Tải bản đầy đủ (.docx) (129 trang)

Tiểu luận cao học,nâng cao nhận thức của sinh viên báo chí về vai trò của văn học thế giới đối với nghề làm báo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.31 KB, 129 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1 Báo chí là loại hình ý thức xã hội đặc thù, có vai trị quan trọng
trong phát triển xã hội. Nó vừa là kết quả của sự phát triển vừa là động lực,
vừa là thước đo của sự phát triển. Báo chí ngày càng khẳng định vai trị khơng
thể thiếu trong đời sống xã hội, bởi nó khơng chỉ gắn bó chặt chẽ với các
thành tố của thượng tầng kiến trúc, nó cịn chi phối trực tiếp và mạnh mẽ tới
các yếu tố trong hệ thống cơ sở hạ tầng. Hoạt động của báo chí mang tính đặc
thù, tác động của nó đối với các lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội
thật vơ cùng sâu rộng. Nó góp phần quyết định diện mạo và cấu trúc của văn
hóa Việt Nam. Báo chí Việt Nam là tiếng nói của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
của Nhà nước Việt Nam - Nhà nước của nhân dân, nên đó cũng chính là tiếng
nói của các đồn thể xã hội, tiếng nói của tồn thể nhân dân. Báo chí là diễn
đàn cơng khai, dân chủ, vì mục tiêu phát triển của xã hội.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, thế giới
ngày càng trở nên “phẳng” bởi sự bùng nổ thông tin, bởi sự phát triển của nền
kinh tế tri thức. Bối cảnh lịch sử ấy đã đặt nền báo chí của mỗi quốc gia trước
những cơ hội hết sức to lớn và thuận lợi chưa từng có, nhưng nó cũng tạo ra
những thách thức khơng nhỏ đối với sự nghiệp báo chí nói chung, trong đó có
báo chí Việt Nam. Tồn cầu hóa khơng phải là khái niệm trong giới hạn của
lĩnh vực kinh tế như trước đây người ta vẫn hiểu. Việt Nam giờ đây đã chủ
động hội nhập quốc tế, chứ không chỉ hội nhập riêng trong một lĩnh vực nào.
Quá trình hội nhập toàn diện ấy thực sự là thời cơ và thách thức, đặt ra nhu
cầu tất yếu và khách quan buộc tất cả các thành tố văn hóa xã hội phải đổi
mới để đáp ứng nhu cầu tự thân của cuộc sống. Báo chí cũng phải nhận thức
lại sứ mệnh lịch sử, phương thức hoạt động, đối tượng tiếp nhận… của chính
mình. Làm thế nào để tranh thủ, tận dụng được những lợi thế và vượt qua
những rào cản trong q trình hội nhập tồn cầu, để báo chí Việt Nam thực sự
1



là động lực quan trọng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước là
vấn đề đòi hỏi các nhà khoa học phải vào cuộc để tìm câu trả lời.
1.2 Cơng tác đào tạo cán bộ, phóng viên các cơ quan báo chí ln nhận
được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, xuất phát từ việc nhận thức
sâu sắc vai trò quan trọng của báo chí trong đời sống văn hóa xã hội. Hội nghị
lần thứ V của BCH TW Đảng nhiệm kỳ khóa IX đã ra nghị quyết 16 NQ/TW “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình
mới”, đặc biệt nhấn mạnh đến việc “nâng cao chất lượng - hiệu quả công tác
tuyên truyền cổ động, báo chí, xuất bản, văn hóa - văn nghệ, thơng tin đối
ngoại”. Những u cầu đó đã đặt báo chí Việt Nam trước cánh cửa giao lưu
văn hóa, để báo chí có cơ hội tiếp xúc nhiều hơn, cùng nhau trao đổi học hỏi
để cùng tồn tại và phát triển, để làm giàu thêm cho chính mình. Nâng cao
nhận thức của sinh viên báo chí về vai trị của văn học thế giới đối với nghề
làm báo sẽ góp phần tích cực để báo chí thực hiện được nhiệm vụ khó khăn
này. Báo chí Việt Nam đã rất quen với việc sử dụng điển tích văn học thế giới
nhằm tăng cường hiệu quả và tác động khi chuyển tải thông tin. Tri thức văn
học thế giới lại càng cần hơn cho sinh viên ngành Báo của Học viện Báo chí
và Tuyên truyền - bởi khi bước vào đời, họ sẽ tham gia vào quá trình hoạt
động nhằm sáng tạo ra tác phẩm báo chí cho bạn đọc cả trong và ngồi nước.
1.3 Tình hình báo chí ở Việt Nam hiện nay đang có bước phát triển
nhanh chóng, mạnh mẽ về mọi mặt. Hiện nay cả nước có hơn 700 cơ quan
báo chí hoạt động hiệu quả với khoảng 15.000 phóng viên tác nghiệp trên
nhiều loại hình báo chí khác nhau. Bên cạnh những thành công rất đáng ghi
nhận của hoạt động báo chí, vẫn cịn tồn tại một thực trạng đáng suy ngẫm là
một số tờ báo chưa hấp dẫn về hình thức, chất lượng và hiệu quả tuyên
truyền, giáo dục chưa cao thậm chí vẫn cịn hiện tượng hiểu khơng đúng,
hoặc sử dụng sai các điển tích, điển cố văn học thế giới khiến nội dung thông
tin bị sai lệch. Thực trạng ấy là kết quả của một chuỗi những ngun nhân,
trong đó có ngun nhân mang tính chủ quan là nhận thức chưa đúng của
2



những người được đào tạo để trở thành người làm báo về sự cần thiết phải tìm
hiểu thấu đáo những tri thức văn học, trong đó có tri thức văn học thế giới.
Thay đổi thực trạng ấy phải bắt đầu từ vấn đề nâng cao nhận thức của sinh
viên báo chí về vai trị của văn học thế giới đối với đối với nghề làm báo.
Nhiều sinh viên không đánh giá đúng giá trị của điển tích văn học thế giới nên
ít quan tâm đến nội dung những kiệt tác văn chương của nhân loại. Có sinh
viên thẩm định được giá trị của tác phẩm, nhưng vì mặc cảm tự ti hoặc thiếu
tự tin mà khơng dám chủ động tìm đến với kho tàng trí tuệ vơ giá của nhân
loại được kết tinh trong những tác phẩm văn học thế giới, dẫn đến việc khơng
thích học hoặc khơng nhận thức đúng về vai trò của văn học thế giới đối với
hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí trong thực tiễn.
1.4 Báo chí và Văn học vốn cùng sử dụng một loại chất liệu là ngôn
ngữ. Mối quan hệ song phương, đa chiều giữa Văn học và Báo chí đã có từ rất
lâu. Văn học mang đến cho Báo chí một hệ thống đề tài phong phú, một
nguồn chất liệu dồi dào và các thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu. Nó cũng cung
cấp cho Báo chí một đội ngũ đơng đảo người sáng tác. Trong lịch sử không
hiếm những nhà báo tài ba cũng là những nhà văn nổi tiếng: Ngơ Tất Tố,
Phạm Duy Tốn, Hồ Chí Minh, Hêmingy, Macket, Bacbuyx… Mối quan hệ
giữa Văn học và Báo chí là “hai trong một” luôn hỗ trợ cho nhau cùng phát
triển. Việc sử dụng ưu thế của văn học thế giới có ý nghĩa thật lớn lao đối với
đời sống báo chí. Nó mang lại cho đời sống báo chí nhiều điều bổ ích, tạo nên
sức hấp dẫn, tăng cường hiệu quả thông tin để thu hút công chúng độc giả, góp
phần quan trọng vào việc tăng cường tính dân tộc và tính quốc tế, làm cho báo
chí Việt Nam phát triển theo hướng dân tộc và hiện đại. Thực tiễn ở Việt Nam,
những nhà báo đã có ý thức sử dụng tri thức văn học thế giới nhưng do những
nguyên nhân chủ quan và khách quan việc vận dụng này chưa đạt hiệu quả tối
ưu, thậm chí cịn những sai sót đáng tiếc. Mặt khác vẫn cịn khơng ít phóng
viên, biên tập viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc vận dụng tri
thức văn học thế giới trong sáng tạo tác phẩm báo chí.

3


Xuất phát từ những lý do cơ bản trên, chúng tôi chọn đề tài “Nâng cao
nhận thức của sinh viên báo chí về vai trị của văn học thế giới đối với nghề
làm báo”, nhằm định hướng cho sinh viên để họ nhận thức đúng vai trò của
văn học thế giới và hiệu quả của việc vận dụng nguồn tri thức ấy vào hoạt động
báo chí ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu “Nâng cao nhận thức của sinh viên báo chí về vai trò
của văn học thế giới đối với nghề làm báo” là một hướng nghiên cứu cịn mới
mẻ, chưa có cơng trình nào tiến hành một cách hệ thống, chuyên sâu và xem
nó như một đối tượng nghiên cứu độc lập. Trước đó, rải rác ở một vài cơng
trình có đề cập đến vấn đề này như:
- Năm 2002, Phân viện Báo chí và Tun truyền đã có một đề tài cấp
Bộ: “Mối quan hệ giữa Văn học và Báo chí ở Việt Nam từ khi báo chí ra đời
đến nay” do Bộ mơn Ngữ Văn chủ trì và TS. Trần Ngọc Dung làm chủ nhiệm
đề tài, đã cung cấp cho chúng tơi những vấn đề liên quan đến lí luận của đề tài.
- Năm 2006, cuốn “Từ nguồn cội văn chương” - NXB. Văn hóa Thơng
tin , của tác giả Trần Thị Trâm bắt đầu nghiên cứu theo hướng Văn dụng
học, cơ bản là nghiên cứu việc vận dụng văn học Việt Nam trong làm báo,
nhưng thực chất đã gợi ý rất quan trọng về một hướng nghiên cứu mới mà
chúng tơi quan tâm.
- Năm 2007, Học viện Báo chí và Tuyên Truyên đã có một đề tài cấp
bộ: “Khai thác, vận dụng tri thức văn học trong sáng tạo tác phẩm báo chí ở
Việt Nam” do TS. Trần Thị Trâm làm chủ nhiệm đề tài. Cơng trình này đã
từng bước làm sáng tỏ về việc sử dụng tri thức văn học nói chung trong sáng
tạo tác phẩm báo chí.
TS. Nguyễn Thị Tuyết Thu có viết một loạt bài nghiên cứu về vai trò
của Văn học thế giới với hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí như:

“Giá trị thực tiễn của kiến thức văn học nước ngoài trong tác phẩm
báo chí Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, năm 2006.
4


“Sử dụng chất liệu văn học nước ngoài trong rút tít báo”, Tạp chí
Người Làm Báo, năm 2007.
“Sử dụng chất liệu Văn học thế giới như một dẫn dụ trong nội dung bài
báo”, Tạp chí Người Làm Báo, năm 2007.
“Sự hội tụ của những điển tích văn học Đơng - Tây trên trang báo Việt
thời hội nhập”, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thơng, năm 2008.
“Văn học thế giới - một hướng vận dụng tất yếu của báo chí Việt Nam
thời hội nhập”, Tạp chí Lý luận và truyền thông, năm 2008;…v.v…
- Tháng 1/2008, cuốn “Phát huy ưu thế của văn học trong sáng tạo tác
phẩm báo chí” của PGS.TS Trần Thị Trâm ra mắt độc giả, đã mở ra một
hướng tiếp cận mới về mối quan hệ giữa Văn học và Báo chí mang tính ứng
dụng. Cuốn sách có dành ra một phần nhỏ đề cập tới việc vận dụng chất liệu
văn học thế giới vào tác phẩm báo chí.
Nhận thức của sinh viên về vai trị của văn học thế giới đối với nghề
làm báo là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực
tiễn. Tuy nhiên trong phạm vi tiếp cận của chúng tơi chưa có cơng trình nào
nghiên cứu một cách trực tiếp và đầy đủ về vấn đề này. Tiếp tục hướng
nghiên cứu đã được gợi mở, chúng tôi đi sâu nghiên cứu về “Nâng cao nhận
thức của sinh viên báo chí về vai trị của văn học thế giới đối với nghề làm
báo”, lấy đó là đối tượng nghiên cứu của một cơng trình độc lập, nhằm góp
một tiếng nói riêng để bổ sung và đưa ra những nhật xét trên cả hai phương
diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao nhận thức của sinh

viên báo chí về vai trò của văn học thế giới đối với nghề làm báo. Từ đó đề
xuất phương thức cấu trúc và phương pháp giảng dạy hợp lý môn học này theo
hướng gắn liền với nghề nghiệp của sinh viên, hình thành kỹ năng sử dụng tri

5


thức văn học thế giới trong sáng tạo tác phẩm báo chí cho họ, giảm sai sót khi sử
dụng và góp phần nâng cao hiệu quả thơng tin trên báo.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ nội hàm các khái niệm liên quan đến nội dung đề tài: nhận thức
và quá trình nhận thức; biểu tượng và biểu tượng văn học; báo chí và lao động
sáng tạo báo chí; văn học thế giới và hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí…
- Khảo sát thực trạng nhận thức của sinh viên báo chí và khả năng vận
dụng văn học thế giới của họ trong nghề làm báo.
- Phân tích, lý giải để từ đó đưa ra những giải pháp có tính khả thi nhằm
nâng cao nhận thức của sinh viên báo chí về vai trò của văn học thế giới đối với
nghề làm báo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Nhận thức của sinh viên báo chí về vai trò của văn học thế giới đối với
nghề làm báo
- Nhận thức của sinh viên về hiệu quả và cách thức vận dụng chất liệu
văn học thế giới trong hoạt động thực tiễn của nghề làm báo.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Sinh viên Báo chí hệ chính quy của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
thuộc 5 ngành đào tạo: báo in, báo ảnh, báo phát thanh, báo truyền hình, báo
mạng điện tử.
- Khóa học: K28(2007 - 2008); K29(2008 - 2009); K30(2009 - 2010).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Cơ s ở lý luận
- Dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và phương pháp tư
duy biện chứng của Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam và tư
tưởng Hồ Chí Minh về báo chí và hoạt động báo chí trong lĩnh vực văn hóa
tư tưởng.
6


- Tham khảo và kế thừa hệ thống quan điểm lý luận, kết quả nghiên cứu
khoa học của các tác giả đi trước thuộc các lĩnh vực Báo chí, Văn học và các
ngành khoa học có liên quan.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra xã hội học trên đối tượng sinh viên báo chí
- Thu thập và phân loại tư liệu.
- Khảo sát, thống kê, so sánh, phỏng vấn
- Phân tích, tổng hợp và nghiên cứu liên ngành
6. Đóng góp mới của đề tài
- Kế thừa lý luận từ các cơng trình đã có, đề tài góp phần bổ sung và làm
phong phú hơn về lý luận dạy và học VHTG cho đối tượng làm nghề, và lý
luận sáng tạo tác phẩm báo chí.
- Đề tài đầu tiên lấy nhận thức của sinh viên về vai trò của văn học thế
giới đối với nghề làm báo làm đối tượng nghiên cứu.
- Đề tài nhằm nâng cao nhận thức về giá trị thực tiễn của văn học thế giới
đối với học viên và sinh viên báo chí. Nhận thức này cũng có giá trị về lý luận và
thực tiễn đối với các cơ quan quản lý hoạt động báo chí và người làm báo.
- Đề tài sẽ trở thành tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
và học tập của thầy và trị sinh viên ngành Báo chí.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính

của đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Thực trạng nhận thức của sinh viên báo chí về vai trị của
mơn văn học thế giới đối với người làm báo
Chương 3: Giải pháp nâng cao nhận thức của sinh viên báo chí về vai
trị của mơn văn học thế giới đối với người làm báo

7


Chương 1
CƠ SỞ CỦA VIỆC NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA
SINH VIÊN BÁO CHÍ VỀ VAI TRÒ CỦA VĂN HỌC THẾ GIỚI
ĐỐI VỚI NGHỀ LÀM BÁO
1. Một số khái niệm liên quan
1.1. Nhận thức và quá trình nhận thức
Nhận thức theo từ điển Bách khoa Việt Nam là “quá trình biện chứng cho
sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư
duy và khơng ngừng tiến đến gần khách thể. Sự nhận thức đi từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con đường
nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn như sau: 1.Nhận thức cảm
tính: vận dụng cảm giác, tri giác, biểu tượng. 2.Nhận thức lí tính: vận dụng
khái niệm, phán đốn, suy lí. 3.Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức
được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Do đó, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí,
là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức. Mục đích cuối cùng của nhận thức
khơng phải là để giải thích thế giới mà là để cải tạo thế giới. Do đó, sự nhận
thức ở giai đoạn này có chức năng chỉ đạo đối với thực tiễn. Sự nhận thức là
một q trình vận động khơng ngừng, vì nó gắn liền với hoạt động thực tiễn.
Để tiến hành quá trình nhận thức, cần phải sử dụng rất nhiều phương pháp,
trong đó chủ yếu là phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic, trừu

tượng hóa, khái quát hóa, vận dụng con đường nhận thức đi từ cụ thể đến trừu
tượng và từ trừu tượng đến cụ thể” [25, tr.239].
Như vậy nhận thức chính là một q trình động, khơng nhất thành bất
biến, nó ln được nâng cao và hồn thiện dần, được bổ sung bằng những tri
thức thông qua tích lũy và khám phá thực tại khách quan. Quá trình đó phải bắt
đầu từ nhận thức cảm tính, tức là nhận thức thực tại khách quan một cách cụ
thể, trực tiếp. Đây được coi là giai đoạn khởi đầu của quá trình nhận thức, được
coi là giai đoạn trực quan sinh động. Tri thức văn học thế giới được sinh viên
8


tiếp nhận ở giai đoạn này chính là văn bản ngôn từ được tiếp nhận trực tiếp
bằng các giác quan như thị giác, thính giác. Đọc tác phẩm hoặc nghe đọc nội
dung tác phẩm, sinh viên có cảm giác đầu tiên của nhận thức về những khía
cạnh, những thuộc tính riêng lẻ, những nội dung chi tiết của tác phẩm. Cảm
giác ấy sẽ tác động trực tiếp vào nhận thức của con người, trở thành nguồn gốc
của tri thức dẫn đến giai đoạn tri giác là giai đoạn tổng hợp các cảm giác trong
mối liên hệ thống nhất biện chứng. Các cảm giác riêng lẻ sẽ được tập hợp, bổ
sung cho nhau, hồn thiện dần q trình nhận thức về sự vật và hiện tượng
được cảm giác ban đầu thu nhận. Nhận thức cảm tính được đẩy lên giai đoạn
cao hơn khi biểu tượng xuất hiện, biểu tượng được hình thành trên cơ sở những
tri giác cảm tính. Nhưng biểu tượng khơng cịn là hình ảnh trực tiếp của đối
tượng nhận thức mà là hình ảnh khách thể nhận thức được tái dựng trong tri
giác của chủ thể nhận thức.
Quá trình nhận thức có vai trị cực kì quan trọng đối với việc hình
thành phẩm chất và năng lực của những người làm báo trong lao động sáng
tạo đặc thù. Quá trình nhận thức đi từ thấp đến cao, từ nhận thức cảm tính
gồm: cảm giác - tri giác - biểu tượng đến nhận thức lí tính gồm 3 giai đoạn:
vận dụng khái niệm, phán đoán và suy lý. Nhận thức lý tính là q trình phân
tích, tổng hợp, khái quát và trừu tượng hóa hiện thực khách quan bằng lý trí,

bằng tư duy trừu tượng. Khái niệm là hình thức tư duy mở đầu của giai đoạn
tư duy trừu tượng ấy, các khái niệm luôn được bổ sung và hồn chỉnh dần về
độ chính xác khi q trình tư duy tiến dần đến bản chất của khách thể trong
quá trình nhận thức. Các khái niệm phản ánh những thuộc tính cơ bản, những
tính chất, bản chất và quy luật của sự vật hiện tượng. Khái niệm là cơ sở để
q trình nhận thức lý tính phát triển đến giai đoạn cao hơn - giai đoạn phán
đốn. Đó là hình thức liên hệ các khái niệm, phản ánh và phân tích các khái
niệm ấy trong mối liên hệ phổ biến và sự vận động phát triển. Suy lý là hình
thức cơ bản của tư duy trừu tượng, có thể là suy lý diễn dịch hay suy lý quy
nạp nhưng chung quy lại, các hình thức của suy lý có mối quan hệ tương tác
9


theo tiến trình phát triển của nhận thức. Trong nhận thức lý tính thì tư duy
nhạy bén của chủ thể có vai trị quan trọng trong việc nhận thức bản chất của
khách thể nhận thức, tư duy ấy phụ thuộc rất nhiều vào năng lực nhận thức
của chủ thể.
Quá trình nhận thức của sinh viên báo chí về vai trị của văn học thế
giới đối với nghề làm báo cũng là một quá trình đi từ thấp đến cao, từ nhận
thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Đây là hai q trình nhận thức có quan
hệ biện chứng, tác động chặt chẽ và quyết định lẫn nhau. Nhận thức cảm tính
giống như nhận thức thực nghiệm trong xã hội học, được hình thành trên cơ
sở những thơng tin, những sự kiện tiếp nhận trực tiếp thông qua các chức
năng miêu tả của xã hội học. Kết quả của quá trình nhận thức ấy là những nét
tiêu biểu nhất, căn bản nhất được thu nhận từ những quan sát trực tiếp. Trên
cơ sở trừu tượng hóa và khái quát hóa lượng thơng tin tiếp nhận được từ nhận
thức cảm tính, nhận thức lí luận sẽ hình thành mà kết quả là nhận thức đầy đủ
về sự tồn tại, vận động và phát triển của đối tượng nhận thức.
Quá trình nhận thức ấy sẽ liên tục được điều chỉnh và bổ sung song
song với quá trình phát triển của hiện thực và nhận thức. Có thể coi giai đoạn

đầu của quá trình nhận thức là kho tài liệu sống cho giai đoạn nhận thức cao
hơn bằng lí luận, lí tính. Nhưng con đường vận động của quá trình nhận thức
là xuất phát từ thực tiễn để rồi nhận thức ấy lại được kiểm nghiệm thông qua
hoạt động thực tiễn cho nên thực tiễn chính là thước đo giá trị, là tiêu chuẩn
của chân lý, là động lực và cũng chính là mục đích của q trình nhận thức.
Q trình nhận thức phải gắn liền với hoạt động thực tiễn, đi từ cụ thể đến
trừu tượng, từ trừu tượng đến cụ thể. Nhận thức của sinh viên về vai trò của
văn học thế giới chính là q trình nhận thức đi từ trừu tượng đến cụ thể, từ lí
luận đến thực tiễn. Bởi mục đích cuối cùng của người học là biến tri thức
thành sức mạnh hành động, biến nhận thức thành phương tiện trong lao động
sáng tạo tác phẩm báo chí, thành nội lực tạo nên sức mạnh của tác phẩm báo
chí. Bản thân tác phẩm báo chí là sản phẩm của sáng tạo nghệ thuật, là thước
10


đo của năng lực tư duy, là chuẩn mực về chất lượng, là kết quả của quá trình
nhận thức phù hợp với mục tiêu đào tạo, chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu
xã hội.
Quá trình nhận thức của sinh viên gắn liền với quá trình đào tạo cả trên
phương diện kĩ năng và năng lực hoạt động thực tiễn. Mục đích giáo dục đối
với sinh viên Học viện Báo chí là văn học thế giới cung cấp điều gì cho hoạt
động thực tiễn là nghề báo khi các sinh viên rời xa giảng đường, bước vào
cuộc sống, hòa nhập vào một xã hội đang thay đổi từng ngày. Xã hội ấy đòi
hỏi người làm báo phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc về tầm quan trọng
của tri thức văn học thế giới đối với hoạt động sáng tạo khó khăn và vinh
quang trong nghề báo. Xã hội ngày nay là xã hội bùng nổ dân số, đặt ra các
vấn đề về dân trí, nhân lực, nhân tài. Đó cũng là xã hội bùng nổ thơng tin, tri
thức của lồi người tăng lên với tốc độ chóng mặt. Nền văn minh thông tin
đặt ra một vấn đề quan trọng đối với nhận thức và quá trình nhận thức của
mỗi người, đó là khả năng thu thập thơng tin, xử lý thơng tin một cách linh

hoạt để có quyết định đúng đắn nhằm giải quyết thấu đáo vấn đề đặt ra. Chính
hội nhập tồn cầu trong thời đại bùng nổ thông tin đã làm thay đổi mục tiêu
giáo dục truyền thống, thay đổi phương pháp giáo dục, chuyển từ đào tạo kiến
thức và kĩ năng sang chủ yếu là đào tạo năng lực mà trước hết là năng lực
nhận thức, năng lực tư duy. Nhu cầu thông tin phát triển song song với lượng
thông tin ngày càng nhiều, tốc độ truyền tin ngày càng nhanh, những yếu tố
đã tác động mạnh mẽ tới cấu trúc và chương trình đào tạo Đại học bởi sản
phẩm của quá trình đào tạo ấy chính là người lao động. Sản phẩm ấy ở Học
viện Báo chí và Tuyên truyền chính là người làm báo. Mọi thay đổi phải bắt
đầu từ nhận thức, trong q trình nhận thức ấy có nhận thức của sinh viên về
vai trò của văn học thế giới đối với thực tiễn hoạt động nghề nghiệp là lao
động sáng tạo báo chí trong tương lai.
1.2. Biểu tượng và biểu tượng văn học
Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là sử dụng một hình tượng nào đó
11


như một dấu hiệu nhằm diễn đạt một ý nghĩa mang tính trừu tượng. Đây là khái
niệm gắn kết chặt chẽ với quá trình gắn kết của sinh viên về vai trò của văn học
thế giới trong lao động sáng tạo của nghề báo. Ví như chim bồ câu là biểu
tượng của hồ bình, ngọn lửa là biểu tượng của huỷ diệt và tái sinh, cánh chim
là biểu tượng của điềm trời, biểu trưng cho mối liên lạc giữa trời và đất, cánh
chim cũng là hình ảnh của linh hồn thốt khỏi thể xác. Người Ấn Độ cho rằng
trí khơn là cánh chim bay nhanh nhất. Trái tim cũng là một biểu tượng nhiều
lớp nghĩa, nó khơng chỉ giúp máu tuần hồn và đảm bảo sự sống cho con
người, nó còn là nơi cư trú thực sự của linh hồn, nó biểu trưng cho con người
bên trong với đời sống tình cảm và trí tuệ của riêng nó. Đơi mắt là biểu tượng
mà ở nghĩa gốc được hầu hết các nền văn hố coi là hình ảnh tượng trưng cho
trí tuệ, có chức năng tiếp nhận ánh sáng, đơi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Đơi
mắt cũng chính là thế giới quan, là cách nhìn nhận và đánh giá. Con thuyền là

biểu tượng cho một hành trình vượt giơng tố trùng khơi, con thuyền cũng đồng
thời là biểu tượng của sự an toàn, bởi bản thân cuộc đời là một cuộc vượt biển
còn con thuyền che chở và giúp đỡ cho con người. Con thuyền cũng là phương
tiện chuyên chở linh hồn người chết sang thế giới bên kia, là thuyền tình,
thuyền hạnh phúc. Hình ảnh con thuyền thường đi liền với dịng sơng bến
nước, thuyền và bến đã trở thành cặp bạn tình chung thuỷ, thành biểu tượng đa
nghĩa dưới góc nhìn của văn hố. Con thuyền có thể là biểu tượng của thời gian
trôi chảy mà cũng có thể là bến đậu của con tim, khi ấy nó trở thành con thuyền
tình u. Biểu tượng ngơi nhà xuất hiện trong hầu hết các nền văn học Đông
Tây và được xem như là trung tâm của thế giới, là hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ.
Ngơi nhà có thể được hiểu là không gian sinh tồn của con người, là ngơi nhà
của nhân gian. Ngơi nhà cũng có thể hiểu là con người nội tâm, nơi đó cái tôi
tâm linh được suy ngẫm, chiêm nghiệm. Khi ngôi nhà với cánh cửa không bao
giờ khép xuất hiện là lúc nó đã trở thành biểu tượng biểu trưng cho tâm hồn
rộng mở đón đợi những trái tim đồng cảm, sẻ chia. Biểu tượng con đường
trong truyền thống văn hoá của các dân tộc cũng rất phong phú. Có những con
đường biểu trưng cho cuộc hành trình kiếm tìm chân lý, có con đường dẫn đến
12


những miền đất mới được khám phá, và có cả con đường đưa chúng ta trở về
cội nguồn, với bản ngun và với chính lịng mình. Con đường cũng được chọn
lựa làm biểu tượng cho sự kiếm tìm và phát hiện để cuối cùng con người có thể
đến đích hoặc khơng. Lỗ Tấn cho rằng trên thế gian khơng có con đường, chỉ
có bước chân con người đi lại mãi thành lối mịn, thành con đường mà thơi.
Cho nên có con đường không ngăn lối luôn rộng mở thênh thang, và có cả con
đường dẫn con người tới tuyệt vọng. Khi những biểu tượng này hóa thân vào
trang báo, dịng tin khô khan sẽ trở nên mềm mại, tác động khơng chỉ vào trí
não con người, mà cịn khơi gợi và đánh thức những rung động sâu xa, những
khát vọng cao đẹp. Sức mạnh của biểu tượng khi ấy sẽ lớn hơn mọi lời truyền

lệnh, nó sẽ liên kết những trái tim cho con người sống thật người hơn.
Biểu tượng được hiểu là hình ảnh được tái hiện, được hình dung lại với
những thuộc tính nổi bật của sự vật hiện tượng, gắn với một mơi trường văn
hố cụ thể. Thuộc tính nổi bật đó chuyển hố thành biểu tượng phi trực quan
khiến nó có một sự biến đổi về chất so với biểu tượng được thu nhận trực tiếp,
cho nên cái biểu trưng và cái được biểu trưng, cái cụ thể và cái đã thành biểu
tượng không đồng nhất. Cái biểu trưng, cái cụ thể có thể nắm bắt được, phân
tích được vì nó mang tính chất vật thể. Cịn cái được biểu trưng, cái biểu tượng
văn hố thì ln biến đổi vì nó mang tính chất phi vật thể, mang giá trị tinh
thần. Tác phẩm báo chí là sản phẩm văn hóa mà văn hố là thế giới thứ hai, thế
giới do hoạt động sáng tạo của con người tác động vào tự nhiên mà sinh thành
cho nên biểu tượng văn hố tự bản thân nó đã phá vỡ các khuôn khổ định sẵn
và tập hợp các thái cực lại trong cùng một ý niệm mang tính quy ước. Vấn đề
là ở chỗ ý nghĩa của biểu tượng sẽ phát sinh trong ngữ cảnh, trong mơi trường
văn hố mới, mà văn hoá lại vừa ổn định vừa phát triển. Một biểu tượng đặt
trong ngữ cảnh này có một ý nghĩa nhất định, nhưng khi ngữ cảnh văn hoá thay
đổi thì ý nghĩa của biểu tượng văn hố khơng còn được giữ nguyên. Cho nên
sử dụng biểu tượng đòi hỏi nhận thức và khả năng huy động vốn văn hóa xã
hội của mỗi người cầm bút, khi đó biểu tượng văn hóa sẽ trở thành thước đo
năng lực sáng tạo của nhà báo.
13


Mỗi nền văn hóa lại có cách dùng cách hiểu về một biểu tượng văn
học không thống nhất, mặc dù bản thân biểu tượng ln có tính phổ biến, tính
đơn giản và gần gũi. Trên thế giới mọi nền văn hoá đều sử dụng các biểu
tượng văn hoá để biểu đạt nhận thức của con người, dùng biểu tượng để khám
phá ra những giá trị nhằm biểu hiện những ý nghĩa nào đó mà lý trí khó nắm
bắt. Biểu tượng văn hoá được sử dụng với chức năng thay thế, thay cho những
câu trả lời bằng những biểu tượng văn hoá để làm phong phú thêm cho khám

phá nhận thức. Biểu tượng văn hoá đồng thời thực hiện chức năng giao tiếp
nhằm giúp con người liên kết lại với nhau, giúp con người hồ đồng với mơi
trường xã hội, biểu thị được những giá trị đã trở thành chuẩn mực văn hố của
cộng đồng. Trên trang báo Việt Nam, hình ảnh “Trái tim Đancơ” cũng mang
giá trị văn hóa linh thiêng như vai trị của nó trong đời sống tinh thần của văn
hóa Nga. Những cơ bé Lọ lem, những chàng Rôbinsơn vốn không quen thuộc
với người Việt xưa nay khơng cịn xa lạ nữa, người làm báo mượn hình ảnh
nhân vật đã trở thành biểu tượng văn hóa khơng phải là để sao chép một phiên
bản, mà là để khám phá linh hồn cuộc sống bằng quyền năng của nghệ sĩ
ngôn từ, quyền năng sáng tạo của nghệ sĩ trong hoạt động sáng tạo báo chí.
Nếu coi văn hố là một quan hệ thì đó là mối quan hệ giữa thế giới biểu
tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng
của một cá nhân, một tộc người so với một cá nhân khác, một tộc người khác.
Sự lựa chọn ấy làm nên bản sắc là cái riêng biệt của mỗi nền văn hố. Hiểu
như vậy thì một nền văn hố ln mang trong nó các hệ thống biểu tượng vừa
có tính ổn định tương đối vừa luôn biến đổi. Biểu tượng văn hoá phải được
xem xét trong mối liên hệ phổ biến và sự vận động phát triển. Khi đi vào tác
phẩm báo chí, biểu tượng văn hố lại phát sinh một đời sống riêng, bởi sản
phẩm của hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí vừa tuân theo chuẩn mực của
quy luật xã hội, vừa là dấu ấn cá tính sáng tạo độc đáo tự do. Tác phẩm báo
chí vì thế là kết quả của sự hợp nhất giữa cá nhân và cộng đồng, giữa khách
thể và chủ thể, giữa vơ thức và ý thức. Nếu coi văn hố của một dân tộc sản
sinh ra các biểu tượng gốc thì khi biểu tượng này được sinh thành trong văn
14


hố nghệ thuật, nó đã có q trình dịch chuyển biến đổi. Biểu tượng nghệ
thuật là những hình ảnh, những tín hiệu, những sắc màu trong tác phẩm nghệ
thuật có tính khái qt và phổ biến, có khả năng gợi ra hình ảnh khác, đặc
trưng khác với đối tượng biểu hiện. Biểu tượng trong tác phẩm nghệ thuật

được nuôi dưỡng bằng tư duy thẩm mỹ và năng lực sáng tạo của nghệ sĩ mà
thước đo tư duy và năng lực sáng tạo ấy ở mỗi người mỗi khác nhau. Có thể
trong một mơi trường văn hố nhưng ý nghĩa của biểu tượng trong tiếp nhận
của mỗi người, mỗi nhóm người với tư cách là chủ thể sáng tạo vừa đồng nhất
vừa khác biệt. Đó là bởi biểu tượng trong thế giới nghệ thuật phải vừa độc
đáo khác biệt vừa thống nhất và phổ biến, nó được sử dụng như một ẩn dụ
mang tính quy ước.
Biểu tượng như là một đơn vị cơ bản của văn hố. Đó là hình thức của
nhận thức cao hơn cảm giác cho ta thu giữ hình ảnh của sự vật sau khi tác động
của sự vật vào giác quan đã chấm dứt. Các biểu tượng làm phát lộ những bí ẩn
của vơ thức, khai mở trí tuệ của con người về cái chưa biết. Biểu tượng là một
khái niệm rất rộng, tự bản thân nó đã phá vỡ các khuôn khổ định sẵn, cảm nhận
biểu tượng là cơng việc hết sức khó khăn. Bởi bản thân biểu tượng cũng mang
tính chất biến đổi khơng ngừng, cho nên để nắm bắt được biểu tượng không chỉ
căn cứ vào diện mạo của nó, mà cịn phải nhìn nhận sự vận động của nó trong
mơi trường văn hố, nghĩa là xem xét vai trò của biểu tượng gắn với thời gian
và khơng gian xác định. Ví như hình ảnh ngọn lửa, bản thân nó tổng hợp những
biểu hiện xung đột lẫn nhau trong nhận thức của mỗi một con người. Vào thời
điểm này, gắn với môi trường văn hố này thì ngọn lửa sẽ là biểu tượng của
khát vọng sinh sôi, của sự ấm nồng và mạnh mẽ, của nhiệt huyết và đam mê.
Nhưng trong môi trường văn hố khác, hình ảnh ngọn lửa gợi lên sự huỷ diệt
tàn khốc, khiến người ta liên tưởng tới chết chóc đau thương, đó là kẻ thù của
sự sống. Giá trị của biểu tượng được xác định nằm trong chính sự chuyển vượt
từ cái cụ thể sang trừu tượng, cái đã biết sang cái chưa biết, cái tường minh
sang cái hàm ẩn.
Biểu tượng được sáng tạo dựa vào năng lực tượng trưng hoá của con
15


người theo cách dùng hình ảnh này để bày tỏ ý nghĩa kia nhằm để nhận thức

và khám phá một giá trị nào đó theo qui ước bất thành văn, nhưng chính qui
ước đó lại qui định mọi hành vi ứng xử và giao tiếp của con người, đồng thời
liên kết họ thành một cộng đồng riêng biệt bởi một cảm quan văn hố đồng
nhất. Ví như với người Việt Nam thì Khuê Văn các, Quốc tử giám là biểu
tượng thiêng liêng của truyền thống ngàn năm văn hiến, tôn trọng hiền tài là
nguyên khí quốc gia. Hồ Gươm thiêng liêng là nơi quy tâm của muôn triệu
con tim bởi lòng yêu nước, bởi tinh thần quật khởi quật cường, hồ Gươm là
nơi lắng hồn núi sông ngàn năm. Truyền thuyết về cha Rồng mẹ Tiên có khả
năng truyền lệnh kì diệu, bởi đó là cội nguồn huyết thống, nhắc nhở mỗi
chúng ta về nòi giống tổ tiên. Mỗi biểu tượng được hiểu như là hình ảnh
tượng trưng được cả cộng đồng chấp nhận và đồng thuận về hàm nghĩa, được
sử dụng trong một không gian rộng và thời gian dài. Các giá trị, các chuẩn
mực được kết tinh trong lịng các biểu tượng chính là yếu tố cốt lõi làm nên
bản sắc văn hoá của cộng đồng dân tộc, định hướng cho sự tìm kiếm hoặc lựa
chọn quan hệ ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội.
2. Báo chí và lao động sáng tạo báo chí
2.1. Báo chí và q trình phát triển
Báo chí được hiểu là ấn phẩm xuất bản và phát hành định kì phát triển
ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Báo chí ra đời và phát triển do nhu cầu
khách quan của xã hội về thông tin giao tiếp, nhu cầu này xuất hiện ngay
trong buổi bình minh của lịch sử lồi người và xã hội càng phát triển thì nhu
cầu này ngày càng trở nên cấp thiết. Nhưng trong buổi đầu của lịch sử, những
ấn phẩm xuất bản và phát hành định kì này chưa xuất hiện bởi sự phát triển
của khoa học kĩ thuật và công nghệ chưa đáp ứng những điều kiện vật chất
cho báo chí hình thành. Trình độ phát triển kinh tế văn hóa xã hội của mỗi
quốc gia vừa là điều kiện quyết định vừa là tác nhân ảnh hưởng trực tiếp tới
hoạt động báo chí, bên cạnh đó, hoạt động báo chí cũng chịu ảnh hưởng của
quan hệ giao lưu quốc tế với tư cách là một hoạt động thông tin đại chúng,
báo chí là một loại hình chính trị xã hội đặc thù bởi báo chí là một trong
16



những hệ thống xã hội, nội dung quan trọng nhất của báo chí chính là thơng
tin chính trị. Bác Hồ đã từng căn dặn các nhà báo Việt Nam là phải có lập
trường chính trị vững chắc bởi cán bộ báo chí cũng chính là chiến sỹ cách
mạng, cây bút trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Nhiệm vụ của người làm
báo là vô cùng quan trọng và vẻ vang, và để làm tròn nhiệm vụ ấy, người làm
báo phải không ngừng tu dưỡng đạo đức, nâng cao năng lực, hồn thiện kĩ
năng nghiệp vụ để báo chí Việt Nam có tính chun nghiệp, đáp ứng được
những nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống.
Trong lịch sử văn hóa của nhân loại, báo chí xuất hiện khơng đồng thời
ở các quốc gia. Ban đầu chỉ là những thông tin về những sự kiện văn hóa
chính trị, mỗi năm một vài lần được trao truyền ở Trung Quốc thời nhà Hán
gọi là Hán triều đề báo. Phải đến khi phương Tây bước vào phong trào văn
hóa Phục Hưng, cơng nghệ in ấn xuất hiện thì báo chí mới định hình dần. Báo
chí xuất hiện ban đầu ở Italia, và khi đó những tờ báo chính là bản thơng tin
hàng hóa có tên gọi la Ga-dét-ta, dần dần từ Ga-dét-ta ấy trở thành tên gọi của
Báo chí. Những tờ báo đầu tiên xuất hiện ở châu Âu muộn hơn rất nhiều nếu
so với những kiệt tác văn học đã xuất hiện từ trước Cơng ngun, nhưng báo
chí lại phát triển rất nhanh, mở rộng phạm vi thông tin và trở thành cơng cụ
đắc lực cho việc tun truyền chính trị, phổ biến tri thức khoa học kĩ thuật.
Đến cuối thế kỉ XX, thế giới đã hơn 53.000 tờ báo, hàng ngày phát hành trên
830 triệu bản. Báo chí Việt Nam xuất hiện muộn hơn so với nhiều nước trên
thế giới. Tờ báo đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn bằng tiếng Pháp là tờ Nam Kì
Viễn Chinh Cơng Báo do thống đốc Pháp ở Nam Kì cho xuất bản, phát hành
mỗi tuần một bản. Số đầu tiên được phát hành ngày 29/9/1861, đến năm 1888,
tờ báo bị đình bản. Tờ báo tiếng Việt đầu tiên xuất bản năm 1865 cũng tại Sài
Gòn là tờ Gia Định Báo. Tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo xuất bản năm
1892 ở Bắc Kì được in bằng chữ Nho. Kể từ đó, hàng loạt các báo xuất hiện
khắp ba miền Nam, Trung, Bắc. Tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam là

tờ Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc xuất bản tại Quảng Châu năm 1925, đặt
17


nền móng cho sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam. Từ đó cho đến nay,
báo chí Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hiện nay cả nước có hơn
700 cơ quan báo chí với hơn 800 ấn phẩm khác nhau: trên 170 báo, hơn 500
tạp chí các loại. Hơn 15.000 người được cấp thẻ nhà báo, hàng ngàn cán bộ
kĩ sư làm việc trong các cơ quan báo chí, hàng chục nghìn người khác là
cộng tác viên. Đặc biệt có khoảng 150 báo điện tử và các trang tin điện tử
của các cơ quan báo chí và hàng ngàn trang website của các cơ quan, tổ chức
doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả, đưa thơng tin đến mọi miền của
đất nước.
2.2. Lao động sáng tạo tác phẩm báo chí
Các loại hình báo chí của Việt Nam đều phát triển với tốc độ nhanh
chóng khiến báo chí trở thành một phương tiện đặc biệt của sự tương tác xã
hội, có vai trị và sức mạnh ngày càng lớn trong tất cả các lĩnh vực khác nhau
của đời sống.
Q trình sáng tạo một tác phẩm báo chí có liên quan mật thiết đến
những cơng việc của người nghệ sĩ khi sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật bởi
tác phẩm báo chí cũng là sản phẩm của sáng tạo, nó chứa đựng những điều kì
diệu mà đơi khi khơng thể nhận thức được bằng lý trí. Điều kì diệu ấy làm
nên sức hấp dẫn của báo chí, bởi tài năng và thế giới quan trong quá trình
sáng tạo một tác phẩm báo chí xuất phát từ tài năng của người cầm bút, tạo
nên đặc trưng hình tượng và tính truyền cảm cho tác phẩm báo chí. Người
làm báo là người biết quan sát, là người có trí tưởng tượng sáng tạo, có những
năng lực tư duy, có sự tích lũy tri thức. Sáng tạo ra tác phẩm báo chí là kì
cơng và sau khi tác phẩm được hồn thành nó sẽ được gửi tới độc giả như là
một thơng điệp để tác động đến tư tưởng tình cảm con người. Hoạt động sáng
tạo báo chí là lao động nghệ thuật tinh vi, phức tạp mang tính khoa học của

người làm báo nhằm tạo ra một tác phẩm báo chí. Q trình sáng tạo đó địi
hỏi phải tn thủ những nguyên tắc khách quan gắn với đặc trưng mỗi loại
18


hình báo chí, gắn với cá tính sáng tạo và khả năng sáng tạo của chủ thể bởi
mỗi người làm báo đều có một hồn cảnh sống, một lĩnh vực quen thuộc, một
phong cách sáng tạo riêng. Sáng tạo là hoạt động tạo ra cái mới, là biến đổi
diện mạo của thế giới khách quan, nhân hóa thế giới đó để nó trở thành sản
phẩm văn hóa phù hợp với quan niệm thẩm mỹ, nhận thức của con người và
nhằm hướng tới phục vụ con người. Lao động sáng tạo trong hoạt động báo
chí địi hỏi người làm báo phải luôn luôn tự nâng cao vốn kiến thức xã hội,
luôn có khát vọng vươn xa để tích lũy và mở rộng tầm hiểu biết, phải có một
năng lực tư duy sắc sảo và biện chứng để biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo, nắm bắt quy luật tự nhiên để cải tạo tự nhiên.
Báo chí với tư cách là sản phẩm văn hóa có chức năng đặc biệt quan
trọng, nó khơng chỉ mang tính định hướng xã hội, nó cịn thể hiện khả năng
nhìn nhận và thẩm định đời sống hiện thực xã hội ấy một cách biện chứng và
sâu sắc. Báo chí khơng chỉ định hướng mục đích của hành động, nó cịn thực
hiện chức năng giáo dục chính trị tư tưởng. Nói đến báo chí là nói đến hoạt
động truyền thơng. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, truyền thơng “là q
trình trao đổi thơng điệp giữa các thành viên hay các nhóm người trong xã hội
nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau. Hoạt động trao đổi thơng điệp có tính
phổ biến giữa nguồn phát với công chúng xã hội rộng rãi được gọi là truyền
thơng đại chúng”. Có thể hiểu truyền thơng là một khái niệm có nội hàm rộng,
là nội dung, cách thức, phương tiện để trao đổi thông tin nhằm đạt tới sự hiểu
biết giữa chủ thể truyền thông và đối tượng tiếp nhận, giữa cá nhân với cá
nhân, cá nhân với cộng đồng. Sự hiểu biết này là cơ sở nền tảng tạo nên sự
liên kết giữa các thành viên. Truyền thơng là hoạt động chuyển giao các thơng
tin có tính phổ biến trong xã hội để những thơng tin này có tác động tích cực

tới sự chuyển biến nhận thức, định hướng hành động một cách rộng rãi và
công khai thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, chính là đơng đảo
quần chúng nhân dân. Các phương tiện để chuyển tải thông tin đến với công
chúng hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các thiết chế xã hội đặc thù, các công cụ
19


kỹ thuật đặc biệt như phát thanh, truyền hình báo chí và đặc biệt là hệ thống
mạng Internet. Đặc điểm chung của các phương tiện này là khả năng truyền
đạt thông điệp đến nhiều đối tượng cùng một lúc, tác động sâu rộng đến các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối tượng tiếp nhận mang tính chất đại chúng,
hiệu quả và phạm vi ảnh hưởng cũng như quy mô và quá trình hoạt động đều
rất rộng. Theo nghĩa hẹp, nói đến truyền thơng là nói đến hoạt động của báo
chí gồm báo in, báo hình, báo mạng điện tử, báo phát thanh, tạp chí... Báo chí
cung cấp thơng tin với hai nghĩa, nếu xác định nó là danh từ thì thơng tin là
những hiểu biết, tri thức được thu nhận qua q trình nghiên cứu trao đổi, tích
lũy. Nếu coi thơng tin là một động từ thì nội hàm được xác định là hoạt động
truyền tin cho nhau. Với cách hiểu như vậy thì báo chí với tư cách là một loại
hình của truyền thơng đại chúng chính là cơ quan ngôn luận của cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, đồng thời là diễn đàn của nhân dân, đáp ứng nhu cầu
thông tin đa dạng đa chiều, nhanh chóng và chính xác.
Lao động sáng tạo báo chí sẽ tạo ra sản phẩm là tác phẩm báo chí. Các
tác phẩm được tạo ra sẽ tồn tại dưới các hình thức như báo in, báo nói, báo điện
tử theo các thể loại khác nhau như ghi chép, đưa tin, bút ký, phỏng vấn, phóng
sự điều tra, chuyên luận xã hội.... Tùy vào mỗi loại hình mà người làm báo sẽ
huy động tri thức và kĩ năng để sáng tạo. Lao động sáng tạo tác phẩm là loại
hình lao động đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sáng tạo báo chí nói
chung. Nó khơng phải là lao động tổ chức quản lý của các cán bộ lãnh đạo, các
ban biên tập ở tịa soạn. Nó cũng khơng giống với lao động giao tiếp xã hội là
khi các nhà báo thu thập tài liệu, thu thập và xử lý thông tin thơng qua hoạt

động giao tiếp với nguồn tin mà mình muốn khai thác. Sáng tạo tác phẩm báo
chí là lao động dựa trên lao động giao tiếp xã hội, bởi kết quả của quá trình
giao tiếp sẽ được phản ánh trong nội dung tác phẩm, trong hiệu quả tác động
của tác phẩm đó đối với cơng chúng xã hội. Tác phẩm báo chí khơng chỉ chứa
đựng thơng tin mà cịn thể hiện năng lực nghề nghiệp, năng lực tư duy, quan
điểm chính trị, quan điểm thẩm mỹ, tâm tư tình cảm của người tạo ra nó. Tác
20



×