Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Tiểu luận báo chí, tuyên truyền xây dựng nông thôn mới ở tỉnh thái bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.21 KB, 94 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Ngay sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, ngày 07/12/1945
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trên báo “Tấc đất” số đầu tiên là: “Loài người ai
cũng “dĩ thực vi tiên” (nghĩa là trước cần phải ăn), nước ta thì “dĩ nông vi bản”
(nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân muốn ăn no phải giồng giọt cho nhiều. Nước
muốn giầu mạnh thì phải phát triển nơng nghiệp. Vậy chúng ta không nên bỏ
hoang một tấc đất nào hết. Chúng ta phải quý mỗi tấc đất như một tấc vàng”. Lâu
nay, vấn đề nông nghiệp - nông dân - nông thôn đã được Đảng, Nhà nước ta quan
tâm, chú trọng đặc biệt, với nhiều chủ trương, quyết sách thiết thực, có ý nghĩa
với người dân ở nơng thơn. Đó là những chương trình và các cuộc vận động như:
Chương trình mục tiêu quốc gia về xố đói giảm nghèo và tạo việc làm, Chương
trình 62 huyện nghèo, Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn,
Dự án 5 triệu ha rừng… Mỗi chính sách đều tác động đến một hoặc một số khía
cạnh của nơng thơn, nhưng chưa chính sách nào có mục tiêu tập trung xây dựng
đồng bộ địa bàn này.
Trước thực tế bức xúc đó, kể từ năm 2001, Ban Kinh tế Trung ương cùng
với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã bắt đầu triển khai xây dựng mơ
hình “Phát triển nơng thơn theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố, hợp tác
hố, dân chủ hoá” tại 218 xã điểm trên cả nước. Tuy nhiên, do thiếu nguồn lực
đảm bảo nên hầu hết các mô hình này đều khơng có tính khả thi. Đến năm 2007,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lại cho thí điểm “Đề án xây dựng nơng
thơn mới cấp thơn, bản” theo phương pháp tiếp cận dựa vào nội lực và do cộng
đồng làm chủ; nhưng vì chưa xác định được bước đi rõ ràng và tiêu chí cụ thể nên
kết quả của đề án này cịn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Đặc biệt là sau Nghị
quyết số 26-NQ/TƯ "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" do Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 7 thông qua và Quyết định số 491/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nơng thơn mới (gồm
19 tiêu chí) ngày 16/04/2009, thì vấn đề phát triển tồn diện nơng thơn mới thực
1



sự được quan tâm một cách tổng thể nhất. Có thể nói đây chính là những chính
sách “vực dậy” cả khu vực này, trở thành cơ sở để chỉ đạo việc thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nơng thôn mới giai đoạn 2010 - 2020
sẽ được tiến hành ở tất cả các địa phương trên phạm vi toàn quốc.
Nhắc tới nơng nghiệp - nơng thơn thì khơng thể khơng nhắc tới Thái
Bình - “Q hương 5 tấn” trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thái
Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, với tổng diện tích mặt bằng tương đương
154.654 ha, trong đó có khoảng 106.000 ha đất canh tác nông nghiệp; dân số trên
1,8 triệu người, mà 86% số đó sống ở nơng thơn. Những năm qua, khu vực này của
tỉnh đã có bước phát triển đáng kể. Sản xuất nơng nghiệp tăng bình qn 5,1%/
năm, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nơng thơn Thái Bình cịn vướng mắc nhiều tồn tại
từ quy hoạch, hình thức tổ chức sản xuất, đời sống văn hóa, chính trị… Nhằm khắc
phục những hạn chế đó, thực hiện sự chỉ đạo, định hướng của Trung ương; các cấp ủy
Đảng, Chính quyền trong tỉnh đã xây dựng và ban hành nhiều chủ trương, chính sách
hướng về nơng thơn. Trong đó, tiêu biểu nhất là đề án “Xây dựng nơng thơn mới tỉnh
Thái Bình giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2012” ngày 02/04/2011 đã được
phê duyệt và xúc tiến thực hiện trên địa bàn tỉnh.
Xây dựng nông thôn mới không phải công việc riêng của các cấp ủy Đảng
hay Chính quyền, mà nó cịn cần sự vào cuộc, chung sức của tất cả nhân dân, bởi
họ chính là những người sẽ thụ hưởng tồn bộ lợi ích mà Chương trình này đem
lại. Do đó, cơng tác tun truyền cho người dân hiểu, tự giác và tích cực tham gia,
làm theo mục tiêu của Chương trình được coi là một biện pháp hữu hiệu, khả thi,
một trong những “chìa khóa vạn năng” đảm bảo sự thành cơng của q trình xây
dựng nơng thơn mới.
Vì tất cả những lí do trên, là một người con của Thái Bình, với mong muốn
góp phần cơng sức nhỏ bé của mình vào việc xây dựng quê hương ngày một giàu
đẹp, phát triển hơn; tác giả quyết định chọn đề tài: “Tuyên truyền xây dựng nông
thôn mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khóa luận của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xây dựng nơng thơn mới là một vấn đề thời sự, chỉ được các tác giả trong
và ngoài nước để tâm, nhắc tới trong vài năm gần đây. Đặc biệt là việc tuyên
truyền xây dựng nông thôn mới tại một địa phương cụ thể như Thái Bình thì lại
càng thiếu những nghiên cứu sâu sắc, cặn kẽ. Tuy nhiên thời gian qua, ở nhiều tài
liệu, sách báo, đề tài…thuộc các lĩnh vực khác nhau cũng có đề cập tới những
kiến thức liên quan trực tiếp với nội dung của chủ đề này.
Đối với công tác tun truyền có một số nghiên cứu:
“Giáo trình Ngun lí tuyên truyền” của Khoa Tuyên truyền, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, năm 2006. Trong giáo trình đã đề cập đến những vấn đề
chung của công tác tuyên truyền, các lĩnh vực, phương tiện tuyên truyền, cũng
như sự lãnh đạo của Đảng và vấn đề đổi mới đối với công tác tuyên truyền ở đất
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Luận án Tiến sĩ Tâm lí học về “Nghiên cứu kĩ năng tuyên truyền của cán
bộ chính trị đơn vị cơ sở Quân đội Nhân dân Việt Nam”, tác giả Nguyễn Hồng
Lân, Học viện Chính trị qn sự, năm 2008. Luận án tập trung nghiên cứu cơ sở
lý luận và thực tiễn kinh nghiệm tuyên truyền của cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở
Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở đó phân tích thực trạng một số kinh
nghiệm tuyên truyền cơ bản của cán bộ chính trị và đề xuất các biện pháp nhằm
nâng cao kinh nghiệm tuyên truyền của cán bộ chính trị ở các đơn vị cơ sở ở
Quân đội Nhân dân Việt Nam.
“Phương pháp tuyên truyền giáo dục chính sách của Đảng trong quần
chúng” của Lê Duẩn, Nxb Sự Thật, năm 1955. Nội dung cuốn sách nhấn mạnh
đến nghệ thuật tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng, củng cố lập trường cho họ,
tun truyền chính sách đầy đủ để biến nó thành của quần chúng, hồ mình với
quần chúng để giáo dục quần chúng.
Cuốn “Về công tác tuyên truyền và cổ động” của V.I.Lênin, Nxb Sự thật,

năm 1983. Đây là cơng trình tổng hợp những bài nói và bài viết của V.I. Lênin về

3


công tác tuyên truyền và cổ động, cũng như quan điểm, tư tưởng và lí luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin đối với công tác này.
Với nông thôn và nông thơn mới có một số cơng trình nghiên cứu sau:
“Giáo trình Phát triển nơng thơn”, do TS. Mai Thanh Cúc - Ts. Quyền
Đình Hà đồng chủ biên, Nxb Nơng nghiệp, năm 2005. Giáo trình đi sâu vào các
nội dung: Kinh tế nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn, phát triển cơ sở hạ tầng
dịch vụ xã hội và môi trường nơng thơn, vai trị của nhà nước và các tổ chức
trong phát triển nông thôn, phương pháp nghiên cứu phát triển nông thôn.
Luận án Tiến sĩ Triết học về “Định hướng chính trị - xã hội sự phát triển
của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nước ta trong quá trình đổi mới”, tác giả Ngơ
Mạnh Hà, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2003.
Luận án đã làm rõ sự tác động qua lại của các nhân tố kinh tế, chính trị và xã hội ở
nơng thơn. Trên cơ sở đó, tác giả chú ý luận giải khuynh hướng phát triển hợp quy
luật ở nơng thơn đồng bằng Bắc Bộ và phân tích có phê phán các khuynh hướng
cực đoan lệch lạc; từ đó chỉ ra vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
trong việc đảm bảo định hướng chính trị - xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ
hiện nay.
Cuốn “Tài liệu hỏi - đáp xây dựng nông thôn mới cấp xã: Phục vụ cho
công tác tuyên truyền trong nhân dân” do Nguyễn Anh Thùy (chủ biên), Nxb
Cần Thơ, năm 2011, gồm những câu hỏi - đáp về các nội dung cơ bản xây dựng
nông thôn mới cấp xã. Các nội dung cần thực hiện theo Quyết định 491/QĐ-TTg
ngày 16/04/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Về tỉnh Thái Bình và nơng nghiệp, nơng thơn của tỉnh có một số cơng trình
nghiên cứu:
Luận án Tiến sĩ Kinh tế mang tên “Xây dựng mơ hình phát triển cơng

nghiệp nơng thơn tỉnh Thái Bình”, tác giả Viên Thị An, Đại học Bách khoa Hà
Nội, năm 2011. Tác giả tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn về mơ hình phát
triển cơng nghiệp nơng thơn; từ đó vận dụng mơ hình này vào tỉnh Thái Bình cho
phù hợp với giai đoạn mới để thực hiện đơ thị hố nơng thơn, nhằm ổn định tình
4


hình kinh tế - chính trị - xã hội, góp phần đưa tỉnh ngày càng trở nên phồn thịnh,
phát triển hơn.
“Nơng nghiệp nơng thơn Thái Bình: Thực trạng và giải pháp”, Bùi Sĩ
Trùng (chủ biên), Nxb Thống kê, năm 2003. Nhóm tác giả đã nêu lên những đặc
điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội Thái Bình và thực trạng phát triển của
tỉnh trong những năm đổi mới, cùng một số giải pháp chủ yếu để phát triển nơng
nghiệp, nơng thơn Thái Bình.
Nhìn chung, các cuốn sách, giáo trình, tài liệu, cơng trình nghiên cứu trên
mới chỉ chú trọng phân tích, tìm hiểu một hay một vài khía cạnh của nội dung
“Tuyên truyền xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay”, chứ chưa đáp
ứng được những địi hỏi bức thiết từ lí luận và thực tiễn đang diễn ra của vấn đề.
Do đó, kế thừa có chọn lọc thành tựu của các nghiên cứu đi trước, cộng với q
trình dày cơng xem xét, làm rõ trên cơ sở cái nhìn tồn diện, trọn vẹn; khóa luận
sẽ từng bước bóc tách, đưa đến sự sáng tỏ, hiểu biết về hệ thống những tri thức,
cũng như ý nghĩa của vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc luận giải một cách sâu sắc những vấn đề lí luận của cơng
tác tun truyền xây dựng nơng thơn mới và thực trạng công tác tuyên truyền xây
dựng nông thơn mới ở tỉnh Thái Bình; khóa luận đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Căn cứ vào mục đích đặt ra, khóa luận tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, khóa luận nghiên cứu những vấn đề lí luận của cơng tác tun
truyền xây dựng nơng thơn mới.
Thứ hai, khóa luận hướng nghiên cứu vào làm rõ thực trạng và những vấn
đề đặt ra trong công tác tuyên truyền xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình.

5


Thứ ba, khóa luận đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
tuyên truyền xây dựng nông thơn mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của đề tài
4.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của khóa luận là đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên
truyền xây dựng nông thôn mới, đảng viên và người dân ở 4 xã điểm xây dựng
nơng thơn mới tỉnh Thái Bình.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
“Tuyên truyền xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay” là
đối tượng nghiên cứu của khóa luận.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài khóa luận tiến hành nghiên cứu công tác tuyên truyền xây dựng
nơng thơn mới ở tỉnh Thái Bình trong phạm vi:
+ Về không gian: 4 xã điểm xây dựng nông thôn mới của tỉnh Thái Bình
(An Ninh, Nguyên Xá, Thanh Tân, Thụy Trình).
+ Về thời gian: Từ tháng 3/2012 đến tháng 6/2012.
6. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lí luận
Khóa luận nghiên cứu trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước có liên quan
tới nội dung nghiên cứu của khóa luận.

6.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, khóa luận sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp thu thập, nghiên cứu, phân tích tài liệu.
+ Phương pháp phỏng vấn: Tác giả tiến hành 5 cuộc phỏng vấn sâu với đối
tượng cán bộ làm công tác tuyên truyền, cán bộ về hưu hiện đang tham gia sản
xuất nông nghiệp và nông dân tại 4 xã An Ninh, Nguyên Xá, Thanh Tân, Thụy
Trình về các vấn đề có liên quan, phục vụ cho nghiên cứu của khóa luận.
6


+ Phương pháp Anket: Tác giả tiến hành phát 160 bảng hỏi ở 4 xã trên cho
đối tượng: Cán bộ làm công tác tuyên truyền xây dựng nông thôn mới, đảng viên
và người dân.
+ Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu có chủ đích với đối tượng cán bộ làm
cơng tác tuyên truyền, chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản với đối tượng đảng viên và
người dân của 4 xã trên.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lí luận
Khóa luận làm rõ về vai trị của công tác tuyên truyền trong việc xây dựng
nông thôn mới ở tỉnh Thái Bình nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung.
Khóa luận có thể trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu về
sau liên quan tới công tác tuyên truyền xây dựng nông thôn mới ở những xã tiếp
theo của tỉnh Thái Bình.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Bước đầu khóa luận đã đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả công tác tuyên truyền xây dựng nơng thơn mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay.
8. Kết cấu đề tài
Khóa luận gồm 3 chương, 22 tiết, phần kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo.

Chương 1. Một số vấn đề lí luận về cơng tác tuyên truyền xây dựng nông
thôn mới.
Chương 2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong công tác tuyên truyền
xây dựng nơng thơn mới ở tỉnh Thái Bình.
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tun truyền xây
dựng nơng thơn mới ở tỉnh Thái Bình hiện nay.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ CƠNG TÁC TUYÊN TRUYỀN XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Tuyên truyền
1.1.1. Lịch sử và khái niệm tuyên truyền
Con người nhỏ bé hơn nhiều lồi, cũng khơng mạnh mẽ hơn so với các
giống mng thú. Tuy nhiên, họ vẫn là chủ nhân của hành tinh xanh này, bởi họ có
trí khơn và tư tưởng. Trong xã hội tiên tiến mà nhân loại xây dựng nên, hoạt động
phức tạp, khó khăn nhất chính là hoạt động có liên quan đến đời sống tinh thần của
con người; bởi nó diễn ra ngay trong bộ óc thơng minh đã đưa chúng ta có được vị
thế thống trị đối với vạn vật trên trái đất như ngày hôm nay. Và cơng tác tun
truyền chính là một hoạt động như thế. Lật lại lịch sử, thuật ngữ tuyên truyền xuất
hiện lần đầu cách đây khoảng hơn 400 năm với ý nghĩa là truyền giáo, được nhà
thờ La Mã sử dụng để thuyết phục, lôi kéo những người khác tin theo đạo Ki - tô.
Tuy nhiên, hoạt động này đã tồn tại từ rất xa xưa, khi chưa có phương tiện ghi lại
hoạt động ngôn ngữ, con người dựa vào trí nhớ của mình để lưu giữ, truyền thụ
những tri thức, kinh nghiệm trong cuộc đấu tranh chống chọi với thiên nhiên và lao
động sản xuất. Rồi hình thức đơn giản của chữ viết ra đời vào khoảng thiên niên kỉ
thứ 4 trước Công nguyên do người Sumeren ở vùng Lưỡng Hà sáng tạo nên, và hệ
thống chữ cái hình thành (khoảng thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên), từ đó

chữ viết trở thành phương tiện hỗ trợ đắc lực cho ngôn ngữ trong truyền thông xã
hội. Sau sự ra đời của khoa hùng biện (giữa thiên niên kỉ thứ nhất trước Công
nguyên), kĩ thuật in và sách (cuối thế kỉ 2 trước Cơng ngun), thì đến cuối thế kỉ
16 - đầu thế kỉ 17, một loại phương tiện tuyên truyền của xã hội hiện đại cũng xuất
hiện, đó là báo chí. Kể từ ấy, thời kì phát triển rực rỡ của các phương tiện truyền
thông đại chúng đã được mở ra, với sự có mặt của báo phát thanh khoảng thập niên
thứ 2 (thế kỉ 20), báo truyền hình và chiếc máy tính đầu tiên (cùng năm 1927 tại Mĩ).
Ở Việt Nam, theo dòng lịch sử dân tộc, cha ông ta cũng đã biết vận dụng rất
nhiều cách thức tuyên truyền để phục vụ cho công cuộc dựng nước và giữ nước.
8


Tiêu biểu như dùng phương tiện trực quan là lấy mỡ lợn viết trên lá cây: “Lê Lợi vi
quân, Nguyễn Trãi vi thần” để tập hợp nhân dân đi theo ngọn cờ khởi nghĩa do Lê
Lợi dựng nên, đánh đuổi sự xâm lược của quân Thanh. Hay vào năm 1076, trên
phịng tuyến sơng Như Nguyệt chống qn Tống, Lí Thường Kiệt cử người đọc bài
thơ thần “Nam quốc sơn hà” nhằm gây hoang mang cho địch, đồng thời cổ vũ tinh
thần binh sĩ bên ta. Đặc biệt ngày 1/8/1930, Ban Cổ động và Tuyên truyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho xuất bản tài liệu “Ngày Quốc tế đỏ 1/8” nhân dịp
kỷ niệm ngày đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ hịa bình... Từ đó, ngày
1/8 trở thành ngày truyền thống thiêng liêng của ngành Tuyên giáo, của những
người làm công tác tuyên truyền - những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, luôn đồng
hành cùng dân tộc trong hai cuộc kháng chiến thần thánh đánh đuổi đế quốc Mĩ,
thực dân Pháp và cả trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước ta.
Cũng như nhiều phạm trù thuộc lĩnh vực tư tưởng khác, xung quanh khái
niệm “tuyên truyền” luôn nảy sinh những ý kiến, tranh luận sôi nổi. Theo
R.A.Nelson, tuyên truyền được định nghĩa một cách trung tính như một dạng
truyền thơng có hệ  thống, có chủ ý nhằm tác động đến cảm xúc, thái độ, ý kiến và
hành động của một nhóm người xác định vì các mục đích tư tưởng, chính trị hay
thương mại thông qua việc truyền thông điệp một chiều, được kiểm sốt trên các

phương tiện truyền thơng [21]. Từ điển điện tử Lạc Việt đưa ra khái niệm đơn giản
tuyên truyền là: “Tác động vào ý nghĩ, dư luận để thuyết phục mọi người ủng hộ,
làm theo” [22]. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tác phẩm “Người tuyên truyền
và cách tuyên truyền”, Người chỉ ra: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho
dân hiểu, dân nhớ, dân tin, dân làm” [11, Tr.1]. Cịn theo Đại bách khoa tồn thư
Liên Xơ thì tun truyền có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng, là sự truyền bá
những quan điểm, tư tưởng về chính trị, triết học, khoa học, nghệ thuật… nhằm
biến những quan điểm, tư tưởng ấy thành ý thức xã hội, thành hành động cụ thể
của quần chúng [11, Tr.1]. Theo nghĩa hẹp, là sự truyền bá những quan điểm lí
luận nhằm xây dựng cho quần chúng thế giới quan nhất định phù hợp với lợi ích,

9


thế giới quan ấy; đây chính là tuyên truyền chính trị, tuyên truyền tư tưởng [11, Tr.
11].
Những khái niệm trên phần nào đã lột tả được một số khía cạnh của hoạt
động tuyên truyền, nhưng chúng vẫn chưa đủ với nhu cầu nghiên cứu của khoá
luận. Hơn nữa, tuyên truyền tại đất nước ta được biết đến là một công tác thuộc
hệ thống công tác Đảng, mà cụ thể ở đây là một trong ba hình thái cấu thành nên
cơng tác tư tưởng (cùng với cơng tác lí luận và cơng tác cổ động). Như thế, dưới
góc nhìn trên, dựa vào quá trình nghiên cứu và sự tổng hợp các quan điểm khác
nhau, có thể rút ra những đặc điểm chung về khái niệm công tác tuyên truyền:
Đây là một công tác bộ phận nằm trong công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản
Việt Nam; nhằm mục đích hình thành nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các giá trị nhân
văn tốt đẹp của dân tộc và nhân loại tới quảng đại quần chúng; từ đó xây dựng
thái độ tích cực trong quần chúng và cổ vũ họ hành động theo mục đích đặt ra của
nội dung những tư tưởng, đường lối, chính sách, giá trị ấy.
1.1.2. Hình thức và ngun tắc của cơng tác tun truyền
Có nhiều cách để phân loại các hình thức tuyên truyền, như theo tính chất

hệ tư tưởng mà nó truyền bá có tun truyền tư sản, tun truyền vơ sản; theo nội
dung tuyên truyền có tuyên truyền kinh tế, tuyên truyền chính trị, tun truyền lối
sống văn hố, tun truyền pháp luật… Nhưng cách phổ biến nhất là theo phương
thức tác động của công tác này, bao gồm: Tuyên truyền miệng (giới thiệu nghị
quyết, nói chuyện thời sự, nói chuyện chuyên đề…), tun truyền trực quan (pa nơ, áp - phích, tờ rơi, biểu ngữ, tranh cổ động…), tuyên truyền qua các phương tiện
thông tin đại chúng (sách, báo, phát tranh - truyền hình, Internet…) và tun truyền
thơng qua các hình thức văn hoá - văn nghệ (tiểu phẩm, múa, hát chèo…).
Về nguyên tắc của công tác này, đầu tiên phải kể tới nguyên tắc tính tư
tưởng (tính Đảng) và tính chiến đấu. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Tư tưởng khơng đúng đắn thì cơng tác ắt sai lầm”, khi tiến hành công tác nhất
thiết phải đúng với định hướng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
10


luật của Nhà nước. Tuyên truyền như bàn cân tư tưởng khẳng định và bảo vệ cái
đúng, uốn nắn những quan điểm lệch lạc, đấu tranh chống các luận điểm phản
tuyên truyền, các biểu hiện tiêu cực. Để có thể giành giật được trái tim, khối óc của
quần chúng, cơng tác tun truyền cần hết sức tơn trọng tính khoa học và tính chân
thật. Trước hết, đó là sự tn thủ các quy luật khách quan khi xem xét một sự vật,
hiện tượng. Ngồi ra tun truyền vơ sản khác với lối tuyên truyền tư sản “nhồi sọ”,
“xuyên tạc”, “giả dối”. Nếu như trùm phát xít Hitler cho rằng: “Bằng vũ khí tun
truyền khơn ngoan và dai dẳng người ta có thể khiến cho quần chúng tin rằng thiên
đường là địa ngục, địa ngục là thiên đường”; thì lãnh tụ của những người cộng sản
Lênin lại chỉ ra: “Nói láo, khoe khoang, giả dối là diệt vong về mặt tinh thần, nhất
định đưa đến diệt vong về mặt chính trị”, và khẳng định: “Thật buồn cười nếu nghĩ
rằng nhân dân đi theo những người Bơnsêvích vì những người Bơnsêvích cổ động
khéo hơn. Không! Vấn đề là ở chỗ, sự cổ động của những người Bơnsêvích là chân
thật”. Ở đây địi hỏi công tác tuyên truyền sự dũng cảm khi công nhận cả những ưu
điểm và thừa nhận cả những khuyết điểm trong hoạt động thực tiễn, đây chính là
điểm khác biệt làm nên kiểu tuyên truyền xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc thứ ba, là

tính thống nhất giữa lí luận với thực tiễn, giữa mục tiêu trước mắt với mục đích lâu
dài. Theo Mác: “Lí thuyết đi sâu vào đại chúng sẽ có tác dụng vật chất”, hoạt
động tuyên truyền được tiến hành trên nền lí luận, nhưng hiệu quả của nó lại được
đánh giá thơng qua thực tế; cho nên lúc nào cũng cần cân nhắc, so sánh giữa mục
tiêu trước mắt và mục đích lâu dài để cơng tác được thực hiện trôi chảy. Nguyên
tắc thứ tư – tính nhân dân và tính dân tộc; nếu tuyên truyền tư sản tập trung vào
kích thích bản năng, đề cao lợi ích vật chất, lối sống thực dụng, thì tun truyền của
ta “mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao
của quần chúng” (Hồ Chí Minh), là tuyên truyền của dân, do dân và vì dân. Cũng
theo Người: “Chúng ta muốn tuyên truyền quần chúng, phải học cách nói của
quần chúng, mới nói lọt tai quần chúng”, chẳng có gì dễ dàng và hiệu quả hơn khi
sử dụng ngôn ngữ, phương cách, kinh nghiệm, truyền thống tuyên truyền của một
dân tộc để thu phục lịng tin của chính dân tộc đó. Tính nghệ thuật, đây là ngun
11


tắc đã đưa cơng tác tun truyền khơng cịn chỉ là một cơng tác chính trị khơ cứng
nữa, mà đã được khẳng định là một môn nghệ thuật - nghệ thuật thu phục con
người.
1.1.3. Chức năng và nhiệm vụ của cơng tác tun truyền
Xét tới chức năng, thì thơng tin là chức năng đầu tiên của công tác tuyên
truyền. Tuyên truyền xuất hiện, tồn tại duy nhất trong xã hội lồi người. Bởi chỉ có
con người mới có nhu cầu và khả năng trao đổi, truyền thụ cho nhau tư tưởng, văn
hoá. Đây là hoạt động xã hội đặc biệt, có chủ thể kép, chủ thể truyền bá và chủ thể
tiếp nhận thơng tin. Do đó, chức năng thơng tin trong tuyên truyền là một quá trình
hai chiều. Giáo dục tư tưởng là chức năng thứ hai của công tác tuyên truyền; nó giúp
truyền bá, giáo dục hệ tư tưởng; đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước cho mọi người hiểu sâu sắc, quyết tâm thực hiện thắng lợi những yêu cầu từ
nội dung tuyên truyền ấy. Tiếp đến chức năng thứ ba là tổ chức, cổ vũ hành động.
Nếu hai chức năng trên mang tính chất lí luận rõ nét, thì chức năng này lại chú trọng

việc đưa tư tưởng trở thành sức mạnh vật chất thông qua hoạt động cách mạng của
quần chúng. Như Lênin đã nói: “Cần phải đi vào quảng đại quần chúng nhân dân
với tư cách là nhà lí luận, người tuyên truyền, người cổ động và nhà tổ chức”, chức
năng này không chỉ yêu cầu công tác tuyên truyền phải định hướng, chỉ dẫn cho
quần chúng các bước cần làm, mà cịn phải biết động viên, thúc đẩy họ hồ mình
vào phong trào cách mạng một cách chủ động, tích cực hơn nữa. Chức năng thứ tư là
phê phán. Phê phán ở đây nhằm vào những học thuyết, tư tưởng tiêu cực, thù địch
với hệ tư tưởng chính thống trong xã hội, không ngừng đẩy lùi những tàn dư lỗi thời,
lạc hậu còn rơi rớt lại của xã hội cũ, quyết liệt đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn,
“diễn biến hồ bình” mà kẻ thù đang ráo riết, điên cuồng chống phá đất nước ta.
Chống để xây, phê phán những gì sai trái để củng cố hơn nữa tinh thần, ý thức cách
mạng trong quần chúng, bởi “mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lịng.
Ta phải làm cho cái tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, và phần
xấu bị mất dần đi. Đó là thái độ của người cách mạng” (Hồ Chí Minh).

12


Công tác tuyên truyền ở đất nước ta trong giai đoạn hiện nay có những
nhiệm vụ chung sau đây. Đó là, tích cực truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh cùng những tinh hoa văn hố dân tộc và nhân loại, nhằm
hình thành nhân sinh quan, thế giới quan Mác - Lênin trong toàn xã hội. Giải thích
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của cả
nước và từng địa phương, từ đó nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin cho quần
chúng thực hiện các đường lối, chính sách, nhiệm vụ ấy. Tuyên truyền, các kiến
thức về khoa học - kĩ thuật trên các lĩnh vực của cuộc sống cho tất cả nhân dân.
Giáo dục truyền thống, phẩm chất đạo đức cách mạng, xây dựng đời sống văn hoá
mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Phát hiện, cổ vũ những nhân tố, điển hình
tiên tiến; đồng thời đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực xã hội, các quan
điểm, tư tưởng sai trái với chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng.

Hiện nay, đất nước ta đang trong giai đoạn chuyển mình, phát triển mạnh
mẽ. Lá cờ tiên phong trong lĩnh vực tư tưởng mà lịch sử trao cho công tác tuyên
truyền chưa bao giờ lại nặng nề, quan trọng như thế. Do đó, để đáp ứng được trọng
trách ấy; cơng tác này phải đổi mới, vươn lên mạnh mẽ hơn nữa, để xứng đáng với
sự tin yêu, giao phó của Đảng, Nhà nước và tồn thể nhân dân.
1.2. Nơng thơn và nông thôn mới
1.2.1. Nông thôn
1.2.1.1. Khái niệm và các loại hình nơng thơn
Nhắc đến nơng thơn Việt Nam, là nhắc tới một hình ảnh đã đi vào thơ ca,
huyền thoại, gợi lên nét thuần Việt rất đặc trưng. Chẳng biết nơng thơn xuất hiện
chính xác từ bao giờ, chỉ biết trải qua bao thăng trầm lịch sử cho tới ngày nay, nơi
này vẫn là một bộ phận quan trọng cấu thành nên dải đất hình chữ S của chúng ta.
Trong công cuộc Đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo những năm qua, lúc
nào nông thôn cũng được chọn là địa bàn trọng điểm, nông nghiệp làm khâu đột phá.
Do đó, nghiên cứu về nơng thơn là vơ cùng ý nghĩa, đem lại nhiều lợi ích thiết thực.
Hiện nay vẫn chưa có định nghĩa chuẩn xác nào về nơng thơn. Cần phải nói
rằng, nơng thơn khơng phải là một phạm trù vĩnh cửu. Nó chỉ xuất hiện khi xã hội
13


chia thành hai địa bàn cư trú của dân cư, bởi một nguyên nhân như Mác và Ănghen
đã vạch rõ: “Sự phân công lớn nhất của lao động vật chất và tinh thần là sự tách
rời thành thị và nông thôn. Sự đối lập giữa thành thị và nông thôn xuất hiện với
bước quá độ từ thời đại dã man lên thời đại văn minh”. Cho nên, muốn tìm hiểu
sâu sắc xem thực sự nơng thơn là gì, trước hết ta cần đặt nó trong mối tương quan
với vùng lãnh thổ song song mang tên đô thị. Sorokin - một trong những nhà xã hội
học nông thôn đầu tiên tại Mĩ, cùng các cộng sự của mình, đã nghiên cứu và đưa ra
hệ thống 12 tiêu chí để phân biệt hai khu vực này, trong đó người ta thường coi số
lượng dân cư là tiêu chí hàng đầu để phân biệt. Ở Việt Nam, theo Quyết định số
132-HĐBT ngày 5/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định

nước ta có năm loại đơ thị. Mà đơ thị thấp nhất là đơ thị loại 5, có số dân từ 4000
đến 30.000 người, mật độ dân cư từ 6000 người/km2 trở lên, tỉ lệ lao động phi nông
nghiệp từ 60% trở lên. Như vậy, có thể coi nơng thơn Việt Nam bao gồm những
địa bàn dân cư không đủ các tiêu chuẩn tối thiểu của đô thị loại 5. Việc phân biệt
giữa nơng thơn và đơ thị chỉ có tính chất tương đối, thay đổi theo thời gian và theo
tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia trên thế giới. Trên thực tế,
giữa nông thôn và đơ thị ln có những vùng “mờ” pha tạp, đó là vùng đơ thị hóa
và vùng ven đơ.
Các nghiên cứu từ trước đến nay đã cho thấy một điều rằng, sự nhìn nhận về
nơng thơn ln đi theo hướng xác định bám vào một hay một số nội dung của nơng
thơn, chứ ít khi đưa ra một định nghĩa chung cho khu vực này. Điển hình theo Giáo
trình Phát triển nông thôn, Đại học Nông nghiệp Hà Nội, năm 2005: “Nông thôn là
vùng sinh sống của tập hợp dân cư, trong đó có nhiều nơng dân. Tập hợp dân cư
này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội và mơi trường trong một
thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác” [5, Tr.10]. Với
Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, khái niệm này lại được tiếp cận trên
phương diện yếu tố nghề nghiệp: “Nông thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những
vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, ở đó, người dân sinh sống chủ yếu bằng nơng
nghiệp” [21]. Nghiên cứu dưới góc độ nguồn gốc phát sinh, Sổ tay Công tác của
14


nhà Xã hội học, do G.V.Osipov chủ biên, xuất bản năm 1976 tại Liên Xô đã chỉ ra:
“Nông thôn - đó là một loại hình cộng đồng xã hội - lãnh thổ được hình
thành một cách nhất định về lịch sử trong q trình phân cơng lao động xã
hội, mà đặc điểm của nó là có số lượng dân cư ít ỏi, mật độ dân cư tương
đối thấp, là vai trị đáng kể của lao động nơng nghiệp” [15, Tr.21]. Ngồi
ra, trong Thơng tư số 54/2009/TT-NNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về Hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc gia
về nơng thơn mới có quy định: “Nông thôn là lãnh thổ không thuộc nội thành,

nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy
ban nhân dân xã” [3]. Tựu chung lại, nông thôn được nhận dạng khi có những dấu
hiệu chung là: Một cộng đồng xã hội - lãnh thổ được hình thành trong q trình
phân cơng lao động xã hội, ở đó người nông dân chiếm đa số và họ sinh sống chủ
yếu bằng nông nghiệp; phân biệt với đô thị qua số lượng dân cư ít, mật độ dân cư
thấp, cơ sở hạ tầng kém phát triển, tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa cịn hạn
chế, nhưng có mơi trường gần gũi với thiên nhiên, tính gắn kết cộng đồng cao hơn.
Có nhiều cách để phân chia các loại hình nơng thơn. Với Thuyết làn sóng
văn minh, lịch sử lồi người đã trải qua: Văn minh hái lượm, văn minh nơng
nghiệp, văn minh cơng nghiệp, (theo A.Toffler cịn thêm cả văn minh hậu công
nghiệp); nông thôn là hiện thân của văn minh nông nghiệp. Căn cứ vào lịch đại,
nông thôn được chia thành: Nông thôn cổ đại, nông thôn thời trung cổ, nông thôn
cận đại và nông thôn hiện đại. Xét trên bình diện tính chất truyền tải giữa các thế hệ
thì có nơng thơn truyền thống, nơng thơn hiện đại. Cịn theo quan điểm Macxit,
nơng thơn mang đặc trưng của các thời đại xã hội, nên tuân thủ các hình thái kinh
tế xã hội; tương ứng với đó là nông thôn nguyên thủy, nông thôn thời đại chiếm
hữu nô lệ, nông thôn chế độ phong kiến, nông thôn dưới chế độ tư bản và nông
thôn trong xã hội tương lai của lồi người – nơng thơn chế độ xã hội chủ nghĩa.
1.2.1.2. Đặc trưng và vai trị của nơng thôn
Về đặc trưng của nông thôn, cái dễ nhận thấy nhất đó là tính cộng đồng và
tính tự trị. Như viên Tồn quyền Đơng Dương Pháp Pasquier từng nhận xét: “…một
15


tổ chức phức tạp như thế, dễ bảo như thế, một tổ chức mà trong đó khơng bao giờ
thấy có một viên kì mục nào hành động đơn độc cả, một tổ chức đã tồn tại theo
truyền thống từ rất xa xưa, tổ chức đó chúng ta khơng nên đụng chạm tới, kẻo làm
dân chúng bất bình, xứ sở rối loạn”. Và trên thực tế, từ những yếu tố này đã nuôi
dưỡng nên tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia dân tộc của người dân nơng thơn,
góp phần đánh bại thực dân Pháp xâm lược và nhiều kẻ thù mạnh khác. Biểu hiện

của hai đặc tính này rất rõ ràng, đó là tinh thần đồn kết tương trợ lẫn nhau, tính tập
thể cao, phát huy được dân chủ địa phương,... nhưng lại thủ tiêu vai trị cá nhân,
tạo ra thói dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể, tư tưởng bè phái, cục bộ, gia trưởng…Ngoài
ra, nơng thơn nước ta xưa và nay cịn nổi lên một số đặc trưng cơ bản, điển hình
như: So với đô thị, cộng đồng dân cư nông thôn thường mang tính thuần nhất hơn,
hướng dịch chuyển xã hội cũng khác hơn. Đây là nơi định cư của những người sống
chủ yếu bằng nghề nơng; trình độ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội kém, dân
trí thấp, điều kiện sống thiếu thốn hơn đơ thị. Văn hóa của cộng đồng dân cư mang
đậm nét dân gian, truyền thống; đây là cái nôi nuôi dưỡng và lưu giữ nhiều giá trị về
vật chất và tinh thần của dân tộc. Người dân nơng thơn có một lối sống đặc thù của
mình - lối sống của các cộng đồng xã hội được hình thành chủ yếu dựa trên cơ sở
hoạt động sản xuất nông nghiệp; quan hệ ứng xử giữa của các thành viên trong cộng
đồng nặng về tình cảm, tục lệ hơn là pháp lý được quy định bởi nhà nước. Ngồi ra,
địa bàn này cịn có sự đa dạng về điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái.
Theo điều tra mới nhất mà Tổng cục thống kê vừa cơng bố, dân số nước ta
năm 2011 ước tính xấp xỉ 87,84 triệu người, trong đó khu vực nơng thơn chiếm
khoảng 60,96 triệu người, tương đương 69,40% số dân cả nước. Với lực lượng dân
cư đông đảo như thế, nông thơn ln giữ một vai trị quan trọng trong sự phát triển
đất nước. Đầu tiên, nông thôn là địa bàn sản xuất và cung cấp lương thực, thực
phẩm cho tiêu dùng của toàn xã hội. Thêm vào nữa, đây cũng chính là nơi tập trung
nguồn nguyên liệu dồi dào, chủ yếu đối với các ngành công nghiệp và sản xuất
hàng hóa xuất khẩu. Song song với đó, nơng thơn đóng vai trò như một thị trường
quan trọng để tiêu thụ sản phẩm được tạo thành từ khu vực đô thị, và đặc biệt là từ
16


các ngành công nghiệp. Nguồn nhân lực vô cùng lớn cho đô thị phần lớn xuất phát
ở nông thôn. Chiếm đại đa số nguồn tài nguyên, đất đai, khoáng sản, động thực vật
của Tổ quốc, nên sự phát triển bền vững tại đây có ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo
vệ môi trường sinh thái quốc gia. Cuối cùng, khu vực này thường có các dân tộc

khác nhau sinh sống, bao gồm nhiều tầng lớp, nhiều thành phần đa dạng, phong phú;
mỗi sự biến động dù tích cực hay tiêu cực ở nông thôn đều mang tác động mạnh mẽ
đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phịng của cả nước.
Nói chung, nơng thơn là một phần không thể thiếu, không thể tách rời với
mỗi quốc gia. Khu vực này vẫn đã, đang và sẽ là một chủ đề thu hút được suy nghĩ
của những ngịi bút tâm huyết và có trách nhiệm. Sự phát triển biền vững của Việt
Nam phụ thuộc chủ yếu vào bước đi chuẩn xác, mạng dạn và sáng tạo của nông
nghiệp - nông thôn trong giai đoạn hiện tại, cũng như tương lai.
1.2.2. Nơng thơn mới
1.2.2.1. Q trình hình thành chủ trương xây dựng nông thôn mới và khái
niệm nông thơn mới
Đã có cả một q trình trăn trở, bỏ công bỏ sức nghiên cứu, áp dụng vào
thực tế trong nhiều năm, để Đảng, Nhà nước ta, dưới sự vào cuộc hăng hái của tồn
thể nhân dân, mới có thể rút ra sự hiểu biết, quan niệm tương đối đầy đủ, rõ ràng về
hai cụm từ “nông thôn mới” và “xây dựng nông thôn mới” như ngày hôm nay. Vậy
chủ trương xây dựng nơng thơn mới là gì? Xuất phát từ đâu, được hình thành như
thế nào? Câu trả lời trước hết phải đi từ cái nhìn vĩ mơ. Với những nước có xuất phát
điểm thấp, bất kỳ một sự biến động nào từ bên ngoài cũng làm cho nền kinh tế
chao đảo, thế nhưng Việt Nam đã may mắn không bị ảnh hưởng nhiều do 3 đợt
khủng hoảng kinh tế thế giới và khu vực những năm gần đây. Tất cả là nhờ dựa
vào nông nghiệp. Nguồn lực của nước ta rất hạn chế, nên chỉ có thể chọn một đến
hai vấn đề ưu tiên để làm “đòn bẩy” phát triển nền kinh tế. Và nơng nghiệp, nơng
thơn chính là một trong những hướng đi vững chắc cho sự đi lên của đất nước. Một
nguyên nhân sâu xa nữa xuất phát từ những giá trị tốt đẹp, cần khôi phục mà nơng
thơn Việt Nam ln mang trong mình. Nguồn tài sản vơ giá đó khơng phải một
17


sớm một chiều mà xây đắp nên được, thế nhưng hiện nay hình như chúng đang bị
mai một, biến đổi một cách chóng mặt. Do đó, khơi phục, làm giàu thêm hồn vía

của làng q Việt Nam, gìn giữ nét đặt trưng của nông thôn Việt Nam đang là nhiệm
vụ cực kì quan trọng với cuộc cách mạng làm mới nông thôn hiện nay ở nước ta.
Sau một thời gian dài rút kinh nghiệm, Đảng và Nhà nước ta nhận thấy rõ
không thể đưa nông thôn tiến lên bằng những dự án, chương trình rời rạc, đơn lẻ
được; nên ngay từ năm 2001, ý tưởng về mơ hình nơng thơn mới đã được manh
nha hình thành và đưa vào thử nghiệm, nhưng kết quả cịn hạn chế. Mốc quan
trọng, có ý nghĩa đánh dấu tiền đề cho việc ra đời Chương trình Mục tiêu quốc gia
xây dựng nơng thơn mới chính là ở Nghị quyết 26-NQ/TW, ngày 05/08/2008 của
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Văn kiện được coi như là một bảo bối soi sáng cho con đường phát
triển của nơng thơn Việt Nam phía trước. Để cụ thể hố đường lối đó, ngày
16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ra Quyết định số 491/QĐ-TTg ban
hành Bộ tiêu chí quốc gia về nơng thơn mới (gồm 19 tiêu chí). Quyết định này
khơng chỉ là cơ sở để chỉ đạo thí điểm xây dựng mơ hình nơng thơn mới, mà cịn
có ý nghĩa bước ngoặt đánh dấu sự bắt đầu của một chương trình tổng thể nhằm
thay đổi tồn diện bộ mặt nơng thơn theo hướng tích cực. Gần đây là Quyết định
800/QĐ-TTg cũng của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/6/2010 phê duyệt Chương
trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, với 11
nội dung được vạch ra chi tiết, kĩ lưỡng sẽ phấn đấu thực hiện trong giai đoạn sắp
tới; như vậy các địa phương đã chính thức có hành lang pháp lí đầy đủ để tiến hành
xây dựng nơng thơn mới. Ngồi ra, vì đây là một chương trình có tính bao quát
rộng lớn trên tất cả mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh của đời sống xã hội, nên có nhiều
chính sách mới cũng đã được ban hành kèm theo. Đó là: Quyết định 3447/QĐ-BYT
ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011 - 2020; Quyết định 315/QĐBGTVT ban hành Hướng dẫn lựa chọn quy mô kĩ thuật đường giao thông nông thôn
phục vụ Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nơng thơn mới giai đoạn 2010 2020; Quyết định 6286/QĐ-BCT ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện tiêu chí số
18


4 (điện nơng thơn) và tiêu chí số 7 (chợ nơng thơn) thuộc Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2020; Quyết định 22-QĐ/TTg

về Phát triển văn hóa nơng thơn đến năm 2015, định hướng đến năm 2020… Ở đây
người nghiên cứu, người quan tâm tới vấn đề nông thôn vô cùng ấn tượng với các
văn bản mang tính hệ thống, liên hồn và có tính logic rõ ràng; điều này khẳng
định Đảng và Chính phủ đã có cái nhìn rất đúng đắn, chuẩn xác về định hướng phát
triển nông thôn.
Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa: “Nơng thơn mới trước tiên phải là nông
thôn, không phải là thị tứ, thị trấn, thị xã, thành phố. Mơ hình này bao gồm tổng
thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nơng thơn theo tiêu chí
mới, đáp ứng u cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu
nông thôn được xây dựng khác so với với mơ hình nơng thơn cũ (truyền thống đã
có) ở tính tiên tiến về mọi mặt” [16, Tr. 5].
1.2.2.2. Các tiêu chí và mục tiêu xây dựng nơng thơn mới
Theo Quyết định 491/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì q trình xây
dựng nơng thơn mới sẽ dựa vào 19 tiêu chí, chia thành 5 nhóm.
Thứ nhất, nhóm Quy hoạch (tiêu chí 1), tập trung vào nội dung quy hoạch và
thực hiện quy hoạch sử dụng đất, hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch các khu dân cư.
Thứ hai, nhóm Hạ tầng kinh tế kĩ thuật (từ tiêu chí 2 đến tiêu chí 9), gồm các
vấn đề về giao thông, thuỷ lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hoá, chợ, bưu
điện và nhà ở dân cư.
Thứ ba, nhóm Kinh tế và Tổ chức sản xuất (từ tiêu chí 10 đến tiêu chí 13), là
thu nhập, hộ nghèo, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất.
Thứ tư, nhóm Văn hố xã hội - Mơi trường (từ tiêu chí 14 đến tiêu chí 17),
có tiêu chí giáo dục, y tế, văn hố, mơi trường.
Thứ năm, nhóm Hệ thống chính trị, gồm tiêu chí 18: Hệ thống tổ chức chính
trị xã hội vững mạnh và tiêu chí 19: An ninh, trật tự xã hội.

19


Trong từng tiêu chí có các chỉ tiêu cụ thể cho từng vùng, miền, từng ngành,

lĩnh vực. Cùng thời gian này, 11 xã phân bố trên địa bàn cả nước đã được chọn làm
thí điểm cho xây dựng mơ hình xã nơng thơn mới.
Để thực hiện tốt Chương trình, Ban Chỉ đạo Trung ương và Văn phòng điều
phối của Chương trình cũng đã được thành lập; và thơng qua mợt sớ mục tiêu,
nhiệm vụ chủ ́u, quan trọng cần hồn thành khi triển khai Chương trình. Cụ thể
là khơng ngừng đẩy mạnh cuộc vận động tồn dân xây dựng nơng thôn mới để
phấn đấu đến năm 2030 cả nước cơ bản hồn thành việc xây dựng nơng thơn mới.
Trong năm 2012, trên 90% số xã có đề án nơng thơn mới được phê duyệt. Khoảng
50% số cán bộ xã (thôn, bản, ấp) được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức xây dựng nông
thôn mới, đến năm 2020 con số này đạt 100%. Trước mắt, phấn đấu trong cả nước
sẽ có hơn 20% (trong tổng số gần 10 nghìn xã) đạt chuẩn nông thôn mới vào năm
2015; thu nhập dân cư nông thôn tăng gấp hơn 1,5 lần; giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống
dưới 8%; năm 2020, số xã (tương đương 5 nghìn xã) đạt tiêu chuẩn nơng thơn mới là
50%; thu nhập dân cư tăng gấp 2 lần và tỉ lệ hộ nghèo giảm xuống dưới 30%...
1.2.2.3. Đặc trưng, giải pháp xây dựng nơng thơn mới
Sau khi Chương trình này thành công, nông thôn mới sẽ mang sáu đặc trưng
cơ bản. Trước tiên, đó sẽ là một nơng thơn có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng
hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ. Tiếp đến, kinh tế phát triển, đời sống vật
chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao. Thứ ba, các lĩnh vực sản xuất
ln bền vững, theo hướng hàng hố. Thứ tư, dân trí được nâng cao, bản sắc văn hố
dân tộc được giữ gìn và phát triển. Thứ năm, xã hội nơng thơn được quản lí tốt và
dân chủ. Cuối cùng, hệ thống chính trị được nâng cao, đi vào hoạt động hiệu quả.
Muốn hồn thành trọn vẹn những tiêu chí, mục tiêu ở trên, cần thực hiện
một số giải pháp sau. Đầu tiên là khơng ngừng bổ sung, hồn thiện các văn bản,
hình thành thể chế, chính sách “thơng minh” phục vụ cho Chương trình; tổ chức
tập huấn cơng tác triển khai chương trình; có kế hoạch xây dựng khoa học, sát thực
tế với từng địa phương, từng lĩnh vực. Đồng thời ln chú ý khơi dậy tinh thần
đồn kết, ý chí, nỗ lực thay đổi cuộc sống của mình từ chính người dân. Phát huy
20




×