Tải bản đầy đủ (.pdf) (222 trang)

(Luận án tiến sĩ) vishnu giáo ở đông nam á lục địa từ những thế kỷ đầu công nguyên đến đầu thế kỷ xiii

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.4 MB, 222 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM H NI


DNG TH NGC MINH

VISHNU GIáO ở ĐÔNG NAM á LụC ĐịA Từ NHữNG
THế Kỉ ĐầU CÔNG NGUYÊN ĐếN ĐầU THÕ KØ XIII
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới
Mã số: 62.22.03.11

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Đinh Ngọc Bảo
2. PGS.TS. Ngô Văn Doanh

HÀ NỘI - 12/2014

luan an


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS. Đinh Ngọc Bảo và PGS.TS. Ngô Văn Doanh.
Các tư liệu và kết quả trong luận án là hoàn toàn trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận án

Dương Thị Ngọc Minh



luan an


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.
Đinh Ngọc Bảo và PGS.TS. Ngô Văn Doanh, những người thầy luôn tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ và dành những điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian thực hiện
luận án. Với tôi, các thầy là những nhà khoa học mẫu mực, là tấm gương sáng để
tôi phấn đấu noi theo trên con đường khoa học và trong cuộc sống.
Tôi xin chân thành cảm ơn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại
học Đồng Tháp đã tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi được tập trung nghiên
cứu trong suốt thời gian làm luận án.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lịng biết ơn của mình tới GS. TS Lương Ninh, TS.
Dương Duy Bằng, PGS. TS Lương Kim Thoa, các thầy giáo, cô giáo và các cán bộ của
khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã trang bị kiến thức, chia sẻ kinh
nghiệm, động viên, khích lệ và hết lịng thương u, giúp đỡ tơi khơng chỉ trong thời
gian học tập, nghiên cứu mà cả những tháng năm sau này trong cuộc sống.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới các cô chú, các anh chị đang công tác tại
các Bảo tàng: Bảo tàng Quốc gia Campuchia, Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí
Minh, Bảo tàng Mỹ thuật TP. HCM, Bảo tàng Đồng Tháp, Bảo tàng Long An, Bảo
tàng Tiền Giang, Bảo tàng Đồng Nai, Bảo tàng An Giang... đã nhiệt tình giúp đỡ tơi về
tư liệu, tài liệu trong suốt q trình thực hiện luận án.
Đặc biệt, trong suốt thời gian thực hiện luận án, tôi luôn nhận được sự hợp
tác trong công việc, đoàn kết giúp đỡ trong cuộc sống của các anh chị, bạn bè trong
nhóm NCS và các bạn bè thân hữu.
Sau cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến những người thân trong gia
đình, bạn bè đồng nghiệp đã luôn động viên, giúp đỡ để tôi hoàn thành luận án này.
Hà Nội, tháng 6 năm 2014
Tác giả


Dương Thị Ngọc Minh

luan an


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................4
4. Nguồn tài liệu ......................................................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................6
6. Đóng góp của đề tài.............................................................................................7
7. Bố cục Luận án....................................................................................................7
Chương 1: TỔNG QUAN......................................................................................8
1.1. Giai đoạn trước năm 1975..............................................................................8
1.2. Giai đoạn sau năm 1975 ...............................................................................12
1.2.1. Các nghiên cứu của học giả nước ngoài ..................................................13
1.2.2. Các nghiên cứu của học giả trong nước ..................................................18
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................27
Chương 2: ĐÔI NÉT VỀ VISHNU GIÁO VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA
VISHNU GIÁO Ở ĐÔNG NAM Á LỤC ĐỊA QUA CÁC TÀI LIỆU
KHẢO CỔ ...........................................................................................................29
2.1. Đôi nét về Vishnu giáo – một nhánh của Hindu giáo ở Ấn Độ ...................29
2.1.1. Thần Vishnu trong thần thoại Ấn Độ và sự tôn thờ Vishnu ở Ấn Độ ........30
2.1.2. Các thuyết cơ bản trong Vishnu giáo .......................................................32
2.2. Sự hiện diện của Vishnu giáo ở Đông Nam Á lục địa qua các tài liệu khảo cổ......38
2.2.1. Văn bia ....................................................................................................40

2.2.2. Di tích đền tháp .......................................................................................43
2.2.3. Di vật tượng ............................................................................................47
2.2.4. Phù điêu ..................................................................................................58
2.2.5. Các hiện vật bằng vàng mang nội dung Vishnu giáo................................60
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................67
Chương 3: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA VISHNU GIÁO Ở ĐƠNG
NAM Á LỤC ĐỊA TỪ NHỮNG THẾ KỈ ĐẦU CÔNG NGUYÊN ĐẾN
ĐẦU THẾ KỈ XIII...............................................................................................68

luan an


3.1. Giai đoạn thứ nhất (Từ đầu Công nguyên đến thế kỉ VIII)........................68
3.1.1. Từ đầu Công nguyên đến thế kỉ IV ...........................................................68
3.1.2. Từ thế kỉ V đến thế kỉ VIII........................................................................70
3.2. Giai đoạn thứ hai (Từ thế kỉ IX đến đầu thế kỉ XIII) .................................83
3.2.1. Nam Trung bộ và Nam bộ Việt Nam ........................................................84
3.2.2. Campuchia ..............................................................................................88
3.2.3. Miền Trung và Nam Thái Lan................................................................ 104
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 109
Chương 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ VISHNU GIÁO Ở ĐÔNG NAM Á
LỤC ĐỊA............................................................................................................110
4.1. Về niên đại ..................................................................................................110
4.2. Về địa bàn phân bố của các di tích, di vật Vishnu giáo ở ĐNA lục địa ....114
4.3. Ảnh hưởng của Vishnu giáo đối với đời sống chính trị - xã hội, văn hố
– nghệ thuật của ĐNA lục địa từ thế kỉ I đến đầu thế kỉ XIII ......................... 119
4.3.1. Tín ngưỡng Thần - Vua mang sắc thái Vishnu giáo ...............................119
4.3.2. Sự hoà nhập của Vishnu giáo đối với đời sống thế tục của cung đình ....126
4.3.3. Sự ảnh hưởng rộng rãi của Vishnu giáo trong các tầng lớp xã hội ........129
4.3.4. Ảnh hưởng của Vishnu giáo đến nghệ thuật kiến trúc – điêu khắc ......... 131

4.4. Yếu tố bản địa trong quá trình phát triển của Vishnu giáo ở ĐNA lục địa....135
4.4.1. Một số điểm khác biệt giữa Vishnu giáo ở ĐNA lục địa với Vishnu giáo
Ấn Độ .............................................................................................................. 136
4.4.2. Sự đa dạng trong tín ngưỡng thờ Vishnu giữa các quốc gia ĐNA lục địa...139
4.4.3. Sự hồ hợp giữa Vishnu giáo với các tơn giáo, tín ngưỡng khác............140
4.4.4. Dấu ấn riêng từ những pho tượng Vishnu ở Đông Nam Á lục địa ..........147
Tiểu kết chương 4 .............................................................................................. 152
KẾT LUẬN........................................................................................................154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................159
PHỤ LỤC

luan an


CHỮ VIẾT TẮT

BEFEO : Bullentin de L’Ecole Francaise d’Extrême – Orient
BT

: Bảo tàng

BTĐK

: Bảo tàng điêu khắc

BTLS

: Bảo tàng Lịch sử

BTQG


: Bảo tàng Quốc gia

ĐNA

: Đông Nam Á

ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
EFEO

: Ecole Francaise d’Extrême – Orient

luan an


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hinđu giáo là tôn giáo lớn đã phát sinh và phát triển ở Ấn Độ. Đây là một tơn
giáo khơng có đức giáo chủ, khơng có sự truyền thừa một cách chính thức, bài bản
từ đời này sang đời khác cho nên tính chất phân hố trong tơn giáo này được thể
hiện rất rõ. Ở Bắc Ấn, đẳng cấp quý tộc phát triển sự sùng bái Vishnu, vốn là biểu
tượng thần lực của Mặt trời có từ xưa ở miền Tây Ấn Độ, đề cao Vishnu tới mức
tuyệt đối, vượt lên cả Brahma. Còn ở miền Nam Ấn – nơi tụ cư của các cộng đồng
lấy nông nghiệp làm phương thức canh tác cơ bản thì lại tơn thờ đấng huỷ diệt
Shiva. Do đó, Hinđu giáo trong thực tế đã phân chia thành hai nhánh: Vishnu giáo
với sự đề cao và tôn thờ tuyệt đối vị thần Vishnu và Shiva giáo với sự tôn thờ tuyệt
đối vị thần chủ của mình.
Ngay từ những thế kỉ đầu Công nguyên, do tác động của những yếu tố kinh
tế - chính trị - xã hội trong khu vực và sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Hinđu

giáo đã lan toả đến một vùng đất rộng lớn của ĐNA, thâm nhập vào đời sống của cư
dân ở đây tạo nên lịng sùng kính, say mê, hỗ trợ tinh thần và là nguồn cảm hứng
sáng tạo nghệ thuật. Cùng với Shiva giáo, Vishnu giáo cũng được du nhập và phát
triển ở khu vực ĐNA lục địa. Vì vậy, một luận điểm khoa học mới được đặt ra là:
khi được truyền vào cùng với làn sóng Hinđu thì Vishnu phát triển như thế nào? Có
liên tục khơng? Tồn tại độc lập hay song song với Shiva giáo? Có những tương
đồng và khác biệt như thế nào nếu đặt Vishnu giáo ở đây trong sự so sánh với Ấn
Độ, thậm chí giữa các nước trong khu vực với nhau? Đồng thời nó có ảnh hưởng
như thế nào đối với đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tơn giáo – tín
ngưỡng của cư dân ĐNA?...
Luận điểm khoa học trên cho thấy việc nghiên cứu về Vishnu giáo, một môn
phái của Hinđu giáo, trở nên cấp thiết và cần được quan tâm nghiên cứu vì những lý
do sau:

luan an


2
1. Sự ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ nói chung và tơn giáo Ấn Độ nói riêng
đối với sự ra đời và phát triển của các quốc gia ĐNA đã được nghiên cứu từ rất sớm
và mang lại nhiều kết quả q giá với nhiều cơng trình quy mơ và nhiều thành tựu
khảo cổ gây ngạc nhiên, thú vị. Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu này chủ
yếu chỉ nghiên cứu về Hinđu giáo nói chung chứ chưa đặt Vishnu giáo thành một
đối tượng độc lập.
2. Khi nghiên cứu về Hinđu, đa số các học giả cũng chỉ nhìn thấy sự tơn thờ
phổ biến hình tượng Shiva ở những quốc gia cổ như Champa hay Chân Lạp, còn
vấn đề về sự tôn thờ Vishnu chỉ được đề cập một cách “lống thống”, Vishnu giáo
có tồn tại hay khơng và được biểu hiện cụ thể như thế nào vẫn chưa được quan tâm
nghiên cứu đúng mức. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề khoa học mới mẻ cần được
quan tâm, nghiên cứu.

3. Văn hóa và tơn giáo Ấn Độ đã từng lan tỏa và bén rễ ở ĐNA từ rất sớm,
hịa quyện vào nền văn hóa của khu vực, trở thành một bộ phận khó tách rời và góp
phần làm phong phú thêm nền văn hóa ĐNA. Vì vậy, việc chứng minh sự tồn tại và
phát triển của Vishnu giáo ở ĐNA lục địa sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm nhiều khía
cạnh lịch sử - văn hóa của khu vực trong khoảng mười ba thế kỉ sau Công nguyên,
trước sự lan tỏa và ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ.
4. Nghiên cứu về Vishnu giáo không chỉ đơn thuần giải đáp những vấn đề
khoa học dưới góc độ lịch sử, tơn giáo – tín ngưỡng hay văn hóa – nghệ thuật mà
còn mang lại những tư liệu quý giá đối với việc nghiên cứu lịch sử văn minh và văn
hoá của khu vực trong mối quan hệ giữa các nước trong khu vực với nhau và với
các yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài, đặc biệt là từ Ấn Độ.
5. Bất kì một bằng chứng nào về sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến ĐNA
đều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay – khi mà
mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa ĐNA nói chung và Việt Nam nói riêng với Ấn
Độ đang được thiết lập trở lại dựa trên mối quan hệ lịch sử - văn hóa lâu đời, đang
rất cần những sợi dây liên kết từ quá khứ. Mối liên hệ lâu đời và bền chặt này là cơ
sở vững chắc cho quan hệ tốt đẹp giữa hai nước trong hiện tại và tương lai.

luan an


3
6. Ngày nay, việc giảng dạy về lịch sử - văn hóa ĐNA ở các trường Cao
đẳng, Đại học và nhà trường Phổ thông đang rất cần những tư liệu chuyên sâu về
khu vực này, đặc biệt là ở lĩnh vực văn hóa – xã hội, tơn giáo – tín ngưỡng. Vì vậy,
việc nghiên cứu về sự tồn tại và phát triển của môn phái Vishnu giáo, đặt trong bối
cảnh chung của khu vực, sẽ mang lại một nguồn tài liệu vô cùng ý nghĩa đối với
việc giảng dạy các nội dung về lịch sử - văn hóa ĐNA nói chung và ĐNA lục địa
nói riêng, đặc biệt thời kì cổ trung đại.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Vishnu giáo ở Đông Nam Á lục địa

từ những thế kỉ đầu Công nguyên đến đầu thế kỉ XIII” làm đề tài nghiên cứu luận
án của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận án là Vishnu giáo ở ĐNA lục địa về: sự hiện
diện, q trình phát triển và vai trị của tơn giáo này trong đời sống chính trị – văn
hoá – xã hội ở ĐNA lục địa từ những thế kỉ đầu Công nguyên đến đầu thế kỉ XIII.
2.2. Phạm vi
- Thời gian: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về sự tồn tại và phát triển Vishnu
giáo này ở ĐNA lục địa trong khoảng thời gian từ những thế kỉ đầu Công nguyên
đến đầu thế kỉ XIII. Đây là giai đoạn lịch sử mà những ảnh hưởng của Hinđu giáo ở
ĐNA nói chung và ĐNA lục địa nói riêng còn rõ ràng nhất, chưa bị lu mờ trước sự
ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo và sự du nhập của những tôn giáo mới như Hồi
giáo hay Thiên Chúa giáo của phương Tây.
- Không gian: không gian nghiên cứu của đề tài là vùng lục địa ĐNA trong
khoảng mười ba thế kỉ sau Công nguyên, nơi từng chứng kiến sự ra đời, phát triển
và suy vong của nhiều quốc gia cổ như Phù Nam, Champa, Đốn Tốn, Dvaravati,
Haripunjaya và cả những đế chế phong kiến trong khu vực như Chân Lạp-Angkor.
Do nguồn tài liệu còn hạn chế, đề tài chưa thể tiếp cận được với những thành tựu
khảo cổ về lịch sử - văn hoá của Mianma – nơi từng là địa bàn của nhiều quốc gia
cổ hùng mạnh như Sri Ksetra hay vương triều phong kiến Pagan và cũng từng đón

luan an


4
nhận những luồng ảnh hưởng từ văn hố và tơn giáo Ấn Độ, nên chưa thể đưa ra
những công bố hay đánh giá gì về thực trạng tồn tại và phát triển của Vishnu giáo ở
vùng lãnh thổ này thời cổ trung đại. Đồng thời, khu vực Bắc bộ Việt Nam thời kì
này chịu ảnh hưởng chủ yếu của văn hóa Trung Quốc nên các yếu tố của tơn giáo

Ấn Độ khá mờ nhạt ở đây. Vì vậy, đề tài chỉ tập trung làm rõ thực trạng phát triển
Vishnu giáo trong giới hạn địa bàn của Nam Trung bộ và Nam bộ Việt Nam,
Campuchia, Nam Lào và Thái Lan.
- Về nội dung khoa học: Thông qua các nguồn tài liệu khảo cổ, đề tài chỉ tập
trung làm rõ sự hiện diện, các giai đoạn phát triển và sự ảnh hưởng của Vishnu giáo
đối với đời sống văn hoá – xã hội của cư dân ĐNA lục địa từ những thế kỉ đầu Công
nguyên đến đầu thế kỉ XIII mà không đề cập đến thời điểm xuất hiện của nó ở khu
vực này. Đồng thời, tác giả chỉ tiếp cận Vishnu giáo dưới góc độ sử học mà khơng
xem xét về khía cạnh tơn giáo học.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Đề tài hướng đến mục tiêu là khẳng định sự tồn tại và phát triển của Vishnu
giáo ở khu vực ĐNA lục địa trong khoảng thời gian từ đầu Công nguyên đến đầu
thế kỉ XIII thông qua những tài liệu khảo cổ học được phát hiện, nghiên cứu. Qua
đó, đánh giá về những ảnh hưởng của Vishnu giáo nói riêng và Hinđu giáo nói
chung tới đời sống chính trị - xã hội – văn hố của khu vực.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về Vishnu giáo, về quá trình ảnh hưởng
của văn hoá Ấn Độ và cách tiếp cận Vishnu giáo ở ĐNA lục địa.
- Chứng minh sự hiện diện của Vishnu giáo ở ĐNA lục địa từ thế kỉ I đến thế
kỉ XIII thông qua các nguồn tài liệu văn bia, các di tích đền tháp, các hiện vật khảo
cổ, đặc biệt là hệ thống các tượng thần Vishnu được tìm thấy trên các vùng lãnh thổ
thuộc lục địa ĐNA.
- Khái quát các giai đoạn phát triển của Vishnu giáo ở ĐNA lục địa qua hệ
thống niên đại và mật độ phân bố của các di tích kiến trúc và di vật điêu khắc.

luan an


5

- Đánh giá sự ảnh hưởng của Vishnu giáo đến đời sống chính trị - văn hố –
xã hội của cư dân ĐNA lục địa trong khoảng 13 thế kỉ sau Công nguyên.
- Làm rõ yếu tố “bản địa” trong tín ngưỡng thờ Vishnu của cư dân ĐNA lục
địa. Từ đó góp phần làm sáng tỏ hơn về sức sống mãnh liệt và sự sáng tạo của cư
dân bản địa trong sự tiếp nhận ảnh hưởng của tôn giáo bên ngoài.
4. Nguồn tài liệu
Để phục dựng lại bức tranh về Vishnu giáo ở ĐNA lục địa trong khoảng
mười thế kỉ đầu Công nguyên, tác giả chủ yếu dựa vào các nguồn tài liệu chính:
- Tài liệu khảo cổ: đó là những phát hiện khảo cổ của các học giả trong và
ngoài nước, từ những phát hiện đầu tiên là những bức tượng thần Vishnu cho đến
những kiến trúc đền tháp, những di vật tơn giáo liên quan đến hình tượng thần
Vishnu. Hiện nay các cơng trình kiến trúc tơn giáo này hầu hết đều bị hư hỏng nặng,
chỉ còn lại dấu vết kiến trúc. Ngược lại, hệ thống các tượng thần Vishnu (chủ yếu
bằng chất liệu đá sa thạch) vẫn cịn được lưu giữ trong tình trạng khá tốt tại các Bảo
tàng với một số lượng khá lớn (hơn 60 tượng), bên cạnh các di vật phong phú liên
quan đến vị thần này.
- Tài liệu văn bia: trong số hàng trăm văn bia được phát hiện ở ĐNA lục địa,
theo thống kê hiện có khoảng hơn 50 văn bia mang nội dung về sự tôn thờ Vishnu
giáo. Những văn bia này cơ bản đã được dịch trong cơng trình “Nghiên cứu chữ viết
cổ trên bia ký ở Đông Dương” của Thái Văn Chải do Tỳ Kheo Thiện Minh Dịch.
Bên cạnh đó, tác giả cịn sử dụng bản dịch của các học giả nổi tiếng khác như:
Lương Ninh, Nguyễn Thừa Hỷ…
- Thư tịch cổ Trung Quốc: đã được nghiên cứu và trích dẫn trong nhiều cơng
trình của các học giả trong và ngồi nước.
- Các cơng trình nghiên cứu tổng hợp: của các học giả trong và ngoài nước
về Hinđu giáo nói chung và Vishnu giáo nói riêng. Các cơng trình đó được cơng bố
chủ yếu bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Việt. Trong những năm gần đây, rất
nhiều cơng trình cứu của các học giả nước ngoài đã được dịch sang tiếng Việt tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho việc nghiên cứu.


luan an


6
- Tài liệu điền dã: là các kết quả tác giả thu nhận được trong quá trình đi thực
địa tại Campuchia và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là tại các điểm di
tích khảo cổ và các Bảo tàng.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Tác giả vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
nền tảng nhận thức, tư duy logic để tìm hiểu quá trình phát sinh, du nhập và phát
triển của Vishnu giáo ở ĐNA lục địa. Đó là một quá trình vừa có sự hình thành,
phát triển và biến đổi vừa có tính độc lập tương đối vừa có tính kế thừa. Trong mối
quan hệ giữa yếu tố nội sinh và ngoại nhập, giữa tiếp thu và sáng tạo được xem là
động lực của sự phát triển và biến đổi của tôn giáo này.
5.2. Phương pháp lịch sử và phương pháp logic
Đây là hai phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học lịch sử giúp
làm rõ quá trình hình thành, du nhập, phát triển và biến đổi của Vishnu giáo ở ĐNA
lục địa. Từ đó khái quát được các giai đoạn phát triển cũng như đặc điểm của
Vishnu giáo ở ĐNA lục địa đặt trong mối quan hệ với Ấn Độ và khu vực.
5.3. Phương pháp liên ngành
Tác giả sử dụng cơng trình nghiên cứu của các ngành khoa học khác như:
khảo cổ học, cổ tự học, dân tộc học, đặc biệt là phương pháp nghiên cứu nghệ thuật
– tôn giáo.
Trong nghệ thuật kiến trúc - điêu khắc, đền tháp và tượng thờ là loại hình
tiêu biểu thể hiện tập trung nhất hình ảnh đặc trưng của nghệ thuật – tôn giáo. Đồng
thời các đền tháp và tượng thờ ngoài việc chứa đựng hệ thống ký hiệu, các biểu
trưng và ý tưởng thẩm mỹ còn thể hiện cả ước vọng tâm linh, những quy phạm tơn
giáo và q trình cảm thụ tôn giáo. Trong những điều kiện lịch sử nhất định, nghệ
thuật luôn vận hành chủ yếu là nhằm đáp ứng nhu cầu của tôn giáo.

5.4. Phương pháp điền dã, thực địa
Nhằm đảm bảo tính khoa học của đề tài, việc nghiên cứu cần được tiến hành
trên cơ sở quan sát, tìm hiểu thực địa tại các di tích khảo cổ, các cơng trình kiến trúc
tơn giáo thuộc địa bàn của các vương quốc cổ trước đây. Đặc biệt việc nghiên cứu

luan an


7
tại các Bảo tàng sẽ góp phần rất lớn vào việc đảm bảo sự thành công về mặt khoa
học của đề tài (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. Hồ Chí Minh, Bảo tàng Mỹ thuật
TP.HCM, Bảo tàng quốc gia Phnom Pênh, Bảo tàng quốc gia BangKok, Bảo tàng
Chăm ở Đà Nẵng và Bảo tàng của các tỉnh ở Nam Bộ: Bảo tàng Tây Ninh, Đồng
Nai, Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Trà
Vinh, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long…).
6. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu về Vishnu giáo ở ĐNA lục địa sẽ mang lại những đóng
góp nhất định về mặt khoa học và thực tiễn:
1. Khẳng định sự hiện hữu của tôn giáo này ở khu vực, điều mà trước đây
chưa được đề cập tới một cách đầy đủ trong bất kì cơng trình nghiên cứu nào.
2. Góp phần làm sáng tỏ hơn những ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ tới
ĐNA thông qua việc truyền bá một tôn giáo cụ thể.
3. Nhận thức đầy đủ hơn về đời sống văn hoá tinh thần, sự sáng tạo của cư
dân bản địa và mối quan hệ văn hoá trong khu vực khoảng mười ba thế kỉ đầu
Công nguyên.
7. Bố cục Luận án
Luận án được trình bày trong 160 trang, bao gồm phần mở đầu, 4 chương
nội dung, kết luận và tài liệu tham khảo. Cụ thể cấu trúc của luận án như sau:
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan

Chương 2: Đôi nét về Vishnu giáo và sự hiện diện của Vishnu giáo ở Đông
Nam Á lục địa qua các tài liệu khảo cổ
Chương 3: Quá trình phát triển của Vishnu giáo ở Đông Nam Á lục địa từ
những thế kỉ đầu Công nguyên đến đầu thế kỉ XIII
Chương 4: Một số nhận xét về Vishnu giáo ở Đông Nam Á địa
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Các kết quả chính của luận án được công bố trong 08 bài báo trên các tạp chí
chuyên ngành trong nước.

luan an


8
Chương 1: TỔNG QUAN
Việc nghiên cứu về lịch sử - văn hố ĐNA thật ra đã có một bề dày lịch sử,
đặc biệt là sau sự ra đời của trường Viễn Đông Bác cổ (EFEO). Nhiều vấn đề về
lịch sử - văn hoá của khu vực ĐNA và ở từng quốc gia cụ thể đã được tháo gỡ dần
dưới ánh sáng của khoa học, đặc biệt là các vấn đề về tơn giáo – tín ngưỡng, văn
học – nghệ thuật và mối quan hệ của nó với nền văn minh Ấn Độ.
1.1. Giai đoạn trước năm 1975
Lịch sử nghiên cứu về ĐNA từ rất sớm đã gắn liền với tên tuổi của các học
giả phương Tây, trước hết là những học giả Pháp của trường Viễn Đông Bác cổ
(EFEO) như G.Coedes, P.Dupont, L.Malleret, H.Parmentier, J. Boisserlier...
Năm 1927, xuất hiện cuốn sách khá đồ sộ của H.Parmentier “L’Art Khmèr
Primitif” (Nghệ thuật Khmer ngun thuỷ). Đây là cơng trình quy mơ đầu tiên
nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc và các di vật tôn giáo ở khu vực Đông Dương và
một phần Thái Lan. Lần đầu tiên giới khoa học và công chúng được biết đến một
nền nghệ thuật cổ xưa đã từng tồn tại trên một vùng đất rộng lớn của đế quốc

Khmer mà trong nó tràn ngập những biểu tượng tôn giáo Ấn Độ từ Hinđu giáo đến
Phật giáo, dĩ nhiên, những biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình về Vishnu cũng
được tác giả đề cập đến nhưng chưa thật sâu sắc và tỉ mỉ.
L.Malleret cũng là người đã dành rất nhiều thời gian và công sức nghiên cứu
về cổ sử ĐNA. Tuy nhiên, gần như ông dành hầu hết niềm đam mê và tâm huyết
của mình cho cơng việc khai quật khảo cổ và nghiên cứu về cổ sử của khu vực
ĐBSCL – địa bàn chính của vương quốc Phù Nam và nền văn hố Ĩc Eo. Từ những
phát hiện và khai quật của mình, ơng đã cho ra đời một cơng trình vơ cùng đồ sộ và
khá nổi tiếng là “L’archéologie du Delta du Mékong” (Khảo cổ học ĐBSCL - Tư
liệu dịch của Viện Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh), gồm 4 tập, xuất bản
trong thời gian bốn năm (1959 – 1963). Trong cơng trình nghiên cứu của mình, L.
Malleret đã cơng bố đến 165 tượng Phật giáo và Hinđu giáo được phát hiện ngẫu
nhiên hoặc qua các cuộc thám sát, khai quật khảo cổ học. Trong đó bao gồm rất
nhiều những pho tượng Vishnu được phát hiện đầu tiên. Có thể nói từ cơng trình

luan an


9
nghiên cứu này, các hình tượng điêu khắc tượng và các loại hình di tích, niên đại đã
được trình bày một cách đầy đủ nhất. Các pho tượng được nghiên cứu ở góc độ
nghệ thuật, khảo cổ học và gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cư
dân. Do đó, cơng trình nghiên cứu của L. Malleret đã giúp phản ánh bước đầu về
đời sống vật chất và tinh thần của cư dân cổ vùng ĐBSCL dưới ánh sáng của nền
văn hố Ĩc Eo, đặc biệt là đời sống tơn giáo – tín ngưỡng mà trong đó Phật giáo và
Hindu giáo đóng vai trị rất quan trọng.
P. Dupont cũng là một học giả có nhiều đóng góp to lớn đối với việc nghiên
cứu cổ sử của ĐNA, đặc biệt là ở lĩnh vực khảo cổ học và nghệ thuật điêu khắc.
Ơng đã có một loạt các công bố như “La statuaire préangkorieme” (Tượng thời kỳ
tiền Angkor) 1955, “Archéologie mône de Dvàravati” (Khảo cổ học về vương quốc

Môn Dvaravati) (1959)... đem lại nhiều hiểu biết quan trọng về cổ sử của các quốc
gia ở lục địa ĐNA. Trong đó La statuaire préangkorienne là một cơng trình rất
cơng phu và có ý nghĩa quan trọng trong việc sắp xếp, phân loại hệ thống các điêu
khắc được phát hiện ở Nam Việt Nam và Campuchia mà tác giả gọi chung là “tiền
Angkor”. Việc định niên đại căn cứ vào việc so sánh với nghệ thuật điêu khắc Ấn
Độ và các khu vực khác ở ĐNA, đồng thời dựa vào tư liệu bia kí và các dấu tích
kiến trúc nên các lập luận của P. Dupont đưa ra có sức thuyết phục. Tuy nhiên, hạn
chế lớn nhất của P. Dupont là ơng vẫn chưa có được những hiểu biết đầy đủ về Phù
Nam. Do vậy trong hầu hết các tác phẩm của mình, ơng đều đồng nhất quan điểm
coi Phù Nam là một giai đoạn “tiền Khmer”. Có thể thấy đây không chỉ là hạn chế
của P. Dupont mà còn của nhiều học giả đương thời khi những thành tựu nghiên
cứu về Phù Nam còn chưa đầy đủ. Mặc dù vậy, khơng thể phủ nhận rằng P. Dupont
chính là học giả đầu tiên phát hiện ra sự tồn tại phổ biến và độc đáo của các pho
tượng Vishnu ở ĐNA lục địa. Cũng chính ơng là người đầu tiên đã phân loại, sắp
xếp các tượng Vishnu này thành hệ thống, đặt tên gọi và định dạng phong cách cho
từng loại tượng Vishnu. Sở dĩ ơng có được những nhìn nhận sâu sắc về các pho
tượng Vishnu ở ĐNA là vì ơng đã dành khá nhiều thời gian để sưu tầm, nghiên cứu
về nó. Trước đó, vào năm 1941, P.Dupont đã cơng bố một khảo cứu về hình tượng

luan an


10
thần Vishnu đội mũ trụ ở Đông Dương “Visnu Mitrés De L’Indochine
Occidentale”, trong đó tác giả đã thống kê và nghiên cứu, phân tích trên cơ sở 18
hiện vật tượng Vishnu được tìm thấy ở ĐBSCL và bán đảo Đơng Dương. P.
Duppont còn thử định niên đại cho những pho tượng Vishnu này và gọi chung là
tượng Vishnu “tiền Angkor”, xuất hiện trước hoặc sau năm 802 một chút.
Một điều dễ nhận thấy khi nhìn vào lịch sử nghiên cứu về khu vực ĐNA giai
đoạn này (trước 1975) là ngoài các học giả Pháp thì việc nghiên cứu lịch sử - văn

hoá khu vực ĐNA chưa được sự quan tâm nhiều của các học giả Anh, Mỹ hay
những nhà nghiên cứu lịch sử của khu vực. Tuy nhiên, giai đoạn này vẫn có những
ấn phẩm tiếng Anh gây chú ý trên diễn đàn học thuật. Đáng chú ý là tác phẩm “The
history of Southeast Asia” (Lịch sử ĐNA) của D.G. Hall – Gíao sư danh dự bộ mơn
lịch sử ĐNA trường đại học Luân Đôn – được xuất bản năm 1955, giúp mang lại cái
nhìn khái quát nhất nhưng cũng toàn diện nhất về các giai đoạn phát triển của lịch
sử ĐNA từ thời tiền sử đến đương đại. Mặc dù không đề cập trực tiếp nhưng tác giả
cũng đã phản ánh sơ lược về sự ảnh hưởng của văn hố Ấn Độ đến văn hố Việt
Nam thơng qua Phù Nam, Champa và Chân Lạp, Angkor.
B. L. Briggs cũng là một trong những học giả phương Tây sớm chú ý đến
việc nghiên cứu lịch sử - văn hoá các nước Đông Dương. Năm 1950, ông cho ra đời
cuốn “The Khmer Empire and the Malay Peninsula” (Đế quốc Khmer và bán đảo
Malay) tập trung khai thác về lịch sử của “đế quốc” Khmer – một “đế quốc” từng
phát triển rất hùng mạnh và bành trướng ra cả vùng bán đảo Malay. Sự bành trướng
về mặt chính trị - lãnh thổ đã tạo điều kiện cho văn hố và tơn giáo Khmer phát huy
sự ảnh hưởng, để lại dấu ấn sâu đậm đối với đời sống văn hoá tinh thần ở những
quốc gia thuộc bán đảo Malay, trong đó bao gồm những quốc gia của người Thái,
người Lào và cả vương quốc cổ Champa. Năm sau (1951), ông tiếp tục cho xuất bản
“The Ancient Khmer empire” (Đế quốc Khmer cổ) tập hợp được khá đầy đủ những
thành tựu của các học giả đi trước, chủ yếu là người Pháp. Với những quan sát nhạy
cảm, tác giả đã đưa ra những điều bất hợp lý của các học giả đi trước trong việc xác

luan an


11
định niên đại cho các tượng Harihara sớm và các tượng Vishnu chịu ảnh hưởng
phong cách Gupta.
Năm 1972 Stanley J. O’Connor cho xuất bản quyển sách “Hindu gods of
penninsular Siam” (Tượng thần Hinđu trên bán đảo Siêm). Đây là một ấn phẩm rất

có giá trị đối với việc nghiên cứu về nghệ thuật Hinđu ở bán đảo Siêm – vùng đất cổ
đã từng là lãnh thổ của nhiều quốc gia cổ như Đốn Tốn, Srivijaya, Dvaravati. Tác
giả cho rằng quyển sách mô tả về một quá khứ cổ xưa của một vùng đất mà ông gọi
là “bán đảo Siêm” – nằm ở Đông Bắc bán đảo Malaya và thuộc miền Nam Thái Lan
ngày nay. Vùng đất này bước vào lịch sử từ rất sớm với sự xuất hiện những nhà
nước đầu tiên của người Môn cổ và gắn liền với những di chỉ khảo cổ nổi tiếng như
Chaiya, Ta Kua Pa, Surat Thani, Vieng Sa, Petch Buri. Từ những di chỉ khảo cổ này
đã phát hiện được một số lượng rất lớn những pho tượng về các vị thần Hinđu, mà
trong đó, tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất và độc đáo nhất vẫn là những bức tượng
Vishnu và những mảng phù điêu về thần Vishnu được lưu lại trên các đền tháp cổ.
O’Connor bắt đầu cơng trình nghiên cứu của mình trong những lần đến khảo sát ở
bán đảo Siêm vào những năm 1963 – 1964, sau đó ơng đã công bố những phát hiện
trong Luận án Tiến sĩ của mình vào năm 1966 sau một thời gian dài thực địa, bổ
sung và sửa đổi. O’Connor cũng đã kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các
học giả đi trước như P. Dupont, A. B. Griswold và Oliver W. Wolters là những
chuyên gia nghiên cứu về lịch sử - văn hố ĐNA, từ đó, ơng đi vào phân tích, so
sánh, phản biện đối với những quan điểm của các học giả trước đây và đưa ra những
lập luận mới của mình. Ơng tin rằng bằng việc khảo cứu những bức tượng hoành
tráng về các vị thần Hinđu ở bán đảo Siêm sẽ giúp phác hoạ lại được một thời kỳ
rực rỡ của quá khứ từ những mảnh vỡ của một một nền văn minh cổ cịn để lại.
Đóng góp lớn nhất của tác giả là dày công thống kê một số lượng rất lớn các tượng
thần Hinđu được phát hiện tại bán đảo Siêm mặc dù chúng đang được trưng bày rải
rác khắp các Bảo tàng trong và ngoài nước; mô tả chi tiết từng tác phẩm điêu khắc
từ việc xác định niên đại, ấn định phong cách và đặt chúng trong mối quan hệ với
Ấn Độ cũng như những quốc gia trong khu vực. Điều đáng chú ý là trong số 34 pho

luan an


12

tượng Hinđu được O’Connor khảo sát, nghiên cứu thì có đến 24 là tượng Vishnu và
trong toàn bộ tác phẩm gần như ông đã dành tất cả tâm huyết của mình để nghiên
cứu, phân tích về những pho tượng Vishnu này. Từ kết quả nghiên cứu này cho thấy
sự tôn thờ Vishnu đã từng rất phát triển tại vùng đất cổ này, trong thời kỳ trị vì của
các vương quốc cổ như Đốn Tốn, Dvaravati mà bằng chứng chính là số tượng
Vishnu với một con số rất ấn tượng. Tuy nhiên, đáng tiếc cơng trình này của tác giả
chỉ dừng lại việc khảo sát, nghiên cứu ở phạm vi thuộc bán đảo Siêm (Nam Thái
Lan) mà khơng phải là tồn bộ lãnh thổ Thái Lan nên chưa thể đưa ra cái nhìn tổng
thể về sự tơn thờ Vishnu giáo ở đất nước này trong lịch sử, đồng thời, mặc dù rất
quyết tâm nhưng O’Connor vẫn còn khá lúng túng trong việc xác định niên đại của
các pho tượng Vishnu.
Ngoài những cơng trình của các học giả EFEO và một số ấn phẩm tiếng Anh
của các học giả Anh, Mỹ như D. Hall hay S. J. O’Connor, giai đoạn trước 1975 hầu
như ít có sự tham gia nghiên cứu của các học giả Việt Nam. Thực trạng này do
nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan tác động khiến cho việc nghiên cứu về
lịch sử - văn hoá của khu vực chưa được triển khai và phát triển được. Lê Hương
được xem là học giả Việt Nam đầu tiên viết về Phù Nam qua ấn phẩm “Sử liệu Phù
Nam” được xuất bản đầu tiên vào năm 1974. Tác giả chủ yếu dựa trên nguồn sử
liệu Trung Quốc viết về Phù Nam để dựng lên bức tranh về đời sống vật chất và
tinh thần của cư dân cổ Phù Nam, tuy nhiên bức tranh về Phù Nam qua nguồn sử
liệu mà tác giả tổng hợp được vẫn còn khá mơ hồ do thiếu minh chứng bằng những
hiện vật cụ thể.
1.2. Giai đoạn sau năm 1975
Có thể nói, sau năm 1975 là giai đoạn phát triển rực rỡ của lịch sử nghiên
cứu về khu vực ĐNA do những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi tác
động. Hoạt động nghiên cứu về lịch sử - văn hoá ĐNA thu hút cả học giả phương
Tây lẫn những học giả trong khu vực với những tên tuổi nổi tiếng và những cơng
trình nghiên cứu đồ sộ. Điều đặc biệt là trong các nghiên cứu của những học giả

luan an



13
này, vấn đề về Vishnu và sự tôn thờ Vishnu được chú ý nhiều hơn và được phân
tích dưới nhiều góc độ hơn, đặc biệt là dưới góc độ nghệ thuật.
1.2.1. Các nghiên cứu của học giả nước ngoài
Cùng với và tiếp sau các học giả người Pháp của EFEO, việc nghiên cứu về
lịch sử văn hoá của các quốc gia ĐNA vẫn tiếp tục thu hút sự quan tâm của các học
giả phương Tây, đặc biệt là những học giả người Anh, Mỹ. Họ góp phần làm phong
phú thêm kho tàng tri thức về lịch sử - văn hoá của khu vực ĐNA bằng những công
bố vô cùng giá trị của mình.
Giai đoạn này xuất hiện nhiều hơn những cơng trình nghiên cứu về tơn
giáo, nghệ thuật Ấn Độ và mối quan hệ của nó với tơn giáo, nghệ thuật ĐNA. Có
thể kể ra, “The Hindu Temples” (Đền – Tháp Hindu) của Goege Michell, “The
A to Z of Hinduism” – một quyển từ điển tôn giáo về đạo Hindu của tác giả
Bruce. M. Sullivan hay Wendy Doginer O’flaherty với “The Indian Mythology”
(Thần thoại Ấn Độ) do Lê Thành dịch, Vittorro Roveda với tác phẩm “Images of
the God (Khmer mythology in Cambodia, Laos and Thailand” (Hình tượng các
vị thần trong thần thoại Khmer ở Campuchia, Lào và Thái Lan)... Những cơng
trình này đều có đề cập đến Hinđu giáo nói chung và Vishnu giáo nói riêng cũng
như những ảnh hưởng của nó đối với cư dân ĐNA cổ, dù ở mức độ nhiều hay ít,
trực tiếp hay gián tiếp.
Một ấn phẩm khá đồ sộ của GS. K. V. Raman về nghệ thuật đền thờ, các
tượng thần cũng như văn hoá của Ấn Độ và ĐNA đã được công bố “Temple Art,
Icons and Culture of India and South-East Asia” (Về nghệ thuật đền tháp, các
biểu tượng và văn hoá của Ấn Độ và ĐNA) (2006), Nxb Sharda, Delhi, Ấn Độ.
Thông qua nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, các bia kí và các bản văn Phạn ngữ
được tìm thấy ở Ấn Độ và ĐNA, tác giả đã làm sáng tỏ mối quan hệ văn hoá rộng
lớn giữa Ấn Độ và những quốc gia ĐNA như Thái Lan, Inđônêxia, Campuchia, Việt
Nam, Lào... từ thời cổ đại, trong đó tiêu biểu là mối quan hệ văn hố và tơn giáo.

Bên cạnh những tri thức chung về lịch sử - văn hoá của khu vực, bắt đầu xuất
hiện nhiều hơn những cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về một quốc gia, một giai

luan an


14
đoạn lịch sử hay một lĩnh vực nhất định, đặc biệt tôn giáo và nghệ thuật là hai lĩnh
vực được các nhà khoa học đặc biệt chuyên tâm nghiên cứu.
Năm 1997, Bảo tàng Quốc gia Băng Cốc đã cho xuất bản ấn phẩm
“Treasures from the National museum Bangkok – An introduction with 157 color
photographs” (Báu vật từ Bảo tàng Quốc gia Băng Cốc – thông qua 157 bức ảnh
màu). Đây là một cơng trình kỳ cơng của rất nhiều tác giả nhằm cố gắng giới thiệu
những cổ vật đặc sắc đang trưng bày tại bảo tàng Quốc gia Băng Cốc, được phát
hiện, khai quật trên khắp lãnh thổ Thái Lan, có niên đại kéo dài từ thời kỳ các
vương quốc Môn cổ như Đốn Tốn, Dvaravati đến thời kỳ các vương quốc
Sukhothay, Ayuthaya. Trong đó, ngồi các tác phẩm điêu khắc phản ánh đời sống
sinh hoạt của người Thái trong lịch sử, thì hầu hết đều là tác phẩm điêu khắc tôn
giáo, từ Phật giáo đến Hinđu giáo. Đặc biệt, trong các bài viết về “Mon Dvaravati
Sculpture” của Eileen Deeley, “Ancient Hindu Gods Sculpture” và “Sukhothay
Sculpture” của Rita Ringis, “Srivijaya and Penninsular Sculpture”, “Ayuthaya
Sculpture” của Janine Gray đã cho thấy tượng Vishnu chiếm một số lượng đáng kể
trong những trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Băng Cốc, trong đó có một số tượng
đã được O’Connor thống kê và nghiên cứu. Điểm đáng nói ở đây là những tác phẩm
điêu khắc về Vishnu được tìm thấy ở Thái Lan được thể hiện ở nhiều phong cách,
thuộc rất nhiều trường phái khác nhau, vừa có nguồn gốc từ các trường phái nghệ
thuật Ấn Độ vừa thể hiện dấu ấn của nghệ thuật Phù Nam và đặc biệt là nghệ thuật
Khmer trong phong cách tạc tượng. Điều đó phản ánh phần nào mối quan hệ rộng
rãi giữa các quốc gia cổ từng tồn tại trên lãnh thổ Thái Lan với các nhà nước cổ của
ĐNA như Phù Nam, Chân Lạp đến đế quốc Khmer, đặc biệt là mối quan hệ về văn

hoá và tôn giáo.
“The Sacred Sculpture of Thailand” (Về Tượng thánh ở Thái Lan) (1999)
của học giả Hiram. W. Woodward giới thiệu tổng quan về các tác phẩm điêu khắc
tôn giáo của Thái Lan từ thế kỉ VII đến thế kỉ XVIII, dựa trên bộ sưu tập toàn diện
của học giả Mỹ Alexander B. Griswold. Hay “The Arts of Thailand” (Nghệ thuật
Thái Lan) của Steve Van Beek, Nxb Periplus (Hong Kong). Tác phẩm đã giới thiệu

luan an


15
về nền nghệ thuật Thái Lan, chủ yếu là kiến trúc – điêu khắc và hội hoạ từ thời Tiền
sử đến hiện tại thơng qua một q trình khảo sát rộng lớn. Lịch sử biến đổi và phát
triển của nền nghệ thuật Thái Lan có thể phản ánh phần nào sự vận động, thay thế
và phát triển của các tôn giáo ở Thái Lan, trong đó có sự thịnh suy của Hinđu giáo
trên đất nước chùa Tháp này.
Năm 2000, tác giả Charuwan Phungtian đã xuất bản quyển “Thai –
Cambodian culture – Relationship through Arts” (Mối quan hệ văn hoá giữa Thái
Lan và Campuchia thông qua nghệ thuật), Magadh University, Bodh-Gaya, India.
Thật ra khi đặt vấn đề về mối quan hệ văn hoá giữa Thái Lan và Campuchia, tác giả
chỉ xem đây như một chiếc chìa khố để dẫn dắt chúng ta bước vào cánh cửa lịch sử
của hai quốc gia này với những thăng trầm của đế quốc Khmer và của các quốc gia
cổ từng tồn tại trên lãnh thổ Thái Lan trong suốt chặng đường dài của lịch sử. Từ
chỗ xác định nền nghệ thuật của cả Thái Lan và Campuchia – đặc biệt là nghệ thuật
kiến trúc và điêu khắc đều được khơi nguồn cảm hứng từ hai tôn giáo là đạo Phật và
đạo Hinđu, tác giả đã cho thấy được phần nào về sức ảnh hưởng của hai tôn giáo
này đối với lịch sử phát triển đầy biến động của Thái Lan và Campuchia. Đặc biệt,
thông qua việc khảo cứu và mơ tả những di tích đền tháp cổ nổi tiếng ở Thái Lan
như đền Prasat Phimai, Prasat Phnom Rung, Prasat Muang Tam... cho thấy sự hiện
diện vơ cùng phổ biến hình tượng vị thần Vishnu trong hầu hết các đền tháp Hinđu

của Thái Lan. Những hình tượng của Vishnu trong thần thoại như: Vishnu nằm
thiền định định trên biển Anata trong câu chuyện về “giấc ngủ ngủ sáng tạo” của
Vishnu hay những thần tích của Vishnu khi giáng thế cứu thế gian (Avatara), hoặc
những kỳ tích của Vishnu trong những lần hoá thân thành Rama hay Krishna... đều
xuất hiện rất phổ biến trong các đền tháp Hinđu, có khi xuất hiện dưới hình thức
ảnh tượng, khi lại hiện diện trên các mảng phù điêu hay các chạm khắc trên mi cửa
của ngôi đền.
Như vậy, nếu như sự tôn thờ Vishnu ở Thái Lan được O’Connor chứng minh
bằng sự phong phú của các pho tượng thì Charuwan Phungtian đã củng cố thêm
niềm tin về sự tồn tại của hình thức tơn thờ này bằng những kiến trúc đền tháp

luan an


16
mang đậm dấu ấn Vishnu. Tất cả những bằng chứng trên chứng tỏ trên lãnh thổ
Thái Lan, trong một thời kỳ lịch sử lâu dài, đã từng hiện diện sự tơn thờ Vishnu rất
phổ biến – một hình thức biểu hiện của Vishnu giáo.
Năm 1997, ba nhà xuất bản lớn là National gallery of Art Washingtong
(Mỹ), Thames and Hudson (London, Anh) và Réunion des musées nationaus (Paris,
Pháp) đã phối hợp để xuất bản quyển “Scupture of Angkor and Ancient Cambodia
(Millennium of Glory)” (Tượng Angkor và Campuchia cổ đại – Một thiên niên kỷ
vinh quang) do hai tác giả Helen I.J. và Thierry. Z editors làm chủ biên. Đây được
xem là một cơng trình khá đồ sộ, mơ tả rất cụ thể về những dấu ấn lịch sử và văn
hoá của Campuchia trong suốt tiến trình lịch sử. Ngồi việc khái quát lịch sử
Campuchia từ buổi đầu cho đến hết giai đoạn Angkor, tác phẩm cịn khai thác
những khía cạnh về tơn giáo – tín ngưỡng, về văn bia, về các biểu tượng tơn giáo và
các loại hình kiến trúc tơn giáo của người Khmer trong suốt thời kỳ cổ - trung đại.
Tuy nhiên, các tác giả gần như dành đến 2/3 quyển sách để giới thiệu về những
thành tựu đặc sắc của nghệ thuật điêu khắc Campuchia trong suốt một “thiên niên

kỷ vinh quang” – từ thế kỉ VII cho đến hết giai đoạn Angkor và hậu Angkor. Có thể
nói, gần như tất cả những tinh hoa của nghệ thuật tiếu tượng Khmer đã được toả
sáng trên từng trang sách của tác giả với những pho tượng thần, phật sáng đẹp, lung
linh, rực rỡ. Không chỉ minh hoạ bằng những hình ảnh đẹp chân thực, các tác giả
cịn trình bày khá chi tiết về nguồn gốc xuất xứ, địa điểm phát hiện cũng như xác
định phong cách nghệ thuật và định niên đại cho từng pho tượng. Do đó, khơng khó
để nhận ra trong số những pho tượng đặc sắc này, có khơng ít những pho tượng
Vishnu và các vị thần quen thuộc trong thần điện Vishnu giáo như Laskmi,
Harihara, Krishna, Rama hay Garuda. Những pho tượng này đều mang những
phong cách nghệ thuật đặc sắc và cũng là những tiêu bản đẹp trong lịch sử nghệ
thuật Campuchia. Vì vậy, với những kết quả đã được nghiên cứu và trình bày công
phu, quyển sách đã phần nào mang lại những bằng chứng thuyết phục về sự hiện
hữu của Vishnu giáo trong lịch sử Campuchia.

luan an


17
Năm 2003, tác giả James. C. M. Khoo đã chủ biên cho một ấn phẩm rất có
giá trị đối với việc nghiên cứu về Phù Nam: “Art and Archaeology of Fu Nan –
Pre-Khmer Kingdom of the Lower Mekong Valley” (Nghệ thuật và khảo cổ Phù
Nam – vương quốc Tiền Khmer ở lưu vực sông Mê Kông). Mặc dù, ngay việc dùng
tên gọi “vương quốc Tiền Khmer” để gọi vương quốc Phù Nam đã phản ánh phần
nào sự hạn chế nhất định của tác giả trong việc nhận thức về lịch sử Phù Nam và
mối quan hệ lịch sử của nó với quốc gia của người Khmer khi xem Phù Nam là một
giai đoạn trong lịch sử của người Khmer và đất nước Khmer. Tuy nhiên, ngồi hạn
chế này thì quyển sách đã mang lại những hiểu biết vô cùng quan trọng về lịch sử
và văn hoá của vương quốc Phù Nam – một vương quốc ra đời sớm nhất ở ĐNA và
từng phát triển hùng mạnh trong những thế kỉ đầu Công nguyên. Tác phẩm đã tổng
hợp kết quả nghiên cứu của rất nhiều học giả nổi tiếng trên thế giới – những người

dành rất nhiều thời gian và tâm huyết cho việc nghiên cứu về Phù Nam – Óc Eo nói
riêng và cổ sử ĐNA nói chung như: Miriam. T. Stark với “Angkor Borei and the
Archaeology of Cambodia’s Mekong Delta”, John N. Miksic với “The Begining of
Trade in Ancient Southeast Asia: The role of Oc Eo and the Lower Mekong River”,
Heidi Tan với “Observations on the Pottery of Oc Eo”, C. G. Kwa với
“Historiography and Definition of Pre-Angkorian Art”... Tuy nhiên, ý nghĩa chính
của cơng trình này gần như tập trung trong nghiên cứu của TS. Võ Sĩ Khải về “The
Kingdom of Fu Nan and the Culture of Oc Eo” (Vương quốc Phù Nam và văn hố
Ĩc Eo) vì đây là kết quả mà ông cùng các cộng sự của mình như GS. Hà Văn Tấn,
TS. Đào Linh Cơn, Trịnh Thị Hồi và nhóm nghiên cứu thuộc Trường KHXH&NV
đã mất gần 25 năm để xác định 90 địa điểm khảo cổ thuộc Phù Nam – Óc Eo và hơn
20 địa điểm được khai quật. Có thể nói Võ Sĩ Khải và nhóm nghiên cứu của ơng đã
phác hoạ một bức tranh khá toàn diện về đời sống vật chất và tinh thần của cư dân
cổ Phù Nam – Óc Eo dựa trên các phát hiện, khai quật khảo cổ học trên hàng trăm
di tích rải rác khắp Nam bộ Việt Nam. Điều đặc biệt là khi nhận định về đời sống
tơn giáo của cư dân Phù Nam, nhóm nghiên cứu này cho rằng người Phù Nam thừa
nhận cả hai vị thần: Vishnu là vị thần bảo vệ tài sản và cuộc sống của họ còn Shiva

luan an


18
trừng phạt những tệ nạn trong xã hội, tuy nhiên, ở đây Vishnu được tơn thờ nhiều
hơn, có lẽ do Shiva trong hình thức của các Linga là biểu tượng của quyền lực
hoàng gia và của tầng lớp quý tộc, binh lính cịn Vishnu là vị thần của những người
bình dân mà người Phù Nam chủ yếu là nông dân, thợ thủ công và thương nhân.
Như một sự thống nhất về mặt quan điểm và học thuật với Võ Sĩ Khải, GS. J. C. M.
Khoo và Ha Du Canh trong bài viết “Some Observations on Religious Sculptures in
the Mekong Delta” cũng đã khẳng định rằng: từ số lượng rất lớn những pho tượng
Vishnu được tìm thấy cho thấy rằng Vishnu giáo chiếm ưu thế trong đời sống văn

hố và tơn giáo của người Phù Nam.
1.2.2. Các nghiên cứu của học giả trong nước
Từ sau năm 1975 trở lại đây, việc nghiên cứu về lịch sử - văn hoá của ĐNA
đã thu hút được nhiều sự quan tâm của các học giả, các nhà nghiên cứu Việt Nam
và họ đã có nhiều đóng góp đáng kể đối với sự nghiệp nghiên cứu về lịch sử - văn
hoá của khu vực. Quá trình nghiên cứu này có lẽ được bắt đầu từ việc khảo sát, khai
quật, phát hiện và nghiên cứu về các di chỉ thuộc nền văn hố Ĩc Eo ở khu vực
ĐBSCL nói riêng và Nam bộ nói chung. Từ các kết quả phát hiện và nghiên cứu,
các nhà khoa học Việt Nam đã có được cái nhìn bước đầu về đời sống văn hố – xã
hội, tơn giáo – tín ngưỡng của cư dân cổ ở các giai đoạn Tiền Óc Eo, Óc Eo và Hậu
Óc Eo. Hàng loạt những cơng trình lần lượt được cơng bố như Văn hố Ĩc Eo và
các văn hố cổ ở ĐBSCL (1984), Văn hố Ĩc Eo ở đồng bằng Nam bộ (1988) – Tư
liệu Viện KHXH, Tp.HCM, “Văn hoá cư dân ĐBSCL” của Nguyễn Cơng Bình, Lê
Xn Diệm, Mạc Đường (1990), “Văn hố Ĩc Eo những khám phá mới” của Lê
Xn Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải (1995), “Theo dấu chân các văn hoá cổ”
của Hà Văn Tấn (1997), “Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam” của
Trung tâm Khảo cổ học – Viện KHXH tại TP. HCM (1997, 2003), “Khảo cổ học
Long An những thế kỉ đầu Công nguyên” của Bùi Phát Diệm, Đào Linh Côn, Vương
Thu Hồng (2001)... Từ những nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã xác định được
các trung tâm chính trị, kinh tế, tơn giáo thơng qua việc tìm hiểu, nghiên cứu các di
tích kiến trúc đền đài, mộ táng, khu đô thị cổ, hệ thống kênh đào, các trung tâm tạc

luan an


19
tượng... Từ đó đi đến nhận định xã hội thời Óc Eo – Phù Nam đã khá phát triển như
tổ chức nhà nước đã hình thành, đã phân chia đẳng cấp, hoạt động tơn giáo – tín
ngưỡng, nghệ thuật đạt được trình độ cao và khá đa dạng. Qua đó cũng phần nào
cho thấy được sự tôn thờ Vishnu của Phù Nam là khá phổ biến, như một hiện tượng

đặc biệt cần được quan tâm nghiên cứu.
Sau năm 1975, nhiều cuộc khảo sát, thám sát, khai quật khảo cổ học đã được
thực hiện. Trong các cuộc khảo sát và khai quật này đã có thêm những phát hiện
mới. Các tượng Vishnu và các di vật liên quan đến vị thần này được phát hiện ngày
càng nhiều, nhất là ở khu vực miền Nam Việt Nam – địa bàn chính của vương quốc
cổ Phù Nam và văn hố Ĩc Eo trước đây. Chúng được thu thập trong các di tích qua
các cuộc thám sát, khai quật khảo cổ hoặc do dân địa phương phát hiện. Các nhà
khoa học trong và ngoài nước đã lần lượt công bố những phát hiện mới trong các
báo cáo khai quật, phát hiện mới về khảo cổ học, các thơng báo khoa học, các địa
chí, luận án chuyên ngành khảo cổ học... Tóm lại, các phát hiện khảo cổ nói trên là
những thành tựu vật chất và là bằng chứng thuyết phục nhất về sự hiện diện của của
một hình thức tơn giáo phổ biến ở ĐNA lục địa - Vishnu giáo.
GS. Lương Ninh trong công trình nổi tiếng “Vương quốc Phù Nam – Lịch
sử và văn hoá” (2005) đã tiến xa hơn những học giả trước đây khi trình bày một
cách khá hệ thống và đầy đủ về lịch sử của Phù Nam từ khi lập quốc, phát triển cực
thịnh, bành trướng đến khủng hoảng, suy vong. Ngồi ra, tác giả cịn dựng lên một
bức tranh về sự phát triển kinh tế - xã hội của Phù Nam qua những thành tựu khai
quật khảo cổ ở Óc Eo và các tỉnh Nam bộ từ trước đến năm 2000. Đặc biệt, sự tôn
thờ Vishnu trong tôn giáo Phù Nam được thể hiện rõ ràng hơn khi tác giả dành hẳn
một chương để phân tích về “Trường phái tượng Vishnu Phù Nam”. Tác giả đã chia
tượng Phù Nam ra thành 5 phong cách cụ thể dựa theo niên đại và đặc điểm nghệ
thuật của từng pho tượng. Với một hệ thống tượng Vishnu khá đồ sộ cùng với việc
biên dịch lại những bia ký Phù Nam, trong đó cho thấy khơng ít những bản văn
thấm đượm tinh thần Vishnu giáo, tác giả đã cung cấp thêm những bằng chứng chắc
chắn cho thấy rõ cư dân Phù Nam từng rất tơn thờ Vishnu giáo. Tiếp sau đó, với

luan an



×