉ có giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai
mới chấm dứt được nỗi đau thương và căm hờn của dân tộc ta, mới bảo vệ
được miền Bắc. Nhân dân miền Nam phải kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh
cách mạng, đánh đổ ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mỹ và tay sai, giải
phóng miền Nam. Ngồi con đường đó ra khơng cịn con đường nào khác cả.
Đấu tranh giải phóng miền Nam là một quá trình cách mạng lâu dài và
gian khổ. Do đặc điểm của cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, Đảng ta
xác định: “phương châm chiến lược chung của cuộc chiến tranh cách mạng
của nhân dân miền Nam là chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình là
chính”(1)(1).
Đường lối chính trị của Đảng mà nội dungớc bản của nó là kết hợp chặt
chẽ hai nhiệm vụ chiến lược cảu cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc thể hiện tư duy độc lập, tự
chủ, đầy tính sáng tạo của Đảng. Đường lối đó trước hết chú trọng nêu cao ý
chí tự lực tự cường, tinh thần độc lập, tự chủ, giáo dục toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta tự tin ở sức mình. Đồng thời, phải biết phát huy những năng lực
tiềm tàng gắn liền với truyền thống lích sử oanh liệt của tổ tiên, với kinh
nghiệm cách mạng quý báu của quá khứ, nhằm tạo ra cho dân tộc ta, đất nước
ta một sức mạnh to lớn để có thể đương đầu với chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước là động lực chủ yếu, là chỗ
dựa quan trọng nhất của cơng cuộc cứu nước, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
Đường lối chính trị mà Đảng ta xác định cho cách mạng miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhấn mạnh việc kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp nghĩa vụ dân tộc với nghĩa
vụ quốc tế.

(1)(1))


ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2004, T.21, Tr.551

13


Mặc dù luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự lực, tự cường, “lấy sức ta mà
giải phóng cho ta” nhưng trong quan điểm của mình, Đảng ta vẫn khơng phủ
nhận việc cần thiết phải tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của các lực lượng cách
mạng và nhân dân u chuọng hồ bình trên thế giới đối với cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, coi đó là một nội dung quan
trọng trong đường lối kháng chiến, là một điều kiện bảo đảm đưa cách mạng
miền Nam đi đến thắng lợi.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng của thế giới. Sự
nghiệp cách mạng nhân dân ta là biểu hiện cụ thể, sinh động sự kết hợp chặt
chẽ hai mục tiêu cơ bản của thời đại. Nhờ đứng trên chiến lược tiến công
chung của cách mạng thế giới, lại biết khai thác và tận dụng sức mạnh to lớn
của trào lưu cách mạng thế giới, Đảng ta đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp
cho cách mạng Việt Nam nói chung và cách mạng miền Nam nói riêng trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ngược lại, bản thân cuộc đấu tranh
của nhân dân ta lại tăng cường thêm sức mạnh của ba phong trào cách mạng
trên thế giới, góp phần cùng các phong trào ấy làm sâu sắc và gay gắt thêm
cuộc tổng khủng hoảng trong hệ thống chủ nghĩa đế quốc thế giới. Do đó, nó
góp phần củng cố một bước thế tiến công của các lực lượng cách mạng, làm
cho khả năng giữ gìn hồ bình thế giới càng tăng lên gấp bội.
Bởi ý nghĩa đó, cách mạng Việt Nam khơng phải chỉ hồn thành tốt
nghĩa vụ đối với dân tộc mình mà cịn làm trịn nghĩa vụ quốc tế; khơng chỉ vì
lợi ích của bản thân mình mà cịn vì lợi ích chung của phong trào cách mạng
các nước. Hồ Chủ tịch đã nói: “Vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì lợi ích của
phe xã hội chủ nghĩa, của các dân tộc bị áp bức và của cả loài người tiến bộ,
chúng ta đang chiến đấu và chiến thắng của một kẻ thù hung ác nhất trên thế

giới”(1)(1). Chính trên tinh thần ấy, với tình cảm sâu sắc, chân tình, đồng chí
Phiđen Caxtơrơ đã nói: “Bằng cuộc đấu tranh anh hùng của mình, nhân dân

(1)(1)

Hồ Chí Minh: vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb ST, 1970, Tr. 313

14


Việt Nam đã cột chặt nanh vuốt của chủ nghĩa đế quốc, và đã ngăn không cho
chúng gây tội ác ở những nơi khác trên thế giới”(2)(2).
Chiến tranh xâm lược Việt Nam là mơi trường thí nghiệm của các chiến
lược, chiến thuật chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ. Âm
mưu xảo quyệt của đế quốc Mỹ là đánh bại cách mạng Việt Nam, xoá bỏ một
ngọn cờ giải phóng dân tộc, huỷ diệt một tiền đồn của chủ nghĩa xã hội ở
Đông Nam Á và trên thế giới. Do vậy, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta tuy diễn ra trong một phạm vi tương đối hẹp, đã sớm trở
thành một cuộc đấu tranh mang tính chất thời đại sâu sắc, là một tiêu điểm
của cuộc đấu tranh quyết liệt giữa thế lực phản cách mạng do đế quốc Mỹ
cầm đầu và thế lực cách mạng do phe xã hội chủ nghĩa làm nịng cốt. Nhân
dân Việt Nam chẳng những chiến đấu vì lợi ích sống cịn của dân tộc mình
mà cịn gánh vác một sứ mệnh do lịch sử giao phó là làm người chiến sỹ xung
kích trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế
quốc vì hồ bình, độc lập dân tộc, chủ nghĩa và tiến bộ xã hội.
Trong việc hoạch định đường lối chính trị cho cách mạng miền Nam,
Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải kết hợp đúng đắn lợi ích chân
chính của dân tộc mình với lợi ích chung của cách mạng thế giới. Trong khi
chăm lo tình hình và lợi ích cách mạng của nước ta, Đảng ta khơng bao giờ
sao nhãng nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Chấp nhận cuộc đụng đầu lịch

sử với đế quốc Mỹ ở miền Nam, chúng ta chẳng những vì nền độc lập dân tộc
và tồn vẹn lãnh thổ của mình, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào
cách mạng ở các nước khác có thời cơ củng cố, tăng cường thực lực, chuẩn bị
tiến công đế quốc Mỹ trên các hướng khác nhau. Điều đó khơng chỉ mang lại
lợi ích cho phong trào cách mạng thế giới, mà cịn mang lại cho chính bản
thân cách mạng nước ta một sự ủng hộ vơ giá về tình đồn kết vơ sản anh em,
nhằm cơ lập và phân hố cao độ đế quốc Mỹ xâm lược.
Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới,
Nxb ST, H, 1076, Tr.63.
(2)(2)

15


Trong quan điểm của mình về vấn đề ngoại giao, Đảng ta khẳng định:
“Chính sách ngoại giao của ta là xây dựng và phát triển quan hệ ngoại giao với
bất cứ nước nào dựa theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi và tơn trọng
lãnh thổ, chủ quyền của nhau”(1)(1). Ngay từ năm 1954, khi đế quốc Mỹ bắt đầu
tiến hành những hành động xâm lược của mình ở miền Nam Việt Nam, Đảng ta
chỉ rõ: “Phương châm chính sách ngoại giao của ta là chống chính sách chiến
tranh của đế quốc Mỹ, chống Mỹ tổ chức khối xâm lược Đơng Nam Á, củng cố
hồ bình ở Đơng Dương, bảo vệ hồ bình ở Đơng Nam Á và toàn thế giới”(2)(2).
Hội nghị lần thứ 13 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá II
(1/1967) đã ra Nghị quyết về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến
công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, trong đó
nhấn mạnh hình thái đấu tranh ngoại giao. Hội nghị xác định: “Đi đôi với đấu
tranh quân sự và chính trị ở miền Nam. Ta cần tiến công địch về mặt ngoại
giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn
nữa”(3)(3). Đây là hình thức đấu tranh mới và cũng hết sức quan trọng nhất là
“tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ mạnh mẽ hơn nữa bằng nhiều hình

thức của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là nhân dân Mỹ và mọi
lực lượng yêu chuộng hồ bình và cơng lý trên thế giới, lập một mặt trận
thống nhất của nhân dân thế giới chống đế quốc Mỹ xâm lược(4)(4)”.
Nếu sự kết hợp giữa lợi ích của cách mạng Việt Nam với lợi ích của
cách mạng thế giới là một nguyên tắc chiến lược, thì việc kết hợp giữa sức
mạnh của dân tộc Việt Nam với sức mạnh của thời đại trong giai đoạn kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước cũng là một quy luật tất yếu. Chính trên ý nghĩa
đó, Đảng ta ln chủ trương tranh thủ mọi lực lượng, mọi khả năng chống
Mỹ, dù lớn, dù nhỏ, lâu dài hay tạm thời, để triệt để cô lập đế quốc Mỹ và bọn
tay sai, tập trung mũi nhọn đấu tranh đánh bại chúng hoàn toàn.
ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2001, T.15, Tr.304
Sđd: Tr.175
(3)(3)
ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2001, T.28, Tr.174
(4)(4)
Sđd: Tr.175
(1)(1)
(2)(2)

16


Như vậy, đường lối đúng đắn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, sưca mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế của Đảng cho phép tập
hợp mọi lực lượng có thế tập hợp được và lơi cuốn mọi xu hướng chính trị
khác nhau, hình thành một lực lượng thống nhất chống Mỹ, cứu nước. Đường
lối đó đã tạo ra cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta một sức mạnh tổng hợp
cần và đủ để hạn chế một phần sức mạnh của đế quốc Mỹ và bảo đảm cho nhân
dân ta đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược có quy mơ rất lớn của chúng.
2.1.2. Qn triệt đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng

trong thực tiễn cách mạng Việt Nam (1954 – 1975).
Nghị quyết lần thứ 15 khoá II (1/1959) và tiếp sau đó là Nghị quyết Đại
hội đại biểu tồn quốc lấn thứ III của Đảng (9/1960) đã hoàn chỉnh đường lối
của cách mạng miền Nam. Đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam
là một sáng tạo lớn của Đảng ta. Với đường lối độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở
hai miền đất nước trong hoàn cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền
với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Đứng trên quan điểm tồn cục đó,
Đảng đã cân nhắc, tính tốn việc đẩy mạnh cách mạng miền Nam trong mối
quan hệ chặt chẽ với cách mạng miền Bắc. Đảng ta đã sử dụng linh hoạt, sáng
tạo nhiều hình thức, phương pháp cách mạng mà điển hình nhất là chiến tranh
nhân dân và nghệ thuật quân sự độc đáo, sử dụng bạo lực cách mạng với hai
lực lượng chính với hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị của quần
chúng và đấu tranh vũ trang song song.
Thắng lợi quan trọng trong 10 năm đầu của cuộc chiến (từ tháng 7/1954
đến giữa năm 1965) bằng phong trào Đồng Khởi và cuộc chiến tranh cách
mạng “hai chân, ba mũi, ba vùng” ở miền Nam đã kìm chân bọn xâm lược ở
phía Nam vĩ tuyến 17, tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi cho miền Bắc củng
cố và phát triển thành quả cách mạng, tăng cường thực lực về mọi mặt. Cao
trào khởi nghĩa từng phần trên quy mô rộng lớn ở miền Nam trong những năm

17


1959 – 1960 là một phần sáng tạo của Đảng cho phép đưa cách mạng miền
Nam lên thế tiến công mở đầu cuộc chiến tranh giải phóng một cách chủ động.
Mưòi năm sau của cuộc kháng chiến (từ giữa năm 1965 – 5/1975) là
những năm tháng kháng chiến hào hùng và thắng lợi vang dội của quân và
dân cả nước. Cách mạng miền Nam đã lần lượt đánh thắng các chiến lược
chiến tranh của đế quốc Mỹ, từ “chiến tranh cục bộ” rồi “Việt Nam hoá chiến

tranh”. Hơn một triệu quân Mỹ, quân nguỵ và quân một số nước phụ thuộc
Mỹ được trang bị hiện đại, vũ khí thừa thãi trang bị hiện đại đã bị căng kéo,
vây hãm, bị tiêu hao và tiêu diệt nặng nề. Sức phản công của chúng ngày càng
giảm sút, ý chí xâm lược ngày càng suy sụp, Mỹ đã phải chấp nhận ký vào
Hiệp định Pari (27/1/1973), rút hết quân về nước, mở đường cho sự thất bại
hoàn toàn của lực lượng nguỵ quân, nguỵ quyền chỉ hơn hai năm sau đó.
Đường lối chính trị của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước không chỉ vạch ra một lần mà đã được phát triển, bổ sung từng bước qua
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh cách mạng trên cơ sở tổng kết thực tiễn.
2.2. Phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp: lực lượng
chính trị quần chúng kết hợp lực lượng vũ trang nhân dân.
2.2.1. Quan điểm của Đảng trong việc xác định phương pháp cách
mạng ở miền Nam (1954 – 1975)
Muốn đưa cách mạng tới thắng lợi, điều quan trọng trước hết là phải
xác định đúng hướng và mục tiêu cụ thể cho mỗi thời kỳ. Song, bằng con
đường nào, với những hình thức và biện pháp gì để thực hiện phương hướng
và mục tiêu đã định, đó là vấn đề rất quan trọng. “Kinh nghiệm cho thấy
phong trào cách mạng có khi giẫm chân tại chỗ, thậm chí thất bại nữa, khơng
phải vì thiếu phương hướng và mục tiêu rõ ràng mà chủ yếu vì thiếu phương
pháp cách mạng thích hợp”(1)(1).
Với quyết tâm đè bẹp ý chí và sức mạnh chiến đấu của ta, Mỹ đã tung
vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam một khối lượng sắt thép khổng lồ,
Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới,
Nxb ST, H, 1076, Tr.34
(1)(1)

18


đã sử dụng mọi thành tựu khoa học - kỹ thuật mới nhất, đã áp dụng mọi chiến

lược - chiến thuật chính trị, quân sự, ngoại giao, đã đưa hầu như cạn trí tất cả
các chiến lược gia bậc nhất để đấu trí với chúng ta.
Trước những hành động leo thang xâm lược của đế quốc Mỹ đòi hỏi
Đảng ta và nhân dân ta phải cố gắng vượt bậc, không ngừng vươn lên ngang
tầm nhiệm vụ, biết tiếp thu và vận dụng khôn khéo, linh hoạt tất cả những
kinh nghiệm đánh giặc, giữ nước của cha ơng, những hình thức và biện pháp
đấu tranh phong phú của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Bên
cạnh đó, cũng khơng ngừng sáng tạo ra những hình thức, những biện pháp và
cách đánh giặc mềm dẻo, linh hoạt, đa dạng trong tất cả các mặt đấu tranh
chính trị, quân sự, ngoại giao.
Sau khi tìm được con đường và bước đi thích hợp, Đảng đã lựa chọn
những phương pháp cách mạng cụ thể cho cách mạng miền Nam. Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đại hội IV của Đảng khẳng định:
“Phương pháp cách mạng miền Nam, cứu nước là: sử dụng bạo lực cách
mạng với hai lực lượng: lực lượng chính trị của quần hcúng kết hợp với lực
lượng vũ trang nhân dân; tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ
khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh quân
sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa của
quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi
dậy; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng và thành thị;
đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; kết hợp đánh
lớn, đánh vừa và nhỏ, thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để
làm chủ; nắm vững thời cơ mở những trận tiến công chiến lược làm thay đổi
cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân
địch để giành thắng lưọi cuối cùng”(1)(1).
Phương pháp đấu tranh cách mạng miền Nam trong thời ký kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước là phương pháp bạo lực cách mạng với việc dựa
(1)(1)

ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2001, T.37, Tr.387 – 388.


19


vào hai lực lượng: lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, bao gồm hai hình
thức đấu tranh: đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và sự kết hợp giữa hai
hình thức ấy.
Vai trị của phương pháp cách mạng và sự sáng tạo của Đảng ta trong
lĩnh vực này đã thể hiện đầy đủ và nổi bật trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Trong gần nửa thế kỷ đấu tranh cách mạng, chưa bao giờ chúng ta phải
đương đầu với một kẻ thù to lớn, hùng mạnh và nham hiểm như đế quốc Mỹ,
chưa bao giờ phải đối phó với những khó khăn cực kỳ to lớn, phức tạp và gay
gắt như trong cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước. Nghiên cứu phương pháp
cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có thể tập
trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, kết hợp đấu tranh
vũ trang với đấu tranh chính trị, kết hợp chiến tranh cách mạng với khởi
nghĩa vũ trang, kết hợp việc tiêu diệt địch với việc giành và giữ quyền làm
chủ của nhân dân.
Đảng ta khẳng định: “Quy luật chiến tranh nhân dân ở nước ta là quy
luật chiến tranh của toàn dân, là quy luật nổi dậy và tiến công, tiến công và
nổi dậy, đi đến tổng tiến công và nổi dậy đều khắp để đánh bại kẻ thù. Nói
một cách khác đó là một q trình tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ,
giành quyền làm chủ để tiêu diệt địch, một q trình đấu tranh chính trị và
qn sự, qn sựu và chính trị, khởi nghĩa của quần chúng và chiến tranh
cách mạng, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, giành
thắng lợi từng bước, đi đến giành thắng lưọi hoàn toàn”.(1)(1)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân miền Nam là một
cuộc đụng đầu lịch sử. Trong cuộc chiến tranh đó, để đối chọi với vũ khí hiện
đại, cùng những thủ đoạn xảo quyệt của đế quốc Mỹ, Đảng ta đã vận dụng

nhiều hình thức, phương pháp đấu tranh khác nhau, nhưng về cơ bản đó là

(1)(1)

Nghị quyết Bộ chính trị, tháng 6/1970

20



×