DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt đầy đủ
Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
Cơ cấu kinh tế
Hợp tác xã
Chữ viết tắt
CNH, HĐH
CCKT
HTX
Khoa học - công nghệ
KH - CN
Kinh tế nông nghiệp
Kinh tế - xã hội
Nông thôn mới
KTNN
KT - XH
NTM
Phát triển nông nghiệp
Quốc phòng an ninh
PTNN
QPAN
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH
BẮC GIANG
11
1.1. Một số vấn đề chung về phát triển nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới
1.2. Quan niệm, nội dung và vai trò của phát triển nông
11
nghiệp trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang
20
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH BẮC
GIANG THỜI GIAN QUA
28
2.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội tác động
tới phát triển nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới ở
tỉnh Bắc Giang
2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
28
từ thực trạng về phát triển nông nghiệp trong xây dựng
nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang
33
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN
MỚI Ở TỈNH BẮC GIANG THỜI GIAN TỚI
58
3.1. Quan điểm cơ bản phát triển nông nghiệp trong xây dựng
nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang thời gian tới
3.2. Giải pháp chủ yếu phát triển nông nghiệp trong xây dựng
nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
58
64
88
90
95
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và nâng cao đời sống
vật chất tinh thần cho nông dân là vấn đề được Đảng ta luôn quan tâm. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nhấn mạnh: “Chúng ta chủ trương đẩy mạnh
hơn nữa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, giải quyết đồng bộ các vấn
đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân”. Những năm qua, PTNN và xây
dựng nông thôn ở Bắc Giang đã có nhiều thay đổi đáng kể, góp phần vào sự
phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển giải quyết
vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở Bắc Giang còn nhiều hạn chế, đó
là: CCKT có sự chuyển dịch tích cực nhưng còn chậm, phát triển thiếu quy
hoạch, sản xuất nông nghiệp còn manh mún, hiệu quả thấp; các ngành nghề
trong nông thôn chưa phát triển, công nghiệp, dịch vụ, nhất là các ngành hỗ
trợ cho sản xuất nông nghiệp còn nhỏ bé; hình thức tổ chức sản xuất trong
nông nghiệp chủ yếu là các tổ hợp tác, HTX; hộ gia đình nhưng hoạt động
hiệu quả chưa cao; vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho người lao động còn
gặp khó khăn; tình trạng ô nhiễm môi trường ở nông thôn đáng báo động.
Để PTNN của tỉnh Bắc Giang trong điều kiện là một tỉnh trung du
Miền núi với xây dựng NTM, trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn, vấn đề cần thiết phải tiến hành nghiên cứu, đánh giá hiện trạng, phân
tích dự báo xu hướng phát triển, trên cơ sở các định hướng chung của Đảng
và Nhà nước, các tiêu chí, nội dung của chương trình xây dựng NTM. Với
những yêu cầu đặt ra cả về thực tiễn và lý luận, việc nghiên cứu tìm hiểu vấn
đề “Phát triển nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc
Giang” là rất cần thiết. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài này làm đề tài luận
văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị của mình.
Luận văn dựa vào cơ sở lý luận về KTNN để đi sâu vào phân tích, đánh
giá thực trạng PTNN của tỉnh Bắc Giang trong xây dựng NTM: những mặt
3
đạt được, kết quả, hạn chế và các nguyên nhân của hạn chế đó. Trên cơ sở kết
hợp lý luận và thực tiễn, các chủ trương của Đảng, Nhà nước, đồng thời tham
khảo kinh nghiệm của một số địa phương trong nước, đưa ra các quan điểm
và đề ra các giải pháp chủ yếu PTNN trong xây dựng NTM ở tỉnh Bắc Giang.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và xây dựng NTM ở nước ta là vấn đề
lớn và quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Có nhiều nhà khoa học, nhiều
công trình, đề tài, hội thảo, bài viết đăng tải trên các sách báo, tạp chí đề cập,
lý giải tiêu biểu là:
* Các sách tham khảo, chuyên khảo có liên quan đến đề tài
Nguyễn Sinh Cúc (1983), Nông nghiệp Việt Nam 1945 - 1995, Nhà
xuất bản Thống kê, Hà Nội. Trong cuốn sách tác giả đã tập trung nghiên cứu
và chỉ ra những thuận lợi, khó khăn thực hiện đường lối đổi mới, nhất là lĩnh
vực nông nghiệp đã phân tích làm sâu sắc thực trạng, thông tin toàn diện và
tổng hợp về nông nghiệp Việt Nam từ điều kiện sản xuất, quan hệ sản xuất,
lực lượng sản xuất, kết quả, hiệu quả kinh tế từng vùng, từng địa phương và
cả nước; từ đó đề ra chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà Nước ta về
PTNN, nông thôn theo hướng hiện đại hóa.
Nguyễn Văn Bích, Chu Tiến Quang (1994), Đổi mới quản lý nông
nghiệp: Thành tựu, vấn đề và triển vọng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Trong cuốn sách tác giả chỉ rõ thực hiện đường lối đổi mới kinh tế nước
ta đã đạt được những thành tựu quan trọng; nông nghiệp đã khẳng định vai trò
của mình trong phát triển KT - XH, nông nghiệp là một ngành có đầy tiềm
năng, lợi thế đã và đang tạo ra tiền đề đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nhóm
tác giả đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng và triển vọng PTNN; từ đó đề ra
những nội dung tiếp tục đổi mới về quản lý nông nghiệp và phát triển kinh tế
nông thôn trong thời gian tới.
Phạm Xuân Nam (1997), Phát triển nông thôn. Nhà xuất bản Khoa học
4
xã hội, Hà Nội. Cuốn sách này tác giả trình bày những nội dung phát triển
KT-XH ở nông thôn bao gồm các yếu tố như dân số, lao động, việc làm,
chuyển dịch CCKT, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên; phân
tích những thành tựu, yếu kém trực tiếp tác động đến đời sống cư dân nông
thôn; để giải quyết tác giả đã đưa ra những chủ trương, biện pháp, các công cụ
chủ yếu cho nông thôn phát triển đúng hướng.
Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền (1998), Nông nghiệp Việt Nam bước vào
thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách nhóm
tác giả đã đánh giá vai trò của nông nghiệp nước ta cuối thế kỷ XX đạt được
thành tựu và hạn chế, phân tích sâu sắc nông nghiệp nước ta có nhiều tiềm
năng lợi thế, có nguồn nhân lực dồi dào chưa khai thác hiệu quả. Từ đó, rút ra
nguyên nhân, bài học kinh nghiệm cho nền sản xuất nông nghiệp; chỉ ra
những thách thức và tiềm năng tạo đà cho nông nghiệp nước ta bước vào thế
kỷ XXI một cách thuận lợi theo hướng bền vững.
Vũ Văn Nâm (2009), Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam,
Nhà xuất bản Thời Đại. Trong cuốn sách này tác giả đã chỉ rõ một số cơ sở lý
luận và thực tiễn về phát triển bền vững nông nghiệp; kinh nghiệm PTNN bền
vững của một số quốc gia trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam. Từ đó,
phân tích sâu sắc vai trò quan trọng của phát triển bền vững nông nghiệp là
phải bảo đảm sự phát triển cân đối giữa các ngành nông nghiệp, nông thôn,
giữa khai thác, sử dụng hợp lý và bền vững các nguồn tài nguyên đất nước; đề
ra phương hướng, giải pháp xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam phát triển
toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất,
chất lượng hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao; bảo đảm vững chắc an ninh
lượng thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
Lê Đình Thắng (2000), Chính sách phát triển nông nghiệp và nông
thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Tác giả đã phân tích thành tựu nông nghiệp sau đổi mới, đặc biệt là chỉ
5
ra vai trò lãnh đạo của Đảng đã đi đúng hướng, khắc phục những hạn chế của
cơ chế cũ, qua đó xác định rõ vị trí, tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp
và phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta trong thời kỳ CNH, HĐH. Từ đó
đưa ra các phương hướng, giải pháp để tiếp tục đổi mới PTNN, nông thôn ở
nước ta trong thời gian tới.
Chu Tiến Quang (2001), Việc làm ở nông thôn, thực trạng và giải pháp,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách tác giả đã làm rõ
vấn đề việc làm ở nông thôn Việt Nam hiện nay đã có thất nghiệp; đây là vấn
đề đặt ra khi hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam; vấn đề thất nghiệp là một
trong những vấn đề toàn cầu; từ đó đánh giá đúng thực trạng lao động, việc làm
ở nông thôn; đề ra những giải pháp, chính sách, tạo công ăn việc làm cho cư
dân nông thôn.
Nguyễn Đình Phan (2002), Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã trình bày những vấn đề
lý luận cơ bản, vai trò của CNH, HĐH tác động đến nông nghiệp, nông thôn;
sự cần thiết phải chuyển dịch CCKT nông nghiệp cho phù hợp với điều kiện
sản xuất; phân tích tình hình tăng trưởng của KTNN, sự phát triển các ngành
tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ sản xuất nông nghiệp, quá trình ứng dụng các
thành tựu khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp; tác động của quá
trình đô thị hóa, xây dựng và kết cấu hạ tầng KT - XH; trên cơ sở đó tác giả
đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn vùng đồng bằng sông Hồng.
Vũ Văn Phúc (2012) Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách tác
giả đề cập những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế như Trung
Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan về xây dựng NTM, trong đó còn
có các bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ quan trung ương, các
6
địa phương, các ngành, các cấp bàn đến những khía cạnh đa dạng của việc
xây dựng NTM: Vấn đề quy hoạch, an sinh xã hội, chính sách đất đai… Từ
đó giúp Việt Nam có cách nhìn nhận để nghiên cứu, áp dụng phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh đất nước. Cuốn sách cũng tổng hợp nhiều bài viết mang tính
thực tiễn về xây dựng NTM ở một số địa phương trong nước.
* Các đề tài, luận văn, luận án:
Nguyễn Văn Bảy (2001), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn Đồng bằng bắc Bộ và tác động của nó đến tăng cường sức
mạnh khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố thuộc khu vực này”, Luận án tiến sỹ
kinh tế, Học viện chính trị quân sự, Hà Nội. Trong công trình này tác giả đã
nghiên cứu chỉ ra lý luận và thực tiễn về vai trò của nông nghiệp trong quá
trình CNH, HĐH đất nước; trang bị kỹ thuật, công nghệ và xây dựng kết cấu
hạ tầng theo hướng hiện đại. Từ đó, tác giả đề ra các phương hướng, giải pháp
tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhằm góp phần vào củng cố,
tăng cường QPAN trong khu vực phòng thủ tỉnh.
Phạm Ngọc Dũng (2002), “Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
ở vùng lãnh thổ đồng bằng sông Hồng - thực trạng và giải pháp”, Luận án
tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả luận án đã
trình bày sâu sắc cơ sở cần thiết chuyển dịch CCKT nông nghiệp nói chung
và đối với vùng lãnh thổ đồng bằng sông Hồng nói riêng; từ những đặc điểm
sản xuất nông nghiệp của đồng bằng sông Hồng tác giả đề xuất các quan
điểm, giải pháp cho sự chuyển dịch CCKT nông nghiệp phù hợp cả trước mắt
và lâu dài bền vững.
Nguyễn Thị Yến (2012), “Phát triển nông nghiệp, nông thôn với giảm
nghèo ở tỉnh Thái Nguyên”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện quốc gia Hồ Chí
Minh, tác giả của luận án chỉ rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vai trò của sản xuất
nông nghiệp, xây dựng nông thôn là nhằm nâng cao đời sống và giảm nghèo ở
nông thôn; từ đó đề ra các quan điểm, giải pháp nhằm PTNN, nông thôn để
giảm nghèo ở Thái Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc.
7
Đồng Thị Hạnh (2012), “Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Đồng
Nai”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả luận văn
đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển KTNN nói chung, vị trí vai
trò của phát triển KTNN ở Đồng Nai nói riêng; nội dung, thực trạng KTNN,
các nhóm nhân tố tác động đến KTNN. Từ đó, tác giả đưa ra các quan điểm,
giải pháp chủ yếu nhằm phát triển KTNN ở tỉnh Đồng Nai.
Các đề tài, luận án, luận văn trên đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về
phát triển KTNN. Đưa ra quan điểm, phương hướng và các giải pháp phát
triển KTNN ở địa phương, khu vực; các tác giả đã đưa ra nhiều các nhóm giải
pháp nhằm phát triển KTNN và xây dựng NTM; nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho cư dân nông thôn.
* Các báo cáo, tham luận, bài báo khoa học:
Võ Tòng Xuân, “Nông dân và nông nghiệp Việt Nam nhìn từ sản xuất thị trường”, Tạp chí Cộng sản, số 812, 6/2010. Trên cơ sở phân tích đánh giá
tình hình nông dân, nông nghiệp nước ta. Tác giả đã luận giải, làm rõ những
vấn đề nông dân, nông nghiệp một cách khá sâu sắc trong quá trình sản xuất,
tiêu thụ hàng hóa nông sản, những vấn đề cấp bách cần giải quyết; từ đó có
những giải pháp phù hợp, những bước đi đúng đắn cho người nông dân lựa
chọn sản xuất những mặt hàng sản phẩm nông nghiệp mang tính bền vững,
sức cạnh tranh và hiệu quả cao.
Chu Tiến Quang, “Nông nghiệp Việt Nam sau 4 năm thực hiện cam kết
WTO”, Tạp chí Cộng sản, số 824, 6/2011. Tác giả đã phân tích làm rõ bức
tranh thực trạng sản xuất nông nghiệp thời gian trước năm 2007; sau 4 năm đã
là thành viên của WTO Việt Nam đã có nhiều thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp như đầu ra thị trường được mở rộng; hàng hóa nông sản của nước ta
bước đầu đã có mặt trên thị trường thế giới; nhiều sản phẩm đã đạt tiêu chuẩn
và có thế mạnh. Đó là thành công lớn của ngành nông nghiệp thời gian qua.
Phạm Hà (2011), “Xây dựng nông thôn mới: hướng đi cho Quảng Ninh”,
Tạp chí Nông nghiệp, 11/2011. Tác giả đã chỉ ra nông thôn ở Quảng Ninh có
nhiều điều kiện phát triển KT - XH nhất là thực hiện chương trình xây dựng NTM
8
của quốc gia; nằm ở khu vực tam giác kinh tế, đối với tỉnh không chỉ phát triển
kinh tế du lịch biển mà xem nhẹ khu vực nông thôn; vì thế xây dựng NTM là một
hướng đi mới của Quảng Ninh.
Phan Thái Sơn “Phát triển nông nghiệp chất lượng cao ở Bắc Ninh”,
Báo Nhân dân, số 20163, 17/5/2013. Tác giả đã chỉ rõ tình hình sản xuất nông
nghiệp ở Bắc Ninh, những thuận lợi, khó khăn trong thời gian qua; với Bắc
Ninh là địa phương có diện tích đất nông nghiệp không lớn vì vậy để cung
cấp đáp ứng nhu cầu lương thực thì phải PTNN chất lượng cao cả về sản xuất
cũng như chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến cả lý luận và thực tiễn
liên quan đến PTNN; phân tích thực trạng nền nông nghiệp là truyền thống
lâu đời và là một thế mạnh của nước ta; trước đổi mới chúng ta thiếu lương
thực trầm trọng nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng đã đề ra các chủ trương,
biện pháp đúng đối với nông nghiệp và trở thành một nước xuất khẩu gạo
đứng thứ hai trên thế giới; phát triển KTNN gắn với xây dựng NTM là một
yêu cầu quan trọng đối với các địa phương hiện nay. Đây là những tài liệu
quan trọng mà tác giả có thể tham khảo, kế thừa và phát triển.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nghiên cứu một cách
hoàn chỉnh và hệ thống vể “Phát triển nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới ở
tỉnh Bắc Giang” được công bố. Vì vậy, đề tài luận văn không trùng lặp với các công
trình khoa học nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn PTNN trong quá trình xây dựng
NTM ở tỉnh Bắc Giang; trên cơ sở đó đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp
chủ yếu PTNN trong xây dựng NTM ở tỉnh Bắc Giang thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về PTNN trong xây dựng NTM ở tỉnh Bắc Giang.
- Phân tích, đánh giá thực trạng PTNN trong quá trình xây dựng NTM ở
9
Bắc Giang thời gian qua, xác định nguyên nhân và những vấn đề cần tiếp tục
giải quyết trong thời gian tới.
- Đề xuất các quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu PTNN trong xây
dựng NTM ở tỉnh Bắc Giang thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
PTNN trong xây dựng NTM dưới góc độ kinh tế chính trị học.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung và không gian: Đề tài nghiên cứu về PTNN trong xây
dựng NTM giới hạn phạm vi tỉnh Bắc Giang.
Về thời gian: Nghiên cứu, khảo sát từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, luận giải cơ sở lý luận về PTNN
trong xây dựng NTM, từ đó đánh giá đúng thực trạng, đưa ra quan điểm cơ
bản và giải pháp chủ yếu để PTNN trong xây dựng NTM ở tỉnh Bắc Giang.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chú trọng sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết
hợp lôgíc với lịch sử và vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của
khoa học kinh tế chính trị: điều tra, thống kê, khảo sát thực tế, so sánh, phân
tích, tổng hợp và phương pháp chuyên gia…
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những luận
cứ khoa học giúp Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Bắc Giang tham khảo trong lãnh
đạo, chỉ đạo PTNN trong xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy và học tập môn kinh tế chính trị trong các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm có: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH BẮC GIANG
1.1. Một số vấn đề chung về phát triển nông nghiệp và xây dựng nông
thôn mới
1.1.1. Quan niệm về nông nghiệp và phát triển nông nghiệp
* Quan niệm về nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội được xuất
hiện từ rất sớm gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài
người. Theo thông thường có hai cách hiểu khác nhau về nông nghiệp: Nông
nghiệp theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và dịch vụ
trong nông nghiệp. Trong trồng trọt bao gồm: trồng cây lượng thực, cây công
nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, cây thức ăn cho chăn nuôi, cây rau củ quả;
chăn nuôi bao gồm: chăn nuôi gia súc, gia cầm… Các sản phẩm nông nghiệp
tạo ra của cải vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của
cây trồng, vật nuôi tạo ra sản phẩm lương thực, thực phẩm để thỏa mãn các
nhu cầu dinh dưỡng hằng ngày của con người và làm nguyên liệu cho sản
xuất công nghiệp. Còn nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả trồng trọt,
chăn nuôi, lâm nghiệp và ngành thủy sản.
Khi chủ nghĩa tư bản chưa ra đời, nông nghiệp được coi là một ngành
sản xuất truyền thống chủ yếu và là nguồn thu nhập chính của các quốc gia.
Thế kỷ XX nông nghiệp có bước phát triển tiến bộ vượt bậc, chuyển từ giai
đoạn sản xuất truyền thống sang giai đoạn hiện đại hóa, nhờ vậy mà hiệu quả
sản xuất cao hơn, thu nhập và đời sống người dân được nâng lên. Sang thế kỷ
XXI, với những thách thức về an ninh lương thực của các quốc gia trên thế
giới, thách thức về môi trường sinh thái, nông nghiệp đã được dự báo tiếp tục
đóng vai trò quan trọng với mọi quốc gia dân tộc. Đặc biệt, hiện nay với sự
chuyển biến nhanh chóng của xu thế trên thế giới như toàn cầu hóa kinh tế, sự
11
bùng nổ của công nghệ thông tin, kinh tế tri thức ra đời, nhận thức về nông
nghiệp có sự thay đổi và phức tạp hơn, đó là hiểu theo phân hệ kinh tế - tự
nhiên - kỹ thuật và phân hệ KT-XH.
Phân tích quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã chỉ ra việc
chuyển xã hội từ nền kinh tế tự nhiên, sinh tồn, tự cấp, tự túc sang nền kinh tế
hàng hóa là một tất yếu. Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế từ chậm phát triển
sang phát triển. Nền kinh tế sinh tồn, tự cấp tự túc chính là nền kinh tế mà
nông nghiệp là hoạt động sản xuất chủ yếu, vậy để phát triển phải làm chuyển
động ngành này. Xã hội càng phát triển, đời sống con người càng được nâng
lên thì nhu cầu của con người về lương thực, thực phẩm cũng ngày càng tăng
và không ngừng phát triển C. Mác khẳng định rằng: “Nông nghiệp là ngành
cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người” [20, tr.197]; mà “Và việc sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên của sự sống của họ và của mọi lĩnh
vực sản xuất nói chung” [19, tr.139].
C. Mác cho rằng sự phân công lao động đã làm cơ sở chung của mọi
nền sản xuất hàng hóa. Chính phân công lao động đã hình thành các ngành
trong nền kinh tế quốc dân, trong đó nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất
đầu tiên, cơ bản của xã hội loài người. Nền tảng đầu tiên của phân công lao
động xã hội là: Sự tách rời giữa chăn nuôi và trồng trọt, giữa nông nghiệp và
thủ công nghiệp, sự xuất hiện nhiều ngành nghề khác nhau trong quá trình sản
xuất xã hội. Nghiên cứu về địa tô C. Mác đã vượt xa hơn các vị tiền bối là
Adam-Smith và Ricardo; chỉ ra địa tô thu được trong nông nghiệp rất phong
phú, đa dạng, nhà tư bản thu địa tô không chỉ về vị trí và chất lượng của đất
đai mà còn do sự khác nhau về cách thức đầu tư tư bản vào ruộng đất. Nhà tư
bản đầu tư vào ruộng đất phụ thuộc vào chính những thay đổi về kỹ thuật và
sản xuất thâm canh. Từ đó C.Mác đã chỉ ra yếu tố kỹ thuật, thâm canh nhà tư
bản đã biến hầu hết nông phẩm thành những thương phẩm trong trao đổi hàng
hóa đạt đến nền nông nghiệp của kinh tế thị trường.
12
Khi nghiên cứu sơ đồ quá trình tái sản xuất của chủ nghĩa tư bản trong
sản xuất nông nghiệp, C.Mác đã chỉ ra mối quan hệ giữa con người với con
người trong sản xuất, chỉ ra bản chất bóc lột sâu xa của chủ nghĩa tư bản, xã
hội tư bản đó không phải là mục tiêu giải phóng người lao động, cho nên đây
là cơ sở để các đảng cộng sản và giai cấp công nhân có thể vận dụng vào giải
quyết vấn đề sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin là người kế thừa và phát triển học thuyết Mác trong điều kiện
lịch sử mới, khi nghiên cứu quá trình chuyển biến KTNN nước Nga sau cải cách
nông nô 1861, chỉ ra mối quan hệ xã hội chặt chẽ giữa tầng lớp nông dân và
nông thôn trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế tiểu nông, truyền thống
chuyển sang nền sản xuất hàng hóa thành nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ
nghĩa, chỉ ra những vấn đề mang tính quy luật của quá trình PTNN và vận
dụng cho mọi nền nông nghiệp trong phát triển KT-XH.
Xuất phát điểm phát triển kinh tế của nước ta là một nước nông nghiệp,
trước khi đổi mới trong đường lối phát triển kinh tế, có thời điểm ta chỉ chú
trọng vào công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng, mà nông nghiệp lại ít
quan tâm nên dẫn đến tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng, đời
sống nhân dân vô cùng khó khăn. Nhận thức về vấn đề này Chủ tịch Hồ Chí
Minh lúc sinh thời đã căn dặn: “Nếu muốn công nghiệp hóa gấp thì là chủ
quan; cho nên trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp… Ta cho nông
nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp, sau mới đến công
nghiệp nặng” [27, tr.572].
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến nông nghiệp và nhấn mạnh: “Nông nghiệp
không phát triển thì công nghiệp không phát triển được”. Người đã chỉ ra: Công
nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế. Nông nghiệp phải phát triển
mạnh để cung cấp lương thực cho nhân dân; cung cấp nguyên liệu cho nhà máy;
cung cấp nông sản cho xuất khẩu. Công nghiệp phải phát triển mạnh mẽ để cung
cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là nông dân; cung cấp
13
máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp và cung
cấp dần máy cấy, máy bừa cho các HTX công nghiệp. Công nghiệp phát triển thì
nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ
lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước
mới nhanh và nhanh chóng đi đến đích. Thế là thực hiện liên minh công nông để
xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân.
Do vậy, “Phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng” [30, tr.554]. Người còn
đặc biệt quan tâm đến xã hội hóa sản xuất nông nghiệp, cải biến nền sản xuất xã
hội từ thấp đến cao, từ nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn, việc xã hội hóa sản
xuất nông nghiệp là một tất yếu khách quan, có tính quy luật. Quá trình xây xây
dựng và phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng
tuân theo quy luật chung đó của lịch sử.
Quan điểm của Đảng ta về nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã từng bước hoàn thiện. Nghị quyết
Đại hội Đảng X xác định: “Phát triển toàn diện nông nghiệp, chuyển dịch
mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia
tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ
khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đẩy nhanh tiến bộ khoa học-kỹ thuật và
công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh
tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương” [9, tr.29].
Nông nghiệp là một ngành kinh tế tồn tại trong một không gian nhất
định, địa bàn chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp là nông thôn, những người
nông dân lao động trong nông nghiệp là quá trình tác động sức lao động với
các công cụ lao động từ đó họ tạo ra các sản phẩm để con người tồn tại và
phát triển. Nông nghiệp và nông thôn có quan hệ truyền thống gắn bó chặt chẽ
với nhau trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta; khi xem xét nông
nghiệp phải luôn gắn bó với nông thôn và nông dân.
14
Từ những vấn đề trên, có thể rút ra kết luận rằng: Nông nghiệp là một
bộ phận của nền kinh tế quốc dân, gắn bó chặt chẽ với kinh tế nông thôn và
người nông dân. Muốn xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp thì phải
gắn bó mật thiết giữa phát triển nông nghiệp với nông thôn và người nông
dân hiệu quả, bền vững.
*Quan niệm phát triển nông nghiệp
Phát triển, hiểu theo cách cơ bản là một quá trình vận động, biến đổi từ
ít đến nhiều, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện
đến ngày càng hoàn thiện, hay đó là sự thay đổi tăng tiến cả về quy mô số
lượng và chất lượng. Phát triển trong kinh tế học đã được các nhà nghiên cứu
kinh tế luận giải làm rõ trong quá trình gắn với nền kinh tế quốc dân trong
một thời gian. Đó là sự thay đổi cấu trúc kinh tế từ thấp đến cao trong sự tăng
trưởng và liên quan đến nó là sự chuyển biến của tất cả các lĩnh vực KT-XH;
phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế của một nước, nó được biểu hiện ở
tốc độ gia tăng của nền kinh tế (sự tăng lên của GDP hoặc GNP bình quân
đầu người hàng năm; các địa phương là GRDP).
PTNN là quá trình biến đổi lâu dài của ngành nông nghiệp trong quá
trình phát triển KT-XH; PTNN không chỉ đơn thuần tăng lên về mặt số lượng,
cơ cấu mà điều quan trọng là tăng lên về mặt chất lượng, trong quá trình phát
sinh, phát triển của nó. Như vậy, PTNN là phải từng bước khắc phục tình
trạng nông nghiệp lạc hậu, năng suất, chất lượng hiệu quả sản xuất thấp
chuyển sang nền KTNN hàng hóa có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế
cao. Để thực hiện được thì nông nghiệp phải được ứng dụng KH-CN trong
sản xuất không ngừng tăng lên.
KH-CN hiện nay đã trực tiếp tác động to lớn đến PTNN như: đưa cơ giới
hóa, thủy lợi hóa, công nghệ tạo giống, canh tác, phân bón, thuốc trừ sâu, thu
hoạch… CCKT trong nông nghiệp có sự chuyển dịch hợp lý giữa trồng trọt với
chăn nuôi. PTNN là làm cho tỷ trọng lao động nông nghiệp ngày càng giảm so
15
với công nghiệp và dịch vụ, nhưng tổng sản lượng sản phẩm nông nghiệp vẫn
không ngừng tăng lên. PTNN là quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là
một quá trình lâu dài được tiến hành một cách cơ bản, không thể nóng vội, nhằm
đưa máy móc, thiết bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp
vào các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp; là quá trình liên tục nâng cao trình độ
KH-CN vào sản xuất trong nông nghiệp, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày
càng cao, cuộc sống cư dân nông thôn ngày càng được nâng lên.
Từ đó tác giả cho rằng: Phát triển nông nghiệp hiện nay ở Việt Nam là sự
chuyển đổi căn bản nền sản xuất nông nghiệp truyền thống thành nền sản xuất
nông nghiệp hàng hóa với quy mô, trình độ, hiệu quả cao và bền vững; gắn
sản xuất với chế biến và tiêu thụ, mở rộng xuất khẩu, nhằm đáp ứng yêu cầu
của kinh tế thị trường trong quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân.
1.1.2. Nông thôn và xây dựng nông thôn mới
* Khái niệm nông thôn
Nông thôn nước ta được hình thành qua quá trình lịch sử hàng ngàn
năm, đây là khu vực rộng lớn và đông dân nhất nằm ngoài địa bàn các thành
phố, thị xã, thị trấn. Là địa bàn bảo tồn và phát triển cân đối các yếu tố môi
trường tự nhiên như: đất đai, nguồn nước, khí hậu, không khí; là nơi hòa hợp
và gần gũi hơn giữa con người và các yếu tố môi trường thiên nhiên. Ở đó
cộng đồng dân cư có cách sống và lối sống riêng, lấy sản xuất nông nghiệp
làm hoạt động kinh tế chủ yếu và sống chủ yếu dựa vào nghề nông (nônglâm- ngư nghiệp) cùng các ngành sản xuất, kinh doanh dịch vụ khác có vai trò
chủ yếu phục vụ nông nghiệp.
Do là địa bàn chiếm phần lớn là các hộ nông dân, lao động làm nông
nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhưng mật độ dân cư thấp hơn ở thành thị; là địa
bàn cư trú của các dòng họ có phong tục tập quán chung, có quan hệ “tình
làng, nghĩa xóm” khăng khít, nhưng có khác nhau ở các làng, xã về phong
tục tập quán. Nông thôn là địa bàn lưu giữ, duy trì và phát triển bản sắc văn
16
hóa dân tộc và đặc trưng của mỗi vùng miền. Hiện nay, giao lưu văn hóa giữa
các địa bàn, vùng miền, giữa nông thôn và thành thị, giữa văn hóa hiện đại và
văn hóa truyền thống, văn hóa khu vực nông thôn có nhiều biến đổi, tuy nhiên
những nét đặc trưng văn hóa truyền thống ở nông thôn vẫn còn được bảo tồn,
duy trì và phát triển.
Nông thôn là địa bàn sống thanh bình và an toàn, những vấn đề tiêu
cực, tệ nạn xã hội tuy có tác động đến địa bàn nông thôn, nhưng ít hơn so với
địa bàn thành thị. Điều đó do đặc trưng văn hóa nông thôn, văn hóa làng, xã,
tính cộng đồng cao trong dân cư nông thôn đóng vai trò quan trọng, chính
cộng đồng là yếu tố quan trọng nhất để đề kháng các yếu tố tác động từ bên
ngoài. Lịch sử hình thành các cộng đồng tộc người ở tất cả các quốc gia trên
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều bắt nguồn từ nông thôn nên cái
hồn cốt văn hóa làng quê là bản sắc văn hóa dân tộc, vừa đa dạng vừa mang
bản sắc riêng của quốc gia dân tộc.
Để xây dựng một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì nông nghiệp
và khu vực nông thôn không thể nghèo nàn, lạc hậu, cư dân nông thôn có đời sống
vật chất và văn hóa tinh thần thấp kém. Việt Nam là một nước nông nghiệp, cư
dân sống chủ yếu ở vùng nông thôn. Chính vì vậy, những năm qua Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương đúng đắn đưa nông nghiệp, nông thôn thoát khỏi
tình trạng nghèo nàn, lạc hậu; kết quả của nông nghiệp đã mang lại nhiều lợi ích
cho các hộ nông dân; đời sống có được nâng lên. Tuy nhiên, cho đến nay trên
nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, đời sống nhân dân còn gặp
nhiều khó khăn, kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, năng suất lao động thấp, tệ nạn xã hội
có chiều hướng gia tăng, môi trường sinh thái có nguy cơ xâm hại. Chương trình
xây dựng NTM đã và đang đáp ứng được mong ước của nhân dân và thỏa mãn
nhu cầu, mục tiêu đường lối, chiến lược phát triển KT-XH, xây dựng nước ta sớm
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Từ những góc nhìn khác nhau nên có nhiều quan niệm về nông thôn
17
cũng khác nhau. Có quan niệm cho rằng nông thôn là khái niệm dùng để
chỉ địa bàn mà ở đó chỉ có sản xuất nông nghiệp thuần nông. Có quan niệm
lại cho rằng nông thôn chỉ dựa vào công cụ, trình độ lao động thô sơ hoặc
dựa vào trình độ phát triển hạ tầng cơ sở để chỉ ra khái niệm nông thôn.
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học và Sổ tay hướng
dẫn xây dựng NTM đưa ra khái niệm: Nông thôn là khu dân cư tập trung
chủ yếu làm nghề nông; là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các
thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban
nhân dân xã.
* Xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn là quá trình từ hàng ngàn năm lịch sử từ khi dựng
nước của dân tộc. Tuy nhiên, xây dựng NTM là lần đầu tiên việc được triển
khai thực hiện một cách toàn diện nhất, yêu cầu từ Trung ương đến địa
phương tổ chức triển khai, thực hiện đồng bộ và nhất quán cao. Ta đã tiến
hành các mục tiêu, chương trình như CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn;
phát triển công nghiệp nông thôn đã thu được nhiều kết quả to lớn; NTM với
chức năng lịch sử vốn có là nông dân quần tụ trong phạm vi làng xã và chủ
yếu làm nông nghiệp, xây dựng NTM là nhằm xây dựng làng xã văn minh,
sạch đẹp, hạ tầng cơ sở hiện đại, sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững
theo hướng kinh tế hàng hóa; bảo tồn được các giá trị văn hóa truyền thống,
xã hội an ninh, môi trường tốt, nhưng nếu xây dựng NTM mà sản xuất công
nghiệp phát triển phá vỡ mối quan hệ hài hòa vốn có của con người với thiên
nhiên thì sản xuất nông nghiệp lại có chức năng phục hồi hệ thống sinh thái,
làm cho con người gần gũi, thân thiện với môi trường thiên nhiên hơn.
Từ năm 2001 đến năm 2006 Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành triển
khai thí điểm đề án xây dựng NTM cấp xã theo hướng CNH, HĐH, dân chủ
hóa. Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành TW Đảng (khóa X) đã ban hành
18
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về vấn đề nông nghiệp, nông
dân, nông thôn, Nghị quyết đã xác định mục tiêu xây dựng NTM đến năm
2020. Đến Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nông thôn mới theo
hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nông dân” [8, tr.39].
Đã có nhiều nhà nghiên cứu, nhiều bài viết nghiên cứu về xây dựng
NTM. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có một khái niệm chuẩn về
NTM, sự hình dung chung về mô hình NTM là kiểu mẫu cộng đồng theo bộ
tiêu chí mới, tiếp thu thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại, đời sống vật
chất dân cư nông thôn được nâng lên, song vẫn giữ những nét đặc trưng, tính
cách Việt Nam trong cuộc sống văn hóa, tinh thần. Mô hình NTM được quy
định bởi các tiêu chí, tính chất nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển, có sự đổi mới
về tổ chức, vận hành và cảnh quan môi trường; đạt hiệu quả cao nhất trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; tiến bộ hơn so với mô hình cũ;
chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ biến và vận dung chung trên cả
nước.
Từ đó tác giả cho rằng: Nông thôn mới là tổng thể những đặc điểm, cấu
trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng các yêu
cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn
khác so với mô hình nông thôn cũ ở tính tiên tiến về mọi mặt như: làng, xã
văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất nông nghiệp phát triển bền
vững theo hướng sản xuất hàng hóa; đời sống vật chất và tinh thần của người
dân ngày càng được nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát
triển; xã hội nông thôn được quản lý tốt và dân chủ.
Ngày 16/4/2009 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 491/QĐ-TTg,
ban hành bộ tiêu chí quốc gia về NTM và Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày
20 tháng 8 năm 2013 sửa đổi một số tiêu chí của bộ tiêu chí Quốc gia về
NTM. Bộ tiêu chí có 3 cấp độ đó là: tỉnh NTM có 80% số huyện trong tỉnh
19
đạt NTM, huyện NTM có 75% số xã trong huyện đạt NTM, xã NTM có 19
tiêu chí và được chia thành 5 nhóm cụ thể: Nhóm tiêu chí về quy hoạch;
nhóm tiêu chí về hạ tầng KT-XH; nhóm tiêu chí về kinh tế và tổ chức sản
xuất; nhóm tiêu chí về về văn hóa – xã hội và về hệ thống chính trị.
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đã ra Nghị quyết số 145-NQ/TU ngày
14/7/2011 về xây dựng NTM đến năm 2020. Ủy ban nhân dân tỉnh đã ra
Quyết định số 1557/QĐ-UBND ngày 07/12/2011 về việc thành lập Ban chỉ
đạo thực hiện Chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập
trung gắn với xây dựng NTM ở Bắc Giang giai đoạn 2011-2015. Đồng thời tổ
chức phát động phong trào thi đua “Bắc Giang chung sức xây dựng nông thôn
mới”, triển khai đến toàn thể các cấp, các ngành và các địa phương trong toàn
tỉnh, và cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư” gắn với xây dựng NTM, đã được các cấp, các ngành, các tổ chức
đoàn thể, doanh nghiệp hưởng ứng, cụ thể hóa thành phong trào thi đua ở địa
phương, đơn vị, tham gia.
1.2. Quan niệm, nội dung và vai trò của phát triển nông nghiệp
trong xây dựng nông thôn mới ở Bắc Giang
1.2.1. Quan niệm, nội dung phát triển nông nghiệp trong xây dựng
nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang
* Quan niệm PTNN trong xây dựng NTM ở Bắc Giang
Nước ta là một nước nông nghiệp, hiện nay có trên 70% dân số sống ở vùng
nông thôn, hoạt động kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Do vậy, để phát triển
đất nước, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp PTNN coi đây là
một ngành có nhiều tiềm năng và thế mạnh của nước ta; thực tế cho thấy sản xuất
nông nghiệp thuần nông là kém hiệu quả; trước thời kỳ đổi mới với cơ chế tập trung
bao cấp đã làm cho nước ta rơi vào khủng hoảng KT-XH; trước tình hình đó Đảng ta
đã kịp thời đề ra đường lối đổi mới mà trọng tâm là đổi mới về kinh tế; một điều quan
trọng là chúng ta đã nhận thức đúng vai trò của nông nghiệp trong điều kiện và đặc
20
điểm của nước ta. Sau “khoán 100”, ngày 5-4-1988 Bộ Chính trị khóa VI đã ra Nghị
quyết 10-NQ/TW “khoán 10” về đổi mới quản lý KTNN với mục tiêu là giải phóng
sức sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, các vùng, các
ngành chuyển biến nền nông nghiệp nước ta sang sản xuất hàng hóa. Từ đó đến nay
sản xuất nông nghiệp đã đóng góp vai trò quan trọng vào phát triển KT-XH đất nước,
không chỉ xóa đói, giảm nghèo mà đã là một nước xuất khẩu gạo lớn đứng thứ hai
trên thế giới; các ngành sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp đã phát triển cả về qui
mô số lượng, chất lượng; đời sống cư dân nông thôn ngày càng được cải thiện.
Xây dựng NTM với Bộ tiêu chí Quốc gia được Thủ tướng Chính phủ
quy định và lồng ghép các chương trình, mục tiêu dự án khác đang triển khai
ở nông thôn; có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của các
thành phần kinh tế; huy động đóng góp của các tầng lớp dân cư. Được thực
hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH, đảm bảo QPAN của
mỗi địa phương từ xã, huyện, tỉnh, có quy hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát
triển theo quy hoạch. Là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp
uỷ Đảng, chính quyền các cấp đóng vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quá trình
xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ chức thực hiện ở cấp mình; hình thành cuộc
vận động “Toàn dân xây dựng nông thôn mới” do Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng
các tổ chức chính trị - xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò
chủ thể trong việc xây dựng NTM.
PTNN trong xây dựng NTM ở Bắc Giang là một nhiệm vụ quan trọng
trong chương trình phát triển KT-XH của Đảng bộ, chính quyền, các cơ quan
chức năng, các tổ chức, các doanh nghiệp và toàn thể nhân dân trong tỉnh;
chương trình xây dựng NTM là một chương trình lớn của cả nước nói chung
và với Bắc Giang đã và đang được triển khai đồng bộ và toàn diện.
Từ đó tác giả cho rằng: Phát triển nông nghiệp trong xây dựng nông
thôn mới ở Bắc Giang là tổng thể các hoạt động của Đảng bộ, chính quyền
các cấp và nhân dân trong tỉnh nhằm phát triển các ngành sản xuất nông
21
nghiệp tạo ra những sản phẩm nông sản có giá trị kinh tế cao và giải quyết
tốt mối quan hệ giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn nhằm phát triển
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, hiệu quả gắn với
nông thôn mới văn minh, tiến bộ, nhân dân có đời sống vật chất và tinh thần
ấm no, hạnh phúc.
Mục đích PTNN trong xây dựng NTM ở tỉnh Bắc Giang là nhằm thực
hiện chương trình phát triển KT-XH, trong đó PTNN là một nội dung quan
trọng phù hợp với đặc điểm điều kiện của địa phương. PTNN trực tiếp làm cho
bộ mặt nông thôn Bắc Giang dần được thay đổi và có vai trò hết sức quan trọng
trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đây là một trong những
nội dung quyết định đến sự thành công của chương trình xây dựng NTM.
Đồng thời trực tiếp tăng thu nhập cho cư dân nông thôn, đảm bảo ổn định
cuộc sống của nhân dân trong Tỉnh.
Chủ thể lãnh đạo, quản lý PTNN trong xây dựng NTM là cấp ủy, chính
quyền địa phương, các sở, ban, ngành chức năng. Trong đó Ủy ban nhân dân
Tỉnh là cơ quan quản lý cao nhất có vai trò định hướng, đưa ra các chủ trương,
chính sách PTNN và xây dựng NTM; Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn
phối hợp chặt chẽ với Ban Chỉ đạo chương trình xây dựng NTM tổ chức thực
hiện các nội dung chỉ tiêu sản xuất nông nghiệp và chỉ tiêu xây dựng NTM của
địa phương.
Lực lượng tham gia vào PTNN trong xây dựng NTM là chính quyền
nhân dân tỉnh Bắc Giang, các doanh nghiệp, các cá nhân, các thành phần kinh
tế tham gia vào sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa nông nghiệp,
trong đó người nông dân là lực lượng nòng cốt đông đảo và trực tiếp tham gia
vào quá trình này.
Phương thức tiến hành quá trình PTNN trong xây dựng NTM là
phương thức kế hoạch hóa và thị trường. Phương thức kế hoạch hóa được
thực hiện ở cơ quan quản lý các cấp. Trong đó Sở Nông nghiệp và phát triển
nông thôn có kế hoạch định hướng phát triển sản xuất phù hợp với lợi từng
22
vùng trong tỉnh. Phương thức thị trường được sử dụng thông qua đầu tư về
vốn, công nghệ, giống, các dịch vụ tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp, các cá nhân, các thành phần kinh tế thực hiện theo
cơ chế thị trường phát huy được hiệu quả.
* Nội dung phát triển nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới
PTNN nói chung và với riêng tỉnh Bắc Giang là nhằm thực hiện thắng lợi
chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng NTM
hiện nay. Nội dung cơ bản của PTNN trong xây dựng NTM ở Bắc Giang là:
Thứ nhất, PTNN gắn với tăng trưởng và phát triển một nền nông
nghiệp hiệu quả bền vững; sản xuất nông nghiệp tăng về cả qui mô, số lượng,
chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ nông nghiệp theo hướng phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nông thôn Bắc Giang.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp phù hợp; phát triển sản xuất
hàng hóa tiến bộ, hiện đại, có hiệu quả kinh tế cao; chuyển đổi phương thức
sản xuất truyền thống, tự cấp, tự túc sang nền sản xuất hàng hóa, kinh tế thị
trường; cân đối tỷ trọng cơ cấu giữa ngành nông - lâm - ngư nghiệp; giữa chăn nuôi
và trồng trọt; giữa khai thác - chế biến - nuôi trồng thủy hải sản; giữa trồng rừng khai thác - chế biến lâm sản phù hợp với thế mạnh của địa phương.
Thứ ba, tăng cường công tác khuyến nông, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ
kỹ thuật vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; cơ giới hóa nông nghiệp, giảm
tổn thất sau thu hoạch, nâng cao giá trị sản lượng nông sản; đẩy mạnh đào tạo
nghề cho lao động nông nghiệp, thúc đẩy đưa công nghiệp vào nông nghiệp
và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn.
Thứ tư, PTNN gắn với giải quyết tốt các chính sách về sở hữu quan hệ
ruộng đất, quan hệ hợp tác, quan hệ lợi ích của chủ thể sản xuất nông nghiệp;
phát huy các lợi thế mô hình sản xuất nông nghiệp truyền thống, phi truyền
thống nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, giải
quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, điều kiện chăm sóc sức
23
khỏe, y tế, dùng nước sạch, vệ sinh, môi trường; tạo công ăn việc làm, tăng thu
nhập, xóa đói giảm nghèo, hạn chế thất nghiệp, giảm thiểu các tệ nạn và bất
công xã hội, từng bước rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
Thứ năm, PTNN để tiếp tục thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nông thôn
ngày càng hoàn thiện hơn. Tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát
triển đúng hướng và hiệu quả.
Thứ sáu, phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH phục vụ sản xuất nông
nghiệp, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng tốt nhất để phục vụ cho sản xuất
thông qua huy động nguồn vốn của Nhà nước và nhân dân cùng làm góp
phần tích cực vào củng cố QPAN và phong trào xây dựng NTM.
1.2.2. Vai trò của phát triển nông nghiệp trong xây dựng nông thôn
mới ở tỉnh Bắc Giang
Một là, PTNN góp phần tạo tiền đề quan trọng đẩy nhanh tiến trình CNH,
HĐH phát triển KT-XH của Tỉnh
Việt Nam đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất
kỹ thuật thấp kém, trình độ lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thiết lập nhưng chưa hoàn thiện.
Trước đổi mới điều này tồn tại trong tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế
và nông nghiệp cũng vậy, sản xuất nông nghiệp rất lạc hậu, năng suất lao động
thấp, sản xuất manh mún, tự phát, lao động thủ công vẫn chiếm phần lớn, thu
nhập thấp. Đến nay Bắc Giang đang đẩy mạnh CNH, HĐH trên các ngành, các
lĩnh vực nhằm tăng trưởng kinh tế để sớm trở thành địa phương có công nghiệp
hiện đại. Thực hiện Chương trình xây dựng NTM ở Bắc Giang, sản xuất nông
nghiệp góp phần trực tiếp hoàn thành các tiêu chí ở nông thôn nhanh hơn.
Hai là, PTNN nhằm đảm bảo an ninh lương thực và để Bắc Giang thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KT-XH
Nhu cầu ăn là nhu cầu cơ bản hàng đầu của con người. Xã hội có thể
thiếu nhiều loại sản phẩm nhưng không thể thiếu lương thực, thực phẩm cho
24
xã hội. Khi nghiên cứu về sản xuất nông nghiệp Ph. Ăngghen cho rằng:
“Trước hết con người cần phải có ăn, uống, ở và mặc nghĩa là phải lao động,
trước khi có thể đấu tranh giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động
chính trị, tôn giáo, triết học” [20, tr.166]. Do đó việc thỏa mãn các nhu cầu về
lương thực, thực phẩm trở thành điều kiện khá quan trọng để ổn định kinh tế,
là cơ sở phát triển các mặt khác của đời sống KT-XH.
Ba là, PTNN góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời
sống nông dân, thực hiện xóa đói giảm nghèo và chương trình xây dựng NTM.
Là tỉnh trung du miền núi nên PTNN ở Bắc Giang có vai trò quan trọng đối với
phát triển KT-XH; mặt khác góp phần làm tăng cầu việc làm cho nông dân,
giảm dần tình trạng thất nghiệp và di cư từ nông thôn ra thành phố, hạn chế mất
cân đối giữa nông thôn và thành thị. Những năm gần đây sản xuất nông nghiệp
đã mang lại cho nhiều hộ nông dân có thu nhập cao và làm giàu ổn định, tác
động đến nhiều mặt đời sống xã hội ở nông thôn, chất lượng đời sống đa số
nông dân nâng lên cả về vật chất và tinh thần, tạo điều kiện phát triển văn hóa,
xã hội; đó sẽ là nhân tố tác động tích cực thúc đẩy quá trình xây dựng NTM.
Bốn là, PTNN nhằm mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ là cơ sở ổn
định kinh tế chính trị xã hội trên địa bàn Tỉnh
Các ngành công nghiệp nhẹ như chế biến lương thực, thực phẩm, chế
biến rau quả… phải dựa và nguồn nguyên liệu chủ yếu từ nông nghiệp; tỉnh
có thế mạnh sản xuất các loại cây nông sản như: Lạc, Đỗ, Đậu tương, Vải
thiều, Dứa… Nông nghiệp, nông thôn phát triển thì nhu cầu về hàng hóa, dịch
vụ tại nông thôn cũng phát triển theo; làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất
trong nông nghiệp như: thiết bị phục vụ canh tác nông nghiệp, điện năng,
phân bón, thuốc trừ sâu… càng tăng; địa bàn ở nông thôn rộng lớn PTNN để
thực hiện công nghiệp hóa, đô thị hóa tại chỗ. Cư dân nông thôn chủ yếu là
người nông dân, người bạn đồng minh là chỗ dựa đáng tin cậy của giai cấp
công nhân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
25