Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

TL HỆ THỐNG QUAN ĐIỂM ĐM CỦA ĐẢNG Sự phát triển quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong quá trình đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.78 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội
đang phải trải qua cuộc thử thách lớn. Nó phải chứng minh chân lý của mình trước
những nghịch lý: chủ nghĩa tư bản sẽ diệt vong, nhưng hiện đang có khả năng tạm thời
làm dịu những mâu thuẫn để duy trì tạm thời tồn tại của nó; chủ nghĩa xã hội sẽ thắng
lợi hoàn toàn, nhưng đang trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng. Trong bối cảnh đó,
một số người giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Sự kiện chế độ xã hội chủ nghĩa
sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu đã tác động đến tư tưởng, tâm lý xã hội ở nước ta, gây
nên tâm trạng băn khoăn, lo lắng về triển vọng của chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đông đảo
cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên định mục tiêu lý tưởng chủ nghĩa xã hội và vững tin
ở đường lối đổi mới của Đảng, cũng khơng ít người hồi nghi, dao động.
Sự lựa chọn mục tiêu phát triển của Đảng ta là chủ nghĩa xã hội, khơng có sự lựa
chọn nào khác. Đó là sự lựa chọn đúng đắn, khoa học, hợp quy luật. Nằm trong tính tất
yếu đó, chúng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như là vấn đề có tính ngun tắc trong quá trình
đổi mới đất nước.
Đổi mới và phát triển phải dựa trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh mới có cơ sở lý luận và phương hướng hành động đúng đắn. Đổi
mới ở nước ta trước hết là đổi mới tư duy của Đảng trên những vấn đề quan trọng của
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đổi mới là nhận
thức lại cho thật đúng về chủ nghĩa xã hội mà chúng ta chưa hiểu thấu đáo, là giữ những
gì đúng đắn đã có, loại bỏ những gì khơng đúng đắn và khơng còn phù hợp, bổ sung
những cái mới, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và hướng đi lên của đất nước.
Đổi mới và phát triển là một quá trình diễn ra liên tục từ một số đến toàn bộ các
vấn đề cách mạng nước ta. Đảng ta thông qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận
để ngày càng làm sáng tỏ về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.


Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng nói trên, tôi chọn đề tài “Sự phát triển


quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong
quá trình đổi mới” làm đề tài nghiên cứu tiểu luận môn học.
2. Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống những quan điểm và sự phát triển những quan điểm về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội từ khi Đảng thành lập đền nay. Từ đó, hiểu sâu sắc, đúng đắn và khoa
học sự phát triển trong quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
trong quá trình đổi mới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài bắt đầu từ vấn đế lý luận quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
và thực tiễn của quá trình thực hiện của Đảng ta.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư duy các
phương pháp so sánh, hệ thống logic và lịch sử, phân tích tổng hợp từ các văn kiện qua
các kỳ đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 2
chương, 8 tiết.


Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Quan điểm của Mác - Ăngghen về chủ nghĩa xã hội
Bằng các phân tích khoa học q trình phát sinh phát triển và tiêu vong của hình
thái kinh tế xã hội TBCN, Mác - Ănghen cung cấp chìa khố phương pháp luận để luận
chứng sự ra đời và phát triển của hình thái CNXH và CSCN như là một cơ thể sống vận
động và biến động không ngừng. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Mác - Ănghen có
thể khái quát thành mấy điểm cơ bản sau:
Một là, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản phải được xây dựng trên cơ sở sức
sản xuất phát triển cao theo nguyên lý duy vật lịch sử, trình độ phát triển của lực lượng

sản xuất là tiêu chí quan trọng để phân biệt các phương thức khác nhau. Mác - Ănghen
cho rằng: “Phải có sự tăng lên to lớn của sức sản xuất và mặt khác sự phát triển ấy của
những lực lượng sản xuất…là tiến đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết để xây dựng chủ
nghĩa “Vì khơng có nó thì tất cả sẽ chỉ là một sự nghèo nàn đã trở thành phổ biến, mà
với sự thiếu thốn thì cũng bắt đầu trở lại một cuộc đấu tranh để giành những cái cần
thiết, thế là người ta lại không tránh khỏi rơi vào cũng ti tiện trước đây” .
Hai là, chủ nghĩa xã hội là sự xoá bỏ chế độ tư hữu về tư nhân tư bản chủ nghĩa,
xây dựng chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất.
Ba là, chủ nghĩa xã hội được chia thành hai giai đoạn phát triển từ thấp đến cao
từ sở hữu chung với nhiều hình thức đến một hình thức chiếm hữu tư liệu sản xuất. Sở
hữu toàn dân, từ phân phối theo lao động đến phân phyối theo nhu cầu.
Bốn là, khi chủ nghĩa xã hội đã xây dựng xong, chủ nghĩa cộng sản đã được thực
hiện thì xã hội sẽ khơng cịn giai cấp, khơng cịn nhà nước, chủ nghĩa cộng sản là liên
hiệp những người tự do. Mác - Ănghen nhiều lần nêu lên: “Trong xã hội tương lai con
người đươc phát triển tự do toàn diện trên cơ sở sự phát triển cao của lực lượng sản
xuất. Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do củ tất cả mọi
người”. “Liên hiệp của những người tự do” sẽ thay thế xã hội cũ đối lập giai cấp.


1.2. Quan điểm của Lênin về chủ nghĩa xã hội
Lênin phân chia quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa xã hội và cộng sản
chủ nghĩa thành ba giai đoạn: Một là những cơn đau đẻ kéo dài, hai là giai đoạn đầu
của xã hội cộng sản chủ nghĩa, ba là giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Lênin cho rằng “những cơn đau đẻ kéo dài” chính là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin xã hội xã hội chủ nghĩa giai đoạn đầu xã hội
cộng sản chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản sau: Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội
được xây dựng mở ra khả năng hết sức rộng rãi để các lực lượng sản xuất phát triển bền
vững. Năng suất lao động tăng ngày càng cao tạo điều kiện cho phúc lợi xã hội. Tư liệu
sản xuất khơng cịn của riêng cá nhân nữa mà thuộc về toàn thể xã hội. Chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất, chế độ bóc lột người….bị thủ tiêu. Thực hiện nguyên tắc làm theo

năng lực hưởng theo lao động, mọi người có quyền bình đẳng trong việc hưởng các
phúc lợi xã hội như y tế, giáo dục, sử dụng nhà ở, những “tình trạng bất cơng trong
phân phối vẫn cịn rất lớn. Giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản vẫn chưa hoàn tồn
vượt qua được”. Mọi người lao động có quyền và có khả năng tham gia quản lý sản
xuất, quản lý xã hội. Mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị và bình đẳng giữa các quốc gia
và dân tộc trên tồn thế giới.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội
Là một nhà mác-xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam, trong hơn sáu thập kỷ
hoạt động cách mạng vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã kết hợp
nhuần nhuyễn giữa lý luận thực tiễn giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế vô sản, phát huy cao độ tinh thần dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường
của truyền thống dân tộc và bản sắc văn hố Việt Nam với tính nhất qn về lập trường,
quan điểm của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác – Lênin trong đường lối chiến lược
cũng như sách lược của cách mạng Việt Nam ở thế kỷ XX. Khái niệm chủ nghĩa xã hội
trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú và đa dạng, thuật ngữ chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội là lý tưởng tốt đẹp mà nhân loại tất đạt;


Thứ hai, chủ nghĩa xã hội là phong trao lịch sử hiện thực mang tính chất chính trị
xã hội;
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản;
Thứ tư, chủ nghĩa xã hội là một chế độ khác với chế độ tư bản chủ nghĩa;
Thứ năm, chủ nghĩa xã hội chính là hệ ý thức của giai cấp cơng nhân.
Hồ Chí Minh đã nói và viết về chủ nghĩa xã hội một cách sâu sắc và khoa học
nhưng lại giản dị như những lẽ thơng thường và do đó có sức cảm hoá mạnh mẽ mọi
người lao động đang nung nấu khát vọng giải phóng. Với câu hỏi “Chủ nghĩa xã hội là
gì?”. Người trả lời “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng
tốt đó là chủ nghĩa xã hội”.

Người cụ thể hoá thêm: “Chủ nghĩa xã hội là cái gì? Là mọi người được ăn no
mặc ấm sung sướng tự do”. Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no
hạnh phúc và học hành tiến bộ. “Chủ nghĩa xã hội là tất cả mọi người các dân tộc ngày
càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”. Nói một cách tóm tắt, mộc mạc
chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho mọi người có cơng ăn việc làm được ấm no và
sống một đời hạnh phúc “Chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu nước mạnh”. Hồ Chí
Minh khám phá chủ nghĩa xã hội bằng cách xác lập mục tiêu cụ thể trên các bình diện
tạo nên diện mạo cơ bản của chủ nghĩa xã hội về chính trị, kinh tế, văn hố …
Về chính trị, Người xác định rõ xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà nhân
dân lao động làm chủ. Trong xã hội đó: bao nhiêu lợi ích đều của dân; bao nhiêu quyền
hạn đều của dân; công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; quyền hạn và lực
lượng đều ở nhân dân.
Người nói rõ hơn chế độ của ta là chế độ dân chủ Đảng ta và chính phủ ta chỉ lo
phục vụ lợi ích của nhân dân Đảng “phải xứng đáng là người lãnh đạo là người đầy tớ
trung thành của nhân dân” tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào dân lắng nghe ý
kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Về phương diện kinh tế, Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng ta là
phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghủ nghĩa xã hội”. Xây dựng một
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và công nghiệp hiện đại, khoa
học và kỹ thuật tiên tiến và trên cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển


cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được xố bỏ dần, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân ngày càng được cải thiện .
Từ sự vận động và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc tiếp thu
tinh hoa văn hoá của nhân loại Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống các quan điểm
chính trị tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam
Trong đó nổi bật là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Người coi đây là chìa khố để giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Về vấn đề này

Hồ Chí Minh đã phát triển và nêu ra bốn luận điểm:
Một là, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”;
Hai là, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản;
Ba là, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại đem lại cho con người sự tự
do bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no trên quả đất , việc làm cho mọi người, niềm vui,
hồ bình, hạnh phúc;
Bốn là, chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai
cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản.
Tóm lại: Theo Hồ Chí Minh, cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của tồn
dân vì nhân dân và cho nhân dân, ý tưởng cao đẹp của Hồ Chí Minh nhằm làm tất cả
mọi người vì lợi ích của con người chính là giá trị vĩ đại của chủ nghĩa xã hội là sự lựa
chọn tất yếu của lịch sử.


Chương 2
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HỆ THỐNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA
VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
2.1. Quá trình hình thành hệ thống những quan điểm về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập đến năm 1986 (Đại
hội VI)
2.1.1. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh chính trị của Đảng
Chủ nghĩa Mác-lênin được Nguyễn Ái Quốc tiếp thu và truyền bá vào Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn đến
sự ra đời của Đảng cộng sản Đông Dương đánh dấu một sự chuyển biến về chất của
cách mạng Việt Nam, khẳng định mục tiêu lý tưởng của con đường phát triển của Việt
Nam đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Mục tiêu và lý tưởng của cách mạng Việt Nam đã được khẳng định ngay trong
cương lĩnh đầu tiên của Đảng là xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa ở Việt Nam,

nhưng trước hết phải làm cách mạng tư sản dân quyền (cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân) cách mạng tư sản dân quyền được xác định là “thời kỳ dự bị” của cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ chuyển lên con
đường cách mạng vô sản. Con đường đi tới mục tiêu XHCN của Việt Nam là con
đường bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Trong bối cảnh lịch sử đó việc khẳng định con
đường bỏ qua tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, đó là
sự sang tạo xuất phát từ điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam. Cách mạng Việt Nam đi
vào trào lưu cách mạng vô sản tồn thế giới và cơng cuộc xây dựng CNXH đang được
tiến hành ở Liên Xô. Ngay từ khi tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đã ý
thức rõ rệt về việc chuẩn bị đường lối đi lên CNXH ở Việt Nam sau khi kháng chiến
thành công. Những nhận thức ban đầu về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo định
hướng của cương lĩnh đó được đề cập tới trong một số văn kiện quan trọng của Đảng.
Nghị quyết hội nghị cán bộ trung ương lần thứ 15 (3/1948) đã nêu lên những
điểm sau đây: Muốn tiến lên CNXH, các nước dân chủ mới cần 3 điều kiện:
Một là, quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản ngày một vững chắc;


Hai là, thành phần kinh tế xã hội hoá ngày một rộng lớn mà có thể lấn dần kinh tế
tư nhân;
Ba là, được các nước XHCN thành công và các nước dân chủ của ta có thể tiến
lên bằng những cuộc cải cách dần dần về kinh tế, chính trị cũng có thể tiến lên bằng
những cuộc cải cách nhảy vọt. Những cải cách đó đi đơi với đà phát triển của kháng
chiến. Quá trình tiến dần dần từ dân chủ mới lên CNXH là một cuộc đấu tranh lâu dài ,
khó khăn về qn sự, chính trị, kinh tế và hành chính, văn hố, giáo dục. Nhờ Liên Xơ
và các nước dân chủ mới giúp sức, nhờ chính quyền nhân dân do công nhân lãnh đạo
ngày một củng cố có thể bước tới CNXH.
2.1.2. Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ II của Đảng (5/1951)
Đại hội II của Đảng đã nâng cao hơn một bước trong sự hình thành quan điểm của
Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Những quan điểm sau đây đã được
nêu lên trong chính cương của Đảng lao động Việt Nam.

Cách mạng Việt Nam mang tính chất một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân có nhiệm vụ phản đế, phản phong phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở
cho CNXH. Những nhiệm vụ đó quan hệ khăng khít với nhau, nhưng trước mắt tập
trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Trong q trình chủ yếu của nó, cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân Việt Nam vẫn chưa vuợt qua khuôn khổ dân chủ tư sản, nhưng
phát triển tới một mức nào đó thì cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sẽ chưyển thành
cách mạng XHCN.
Động lực của cuộc cách mạng này là cơng nhân, nơng dân, tiểu tư sản, trí thức và
tư sản dân tộc, ngồi ra cịn có than sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những thành phần
đó đã hợp thành nhân dân lấy cơng nơng trí thức làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân.
Thực chất cuộc cách mạng này là cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới tiến triển
thành cách mạng XHCN.Con đường đi lên cuộc cách mạng này là con đường đi lên
CNXH. Đó là con đường đấu trang lâu dài, trải qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Nhiệm vụ chủ yếu là hồn thành cách mạng giải phóng dân tộc;
Giai đoạn 2: Nhiệm vụ chủ yếu là xố bỏ tàn tích phong kiến, thực hiện người cày
có ruộng, phát triển kĩ thuật, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân;


Giai đoạn 3: Nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ ngiã xã hội, tiến lên
thực hiện XHCN.
Thực hiện nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tháng 11/1953,
Đảng lao động Việt Nam công bố cương lĩnh ruộng đất nhằm xoá bỏ chế độ phong
kiến, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.
Như vậy, ở giai đoạn này, quan điểm về con đường XHCN của Đảng ta đã có
những bước phát triển mới hơn so với cương lĩnh 1930. Bước đầu đề cập tới những
nội dung cụ thể, tìm hiểu giai đoạn này nhất là những văn kiện của Đảng, chúng ta
thấy những nội dung có giá trị về lí luận và thực tiễn như:
Từ cách mạng dân chủ mới đi lên CNXH cần trải qua một cuộc nội chiến cách
mạng, đi lên CNXH là cuộc đấu tranh lâu dài và toàn diện phải chia làm nhiều giai

đoạn, đi từ thấp đến cao, giai đoạn trước chuẩn bị những điều kiện cho giai đoạn sau,
Đại đồn kết lấy tồn dân, lấy cơng-nơng-trí thức làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân. Tư tưởng đại đồn kết của chủ tịch Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ
xuyên xuốt trong thời kỳ cách mạng nước ta cho đến ngày nay. Từ Đại hội II (1951) cho
đến Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (khố II) đã hình thành những quan điểm ban đầu
vế con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, có thể nói rằng đó là những quan điểm thận
trọng khách quan phù hợp với những điều kiện thực tế của nước ta là một nước nông
nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá và tạm thời bị chia cắt hai miền. Trong bối cảnh
đó Đảng ta đã nhấn mạnh những quan điểm sau:
Nước ta phải trải qua nhiều giai đoạn mới đạt tới chủ nghĩa xã hội, chúng ta phản
đối khuynh hướng vượt bỏ giai đoạn, hấp tấp, làm bừa, song cũng phản đối khuynh
hướng từ từ, từng bậc.
Chính sách dân chủ mới của ta phải hồ hỗn hơn, tốc độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta sẽ chậm hơn Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác (Hội nghị
trung ương lần 7, tháng 3 năm 1955) phê phán bệnh chủ quan nóng vội trong cải tạo và
xây dựng, tư tưởng ỷ lại vào viện trợ nước ngoài (Hội nghị Trung ương lần 8, năm
1955) củng cố và phát triển chế độ kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận quyền sở hữu
đất của nông dân.


Thời kỳ 1958 – 1965: Đảng ta chủ trương tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã
hội. Nghiên cứu quan điểm này chúng ta thấy nổi lên những nội dung sau đây:
Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khoá II (12/1957) nhận định: Từ khi hồ bình
được lặp lại, miền Bắc được giải phóng ta đã bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội phải chuyển từ sự quá độ dần dần sang sự quá độ trực tiếp giành thắng lợi “triệt để
có ý nghĩa quyết định” cho chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Trung ương lần thứ 14 khoá II
(11/1958) khẳng định lại quan điểm trên, chủ trương miền Bắc có thể và cần phải tiến
lên theo một nhịp độ cao hơn biến nền kinh tế quốc dân đang có nhiều thành phần thành
một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể… đẩy mạnh công tác giáo dục và cải tạo tư tưởng bảo đảm “thắng lợi hoàn toàn

và thắng lợi vĩnh viễn của chủ nghĩa xã hội về mọi mặt …”, “hết sức đẩy mạnh đà
chuyển biến cách mạng hiện nay, đưa tốc độ phát triển và cải tạo kinh tế lên nhanh hơn,
mạnh hơn, tiến tới cao trào cách mạng xã hội chủ nghĩa trong tất cả mọi ngành…”.
2.1.3 Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng 1960
Lần đầu tiên đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc một cách
toàn diện và cụ thể, với phương châm: Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội, xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam.
Đại hội lần thứ III coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải tiến cách
mạng về mọi mặt, nhằm đưa miền Bắc nước ta từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu
cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên sản xuất xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc
và lạc hậu tiến lên một nền kinh tế cân đối và hiện đại.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình bao gồm hai mặt: Cải tạo xã hội
chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai mặt đó có quan hệ khăng khít với nhau,
ảnh hưởng thúc đẩy lẫn nhau. Thời kỳ đầu lấy cải tạo làm trọng tâm, thời kỳ sau lấy xây
dựng làm trọng tâm và tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Đại hội cũng nêu lên nhưng quan điểm về mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu
dùng, xây dựng kinh tế và cách mạng tư tưởng , văn hoá, kỹ thuật, xây dựng kinh tế với
củng cố quốc phịng, phân cơng và hợp tác quốc tế, viện trợ và tự lực cánh sinh…
Xét một cách khách quan trong những năm trước và sau đại hội lần thứ III, Đảng
ta đã cố gắng tìm tịi và hình thành một cách cơ bản và có hệ thống những quan điểm về


chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta bao gồm
mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, hình thức bước đi, phương châm chủ đạo và những giải
pháp lớn. Đây là bước trưởng thành quan trọng của Đảng ta. Nếu như trước đây lý luận
về đường lối đi lên chủ nghĩa xã hội mới chỉ hình thành như một mục tiêu lý tưởng
(1930) hoặc những nét đại cương (Đại hội II, 1951) thì đại hội III đã đánh dấu sự phát
triển quan trọng trong quan điểm lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là
kết quả của một quá trình nghiên cứu chuẩn bị và từng bước phát triển, cụ thể hoá thêm
những quan điểm lý luận của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng

Việt Nam. Tuy nhiên, ở thời điểm này cũng bộc lộ những mặt hạn chế về lý luận và
thực tiễn, biểu hiện ở những vấn đề sau:
Một là, nhanh chóng chuyển nền kinh tế nhiều thành phần sang nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa thuần nhất, trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chiến ưu thế
tuyệt đối. Quan hệ sản xuất đó trên thực tế đã khơng phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất;
Hai là, chia quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc nước ta thành hai
thời kỳ: Quan niệm giản đơn rằng có thể hồn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
bằng chế độ chính trin tiên tiến mà chưa nhận thức đậy đủ về mối quan hệ biện chứng
hữu cơ giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất;
Ba là, đồng nhất việc hợp tác hoá cho rằng việc đưa lại bộ phận những người sản
xuất nhỏ vào hợp tác xã là đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa;
Bốn là, đề ra đường lối xây dựng một nền cơng nghiệp hồn chỉnh với nội dung
phải ưu tiên phát triển công nghiệp nặng đã quá nhấn mạnh yếu tố hợp tác và phân công
quốc tế trong phe xã hội chủ nghĩa.
2.1.4. Đại hội lần thứ IV của Đảng
Đại hội đã đề ra hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội của cả nước trong điều
kiện đã làm thành cách mạng giải phóng dân tộc. Đại hội đã có sự tìm đề tài hình thành
những quan điểm quan trọng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội đã
đưa ra những quan điểm về chính trị của nước ta là:


Chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
Quan điểm làm chủ tập thể được chính thức coi là chế độ chính trị nước ta và lấy liên
minh cơng nơng làm nịng cốt do giai cấp cơng nhân lãnh đạo.
Xác định nội dung của nền chun chính vơ sản ở nước ta thực chất là thực chất
là thục hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, xây dựng nhà nước vững mạnh theo
đường lối của Đảng, giai cấp công nhân và nhân dân lao động, con đường để thực hiện
chun chính vơ sản là tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành đồng thời ba cuộc cách
mạng, xố bỏ chế độ người bóc lột người, xố bỏ nghèo nàn lạc hậu, xây dựng thành

công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh
chính trị và trật tự xã hội, tăng cường đoàn kết quốc tế.
Xác định nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp giữa hai con đường, nhằm
giải quyết vấn đề ai thắng, ai thua giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là đấu
tranh đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đó là
cuộc đấu tranh gay go và phức tạp với đặc điểm là kết hợp, cải tạo với xây dựng chính
trị với kinh tế, hồ bình với bạo lực, thuyết phục với cưỡng bách, giáo dục với hành
chính.
Về mặt tư duy kinh tế tiếp tục kế thừa và cụ thể hoá thêm những tư tưởng của Đại
hội IV. Đường lối kinh tế mà thực chất là đường lối công nghiệp hoá xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa đưa nền kinh tế lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
nhưng chưa có những bước phát triển mới quan trọng.
2.2. Những quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta từ
năm 1986 (Đại hội VI) đến nay
2.2.1. Đại hội lần thứ VI của Đảng (12 – 1986) có ý nghĩa lịch sử lớn lao đánh
dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trinh hình thành những quan điểm của Đảng về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nó mãi đi vào lịch sử quang vinh
của Đảng ta như một mốc son trên bước trưởng thành qua nhiều giai đoạn hoạt động
của Đảng.
Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến tới Đại hội lần thứ VI trong một tình thế nhiều
gay go thử thách, nhưng với lịng quyết tâm và những tích luỹ kinh nghiệm quý báo của
nhiều thập kỷ lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước trong những hoàn cảnh lịch sử


khác nhau, cũng từ tổng kết những tư tưởng đổi mới đã manh nha xuất hiện trong những
năm trước ở một số lĩnh vực, từ những ý tưởng rút ra ở đại hội IV và Đại hội V mà Đại
hội VI đã đề ra những quan điểm chủ yếu sau đây:
Quan điểm về một cơ cấu kinh tế mới, có sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế cũ, tập
trung đầu tư để thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế lớn: lương thực thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu

Phát triển kinh tế hàng hoá gồm nhiều thành phần tham gia vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, hình thành thị trường thống nhất cả nước.
Kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung bap cấp chuyển sang cơ chế hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa.
Thúc đẩy việc mở rộng giao lưu quốc tế, thực hiện chính sách mở cửa, hoà nhập
vào nền kinh tế trong khu vực và quốc tế.
Kiện tồn hệ thống chính trị, tăng cường đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao
hiệu lực quản lý của Nhà nước, thực hành dân chủ trong các lĩnh vực hoạt động khác
của xã hội.
Đó là những vấn đề vừa cơ bản, vùa bức xúc của con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Để đảm bảo cho công cuộc đổi mới đúng hướng phát triển. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương VI đã đề ra những quan điểm cơ bản được coi là những nguyên tắc của
công cuộc đổi mới như sau:
Nắm vững mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa;
Lý luận chủ nghĩa Mac – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng ta;
Tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chun chính vơ sản;
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định;
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Những quan điểm đó là những nguyên tắc chung định hướng cho công cuộc đổi
mới.


2.2.2. Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991)
Thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Văn kiện Đại hội lần thứ VII đã giải quyết hai vấn đề cơ bản nhất của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đó là quan niệm về chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam với những đặc trưng cơ bản phản ánh quy luật khách quan
phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam và những hình thức, con đường và biện pháp

thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Cương lĩnh của Đảng do Đại hội VII thông qua đề ra những đặc trưng của xã hội
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta sẽ xây dựng. Những đặc trưng này xuất phát từ nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, từ
những thành tựu đã được tổng kết qua các kỳ Đại hội, đó là: Nhân dân lao động làm
chủ xã hội; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người được giải phóng khỏi ách áp bức bất cơng, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn
diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Thực chất của những đặc trưng nói trên là cụ thể hố thêm một bước nữa mục tiêu, lý
tưởng được đề ra từ khi thành lập Đảng, thể hiện một cách sinh động tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội thể hiện sự nhận thức sâu sắc hơn về thời kỳ quá độ, thời kỳ chuyển biến
cách mạng lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, mọi chính sách kinh tế xã hội trong thời kỳ quá
độ chỉ có thể là định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó phải trải qua nhiều bước quá độ nhỏ
và các chủ trương chính sách của Đảng phải tính đến những nhiệm vụ đặc thù của mỗi
bước quá độ nhỏ.
2.2.3. Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996)
Đại hội đã đánh giá tình hình thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần
thứ VI đề ra. Đại hội khẳng định “thế và lực của đất nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về
chất, nước ta đã ra khoi khủng hoảng kinh tế chính trị nghiêm trọng và kéo dài hơn 15


năm, tuy con một số mặt chưa vững chắc song đã tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang
thời kỳ phát triển mới: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước”.
Điều có ý nghĩa sâu sắc là đảng ta đã đề ra và tổ chức thực hiện thắng lợi, đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa với những quan điểm đường lối đúng đắn, bảo đảm cho
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước giành được thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan

trọng. Từ những thành tựu và khuyết điểm bài học thành công và chưa thành công đã
giúp Đảng ta không ngừng nâng cao bổ sung nhận thức, hiểu biết về chủ nghĩa xã hội
ngày càng cụ thể và khách quan, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam ngày càng được xác định rõ hơn.
Nét nổi bật của Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta là khẳng định mạnh mẽ, kiên
định con đường xã hội chủ nghĩa, phê phán nghiêm khắc những khuyết điểm lệch lạc
lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở một số lĩnh vực với các mức độ khác nhau và chỉ
rõ nguy cơ chệch hướng mà Hội nghị Đại biểu giữa nhiệm kỳ (khoá VII) đã nêu ra là
nguy cơ không thể xem nhẹ.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm chăm lo phát triển nguồn
lực con người và thực hiện công bằng xã hội, trong đó nổi bật là vấn đề phát triển trí tuệ
người Việt Nam thể hiện trong khoa học cơng nghệ và giáo dục đào tạo. Đó là một
bước phát triển quan trong về lí luận và thực tiễn cách mạng ở nước ta.
Cùng với sự phát triển kinh tế, gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong cả các khâu phân phối lực lượng sản xuất, kết quả sản xuất tạo điều kiện phát huy
khả năng của người lao động, giải quyết các vấn đề xã hội. Tăng cường khối đại đoàn
kết dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, xây dựng hoàn thiện nhà nước xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Đại hội VIII cuả Đảng phát triển cao hơn một bước.
Lấy đại nghĩa dân tộc làm điểm tương đồng đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau
không trái với lợi ích chung của dân tộc.
Cùng nhau xố bỏ định kiến, mặc cảm hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần
đại đồn kết cởi mở, tin cậy. Đó thực sự là sự phát triển trong chiến lược đại đoàn kết
dân tộc của Đảng ta trong giai đoạn mới.
Xây dựng và kiện tồn hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa,
xây dựng cơ chế làm chủ của dân bao gồm làm chủ gián tiếp, làm chủ trực tiếp cùng các


hình thức tự quản ở cơ sở là bước phát triển và cụ thể hoá tư tưởng dân chủ của cương
lĩnh.
Những quan điểm của Đại hội VIII của Đảng đã đi vào cuộc sống nó sẽ được

tiếp tục phát triển bổ sung, ngày càng làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
đất nước ta.
2.2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001)
Qua mỗi chặng đường cách mạng của mình Đảng và nhân dân ta nhận thức ngày
càng sâu sắc đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Những nội dung về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong các văn
kiện của Đại hội IX được trình bày hết sức hàm súc và cực kỳ quan trọng là những quan
điểm lý luận chính trị đặt nền móng cho toàn bộ đường lối chung của cách mạng Việt
Nam trong những năm của thể kỷ XXI.
* Về mục tiêu cách mạng nước ta
Từ những bài học kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và thế
giới, đặc biệt là từ thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được của 15 năm đổi
mới Đảng ta vững tin khẳng định sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn
toàn đúng đắn và hợp quy luật
Đại hội một lần nữa khẳng định: Cương lĩnh (1991) là ngọn cờ chiến đấu vì
thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và cho những thập kỷ tới.
Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã
hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự khẳng
định này là rất cần thiết nhất là vào thời điểm hiện nay. Trên thế giới có những diễn
biến rất nhanh và phức tạp, trong nước cũng đứng trước nhiều nguy cơ và thử thách
mới.
Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ mục tiêu cao cả, thiêng liêng bất di bất dịch của nhân
dân ta là xây dựng một nước Việt Nam độc lập thống nhất đi liền với chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa xã hội gắn liền với độc lập dân tộc. Đây là vấn đề nguyên tắc là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ đường lối cách mạng nước ta bởi vì độc lập dân tộc là điều kiện tiên


quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
theo đúng quy luật tiến hoá của lịch sử.

Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là “xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Như vậy,
so với giai đoạn các đại hội trước, đại hội IX đã bổ sung thêm từ “dân chủ” vào trong
mục tiêu để phản ánh đầy đủ hơn, rõ rang hơn nhận thức của chúng ta về vấn đề dân
chủ, vấn đề bản chất của chủ nghĩa xã hội
*Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phát triển quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới
chế độ tư bản, đặc biệt là về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất
xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đồng thời từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản
xuất phù hợp định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong thời kì quá từng bước tạo ra những nhân tố mới tiến bộ tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Đây là thời kỳ khó khăn phức tạp có sự đan
xen quyết liệt giữa cái mới và cái cũ giữa những nhân tố của chủ nghĩa xã hội với cái
không phải là chủ nghĩa xã hội cho nên tất yếu thời kỳ quá độ phải lâu dài, nhiều chặng
nhiều hình thức tổ chức kinh tế có tinh chất quá độ.
Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam là con đường rút ngắn và cần phải áp dụng phương thức quá độ gián tiếp tiến dần
từng bước.
Phát triển rút ngắn là kiểu phát triển không tuần tự đối với một quốc gia dân tộc
trong những hoàn cảnh điều kiện lìch sử cụ thể nhất định để đi tới chủ nghĩa xã hội,
không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Phát triển rút ngắn là hình
thức đặc thù dân tộc của tính phổ biến thế giới do thời đại mới của lịch sử quy định. Đó
chính là thời đại q độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Đối với nước ta, sự phát triển rút ngắn như vậy là rút ngắn về tính chất và cách
thức phát triển, là khơng phát triển theo tính chất tư bản chủ nghĩa mà hướng sự phát
triển của xã hội Việt Nam theo tính chất xã hội chủ nghĩa. Tính chất ấy biểu hiện ở mục



tiêu, lý tưởng chính trị là xây dựng một chế độ xã hội khơng có áp bức bóc lột, đảm bảo
sự phát triển của con người và xã hội theo những ngun tắc cơng bằng dân chủ và bình
đẳng dựa trên nền tảng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thể chế dân chủ xã hội chủ
nghĩa quyền làm chủ nhà nước và xã hội thuộc về nhân dân lao động và hệ tư tưởng tiên
tiến, khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân.
* Về mô hình kinh tế tổng quát
Đại hội IX đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” với
nội hàm vẫn là phát triển nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng có một
bước phát triển mới so với các kỳ đại hội trước. Đó là khái quát các đặc trưng cơ bản
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng thứ nhất: Mục đích của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với quan hệ sản
xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Đặc trưng thứ hai: Thực hiền đa dạng hố các hình thức sở hữu, những sở hữu
công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và chiếm ưu
thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản
Đặc trưng thứ ba: Có nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trị chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc.
Đặc trưng thứ tư: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng kinh tế thị trường để kích thích sản xuất,
phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo
vệ lợi ích của nhân dân lao động của toàn thể nhân dân.
Đặc trưng thứ năm: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh
tế, phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác và sản xuất, kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội.
Đặc trưng thứ sáu: Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công
bằng trong từng bước phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hố, giáo



dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm cho chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trị chủ đạo trong đời sống tinh thần
của nhân dân , nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển
nguồn lực của đất nước.
*Về đấu tranh giai cấp và động lực phát triển đất nước
Đại hội IX khẳng định: Trong thời kỳ quá độ có nhiều giai cấp tầng lớp xã hội
khác nhau nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của giai cấp đã thay đổi nhiều cùng với sự biến
đổi to lớn về kinh tế xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là mối
quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích cơ bản lâu dài
của các giai cấp thống nhất với lợi ích của dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập tự do
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, đấu tranh ngăn chặn và
khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vịnh, nhân dân hạnh phúc.
* Nền tảng tư tưởng của Đảng và nhân dân ta
Đại hội IX tiếp tục khẳng định:chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưỏng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Với những kết quả này rõ rang đại hội IX thực hiện được một yêu cầu rất quan
trọng là làm sang tỏ hơn nữa về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta chỉ ra những điều đã rõ, đã sang tỏ hơn và cả những điều cần phải tiếp tục

nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, vừa khẳng định cương lĩnh đường lối, quan điểm đúng
đắn của Đảng đã được vạch ra tại các đại hội trước trong các nghị quyết của TW, của


bộ chính trị, vừa bổ sung phát triển hồn thiện thêm một bước đường lối quan điểm của
Đảng.
2.2.5. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
Tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới và văn kiện Đại hội X (2006), Đảng
ta đã có những phát triển về đặc trưng chủ nghĩa xã hội, về phương hướng xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, về quyết tâm sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, về Đảng
lãnh đạo và cầm quyền. Hàng loạt các vấn đề về hệ thống chính trị, đổi mới hệ thống
chính trị, đặc biệt là xây dựng Đảng, coi đó là khâu then chốt, về tổ chức cơ sở Đảng, về
kiểm tra giám sát, về tư vấn phản biện, về đổi mới Mặt trận và các đoàn thể được đặt ra.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành những đường nét cơ bản,
nhất là thể chế kinh tế, thể chế luật pháp, thể chế chính trị – xã hội.
Sự phát triển của thực tiễn ở thời kỳ này cịn có bước ngoặt lớn khi Việt Nam chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam hoà nhập vào thị trường khu vực
và thế giới.
Các vấn đề kinh tế, chính trị ngày càng thâm nhập vào nhau và đòi hỏi phải giải
quyết tổng thể các vấn đề đó, nổi lên vấn đề tổ chức và cán bộ, chất lượng nguồn nhân
lực, sự trong sạch của bộ máy, chống tham nhũng, tăng cường những đảm bảo chính trị
hơn nữa cho sự phát triển kinh tế.
2.2.6. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Trên cơ sở vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, từ thực tiễn thành công
và thất bại của chủ nghĩa xã hội trên thế giới và nhất là từ thực tiễn những năm tiến
hành đổi mới, tiếp thu chọn lọc tinh hoa nhân loại, Đại hội đã tổng kết 20 năm thực hiện
cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Sau đây gọi tắt là
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011).
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Để thực hiện các mục tiêu

trên (mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta và mục tiêu đến giữa thế
kỷ XXI) toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến cơng, ý chí tự lực



×