1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn bảy thập kỷ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã cùng nhân
dân ta vượt qua bao gian nan thử thách, đưa cách mạng từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác, viết tiếp những trang sử vẻ vang của dân tộc. Sự lãnh đạo
đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới do Đảng khởi xướng
và lãnh đạo một lần nữa chứng minh sự phát triển và trưởng thành của Đảng.
Thành tựu đó rất to lớn và đáng tự hào.
Bác Hồ của chúng ta thường nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi việc" công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ có đạo đức tốt hay kém, người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng, khơng có đạo đức cách mạng thì tài
giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Đạo đức là nền tảng, là gốc
của người cán bộ, đảng viên. Có đạo đức cách mạng, có lối sống giản dị,
trong sạch, lành mạnh cán bộ đảng viên sẽ có uy tín, có điều kiện hồn thành
tốt nhiệm vụ của mình.Trong giai đoạn cách mạng hiện nay sự suy thối tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên đang là nguy cơ đe
dọa sự tồn vong của Đảng, sự sống còn của chế độ.
Đại hội VII của Đảng đánh giá sự suy thoái đạo đức lối sống của cán
bộ, đảng viên : “Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ,
đảng viên rất nghiêm trọng, tình hình mất đoàn kết xảy ra trong nhiều tổ chức
Đảng” [16, tr.48]. Đại hội VIII khẳng định sự suy thoái đạo đức, lối sống
khơng cịn ở một bộ phận mà: “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí,
kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức, lối sống” [17, tr.137]. Tại Hội
2
nghị Trung ương lần thứ 9 khóa IX Đảng ta tiếp tục chỉ rõ: “Tình trạng quan
liêu tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy thối về tư tưởng chính trị và
phẩm chất đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên vẫn còn rất nghiêm
trọng” [23, tr.80-81]. “Cần nhận thức rằng: cuộc vận động xây dựng,chỉnh
đốn Đảng chưa tạo được chuyển biến cơ bản, chưa ngăn chặn và đẩy lùi được
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí” [23, tr.81]. Vấn đề đặt ra là tại sao mức
độ sự suy thoái đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên lại tăng
lên mặc dù chúng ta không ngừng nỗ lực ngăn chặn ? Phải chăng do chưa có
một biện pháp sát hợp để đẩy lùi nó? hoặc chưa có sự nhận thức đúng về
những tác hại của sự suy thoái đạo đức, lối sống từ đội ngũ này, dù đây là vấn
đề bức xúc trong dân chúng và toàn xã hội ?
Vấn đề hết sức cấp bách này cần phải được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để
có những giải pháp hiệu quả trong cơng tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
cán bộ -đảng viên. Xuất phát từ u cầu đó tơi chọn đề tài: “Vấn đề đạo đức
cách mạng của cán bộ - đảng viên hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa)”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đạo đức đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của
Đảng đặc biệt quan tâm trong quá trình đào tạo bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Nhiều bài viết, bài nói của Người để lại được tập hợp và đó
là những cơng trình nghiên cứu về đạo đức cách mạng như:
“Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng”, Nxb Sự thật 1976; “Chủ Tịch
Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng”, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội,
1986; “Học tập đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh”, Nxb Thơng tấn, Hà
Nội, 2004.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, đã được một số tác giả nghiên cứu
và trên cơ sở học tập đạo đức, phong cách làm việc của Người, đề xuất các
giải pháp xây dựng đạo đức mới:
3
“Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của công chức theo tư tưởng Hồ
Chí Minh”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998. Thang Văn Phúc chủ biên;
“Mấy vấn đề đạo đức cách mạng”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1978 của
Vũ Khiêu.
Một số tác giả có các bài viết về mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức
đồng thời khẳng định các giá trị đạo đức luôn chịu tác động hai mặt từ môi
trường kinh tế. Các tác giả cũng chỉ ra sự phức tạp của các vấn đề đạo đức xã
hội: Đạo đức mới vừa phải đấu tranh với các hệ thống đạo đức khác, vừa phải
đấu tranh tự đổi mới trong điều kiện mới:
“Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức
hiện nay”. Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, tháng 6/1996; “Sự tác động
hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý”. Nguyễn
Tĩnh Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, tháng 2/1997; “Quan hệ giữa kinh tế
và đạo đức với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên cơ sở hiện
nay (qua thực tế ở Thành phố Hồ Chí Minh)". Dương Xuân Lộc, Luận văn
thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2000.
Trong những năm gần đây một số tác giả đi vào nghiên cứu vấn đề đạo
đức, đạo đức của người cán bộ trong điều kiện kinh tế thị trường:
“Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý Nhà nước trong giai đoạn hiện nay”. Phạm Văn Hùng, Luận văn
Thạc sĩ Triết học, 2000; “Vấn đề xây dựng đạo đức cho cán bộ cơ sở trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay qua thực tế tỉnh Thái Bình”.
Đặng Thanh Giang, Luận văn Thạc sĩ Triết học, 2001; Đạo đức người cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bình Định trong điều kiện kinh tế thị trường hiện
nay - vấn đề và giải pháp”. Lê Ngọc Danh, Luận văn thạc sĩ Triết học, 2002;
“Vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ chủ chốt cơ sở ở tỉnh
Đăk Lăk trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay”. Nguyễn Tuyên Quang,
4
Luận văn Thạc sĩ Triết học, 2003; Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay (qua thực tế
tỉnh Kiên Giang)”. Nguyễn Văn Quyết, Luận văn Thạc sĩ Triết học, 2000;
“Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế
thị trường ở tỉnh Hà Giang hiện nay”. Trương Văn Thắng, Luận văn thạc sĩ
Triết học, Hà Nội, 2003; “Vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên
trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Hưng Yên)",
Bùi Văn Hà, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội 2004.
Trong các cơng trình này, các tác giả đã đưa ra những chuẩn mực đạo
đức, những nguyên tắc và những yêu cầu đạo đức cách mạng của cán bộ,
đảng viên. Các tác giả cũng thống nhất khi luận giải việc giáo dục đạo đức nói
chung và giáo dục đạo đức cách mạng nói riêng phải trên cơ sở của mơi
trường kinh tế văn hóa, xã hội nhất định, từ đó đưa ra những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay. Thực
tế cho thấy tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên trong những năm qua không giảm. Vấn đề đặt ra là nguyên nhân
sâu xa nào khiến cho những giải pháp của chúng ta đề ra chưa được thực hiện
hiệu quả?
Những năm qua ở Thanh Hóa, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã xây dựng Đề
án: “Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
trong tình hình mới”; trên cơ sở đó Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Chỉ thị 15
CT-TU về tăng cường công tác giáo dục đạo đức cách mạng trong giai đoạn
hiện nay.Các văn bản trên thể hiện quan điểm chỉ đạo cấp thiết, mạnh mẽ của
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên trong tình hình hiện nay. Để luận giải sâu sắc về nguyên
nhân của sự yếu kém kéo dài của thực trạng đạo đức như nhận định của Đảng
qua nhiều văn kiện và tính chất phức tạp của vấn đề đạo đức, tác giả muốn đi
5
sâu làm rõ và đề ra những giải pháp cần được xem xét ở góc độ triết học cho
một đối tượng riêng: những đảng viên là cán bộ.
Những cơng trình của các tác giả đi trước là cơ sở có ý nghĩa quan
trọng đối với việc nghiên cứu vấn đề đạo đức cách mạng cho cán bộ - đảng
viên hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa).
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa, luận văn phân tích thực trạng cơng tác
giáo dục đạo đức cách mạng và nguyên nhân của việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ-đảng viên chưa đạt được yêu cầu đề ra.Từ đó, đề
xuất một số giải pháp ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực của đạo đức lối
sống và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ- đảng viên.
* Nhiệm vụ:
- Trình bày những yêu cầu đạo đức cách mạng của cán bộ-đảng viên
hiện nay.
- Đánh giá thực trạng đạo đức cách mạng của cán bộ-đảng viên qua
thực tế ở tỉnh Thanh Hóa.
- Đánh giá việc thực hiện nghị quyết của Đảng về đạo đức, lối sống của
cán bộ-đảng viên trong những năm qua. Phân tích nguyên nhân của những
hạn chế thiếu sót trong cơng tác này.
- Đề ra những giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ - đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đạo đức cách mạng của đảng
viên nhưng đảng viên là cán bộ.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề giáo dục đạo đức cách
mạng của cán bộ-đảng viên hiện nay ở nước ta qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa.
6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận trực tiếp của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức của
người cán bộ, đảng viên.
- Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp của CNDVBC và CNDVLS,
phương pháp lơgíc và lịch sử, điều tra xã hội học để thực hiện.
Đạo đức cách mạng của cán bộ - đảng viên là vấn đề đã được nêu ra
trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và có nhiều cơng trình nghiên cứu về
vấn đề này. Do vậy, tác giả đã căn cứ vào các văn kiện, nghị quyết của Đảng,
kế thừa một số kết quả nghiên cứu của những cơng trình trước và thực tiễn
công tác tư tưởng, công tác kiểm tra, cơng tác tổ chức Đảng của Đảng bộ tỉnh
Thanh Hóa trong q trình thực hiện.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Qua khảo sát thực trạng đạo đức của cán bộ-đảng viên tỉnh Thanh
Hóa chỉ ra những nguyên nhân khiến cho việc giáo dục đạo đức cách mạng
cho cán bộ-đảng viên trong thời gian qua chưa đạt yêu cầu đề ra.
- Đề xuất những giải pháp nhằm giáo dục hiệu quả đạo đức cách mạng
cho cán bộ-đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giáo dục đạo
đức cách mạng của cán bộ-đảng viên nói chung và cán bộ-đảng viên ở tỉnh
Thanh Hóa nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu
giảng dạy, học tập đạo đức trong các trường học ở tỉnh Thanh Hóa.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu, luận văn có 2
chương, 4 tiết.
7
Chương 1
TÍNH CẤP THIẾT VÀ YÊU CẦU ĐẠO ĐỨC CÁCH MNG
CA CN B - NG VIấN HIN NAY
1.1. Đạo đức cách mạng và yêu cầu đạo đức cách mạng
của cán bộ - đảng viên trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. o đức cách mạng
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ buổi bình minh
của lịch sử lồi người. Nó được phát triển, hồn thiện trên cơ sở các chế độ
kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Trong quá trình phát triển đó,
cùng với sự vận động biến đổi của tồn tại xã hội, đạo đức cũng có những biến
đổi, đã tồn tại nhiều những quan niệm đạo đức khác nhau, thậm chí đối lập
nhau trong lịch sử. Quan điểm duy tâm tôn giáo cho rằng đạo đức là những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực rút ra từ những lực lượng siêu nhiên hay
những bản tính trừu tượng "ý niệm tuyệt đối", "thượng đế" … rồi đem áp
dụng vào đời sống hiện thực của con người mà không xuất phát từ điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội, từ quan niệm xã hội hiện thực để suy ra lĩnh vực
tư tưởng trong đó có tư tưởng đạo đức. Ngay các nhà duy vật trước Mác khi
đi vào nghiên cứu những vấn đề đạo đức, họ cũng hoặc chưa thoát khỏi những
quan điểm duy tâm hoặc lại rơi vào quan điểm siêu hình.
Những quan niệm đạo đức trước Mác tuy có những hạn chế do hoàn
cảnh lịch sử, do địa vị giai cấp và nhận thức, nhưng cũng có đóng góp nhất
định cho quan niệm đúng đắn, khoa học về đạo đức sau này.
Theo quan niệm Mác xít:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử
con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được
8
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư
luận xã hội [31, tr.8].
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại
xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Theo Mác - Ănghen con
người hoạt động tức đã sản xuất ra các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống
trước khi sáng lập các thứ lý luận và nguyên tắc bao gồm cả triết học và luân
lý học. Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức con
người. Sự phát sinh phát triển của đạo đức xét đến cùng là một quá trình do sự
phát triển của phương thức sản xuất quyết định.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người, loài
người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người: phong
tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức… Đối với đạo đức, sự đánh giá
hành vi con người theo khuôn chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành
những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa.
Những khn phép và quy tắc đạo đức là yêu cầu của cả xã hội hoặc của một
giai cấp nhất định để đề ra cho hành vi mỗi cá nhân. Trong xã hội có giai cấp,
bao giờ đạo đức cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định. Sự điều
chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, xét về bản chất, đạo đức là sự tự do lựa
chọn của con người.
Đạo đức có vai trị rất lớn trong đời sống xã hội, trong đời sống của
con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm
bảo đảm cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại, phát triển. Sống trong xã hội,
mỗi người phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức để tìm ra những con
đường, cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của mình và
cộng đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và cộng
đồng. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng là động lực để phát triển
xã hội.
9
Vai trị của đạo đức cịn được biểu hiện thơng qua các chức năng cơ
bản của đạo đức: điều chỉnh hành vi, giáo dục, nhận thức.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Đạo đức thúc đẩy
sự phát triển xã hội, làm cho hành vi của con người phù hợp với sự phát triển
xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và
lương tâm đã trở thành đặc trưng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý
thức khác, các hiện tượng xã hội khác.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử.
Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức
tồn tại như là cái khách quan hóa tác động, chi phối con người. Chức năng
giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt " giáo dục lẫn nhau trong cộng
đồng", giữa cá nhân và cộng đồng; mặt khác, là sự " tự giáo dục" ở cả cấp độ
cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng
nhận thức thơng qua sự phản ánh tồn tại xã hội.
Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại vừa hướng nội.
Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống đạo đức của xã hội
làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ,
hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống... Nhận thức hướng nội ( tự nhận thức) lấy
bản thân mình - chủ thể đạo đức - làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình
tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của
mình với những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức
này mà chủ thể hình thành, phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc
sống: sáng tạo hay thụ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng
thiện hay sa vào cái ác …
Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là rất
lớn. Dư luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể,
10
cịn lương tâm là sự tự phê bình. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo
đức của mình - giá trị mà xã hội mong muốn. Tự nhận thức giúp chủ thể ý
thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng để hồn thành trách nhiệm đó.
Tóm lại, đạo đức là yếu tố cốt lõi của nhân cách con người, nó có vai
trị rất quan trọng trong đời sống xã hội, nó là một phương thức cơ bản điều
chỉnh hành vi của con người, làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát
triển. Chính vì thế mà các giai cấp, các tập đồn xã hội tiến bộ bao giờ cũng
sử dụng đạo đức như là một trong những công cụ động lực để thúc đẩy kinh tế
- xã hội phát triển.
Đạo đức cộng sản là giai đoạn cao trên con đường tiến lên của đạo
đức lồi người. Nó chứa đựng tất thảy những đặc điểm tốt đẹp của nền đạo
đức trong các thời đại trước, đạo đức của quần chúng nhân dân. Đạo đức cộng
sản là một bước phát triển mới về chất, bộ mặt tinh thần của những con người
đã tiêu diệt chế độ bóc lột và đã lập nên xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo
Lênin, đạo đức cộng sản đó là "những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn
bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao động xung quanh giai
cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của người cộng sản" [41, tr.41].
Vì vậy, đạo đức cộng sản phản ánh lợi ích căn bản của giai cấp vô
sản trong cách mạng vơ sản, là vũ khí tinh thần giúp giai cấp cơng nhân xóa
bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa.
Trên cơ sở tiếp thu quan niệm đạo đức cộng sản chủ nghĩa, kế thừa
tinh hoa văn hóa nhân loại, đạo đức truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh
xây dựng lý luận đạo đức cách mạng. Đồng thời Người cũng là một tấm
gương sáng ngời về đạo đức cách mạng.
Đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng, xây dựng
và vun đắp là đạo đức mang bản chất của giai cấp công nhân kết hợp với truyền
11
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và tinh hoa đạo đức nhân loại.
Nó là sự kết hợp, sự thống nhất biện chứng giữa lý tưởng đạo đức với lý
tưởng chính trị, giữa tính cách mạng và tính khoa học. Điều đó được thể hiện
trước hết ở chỗ, đạo đức cách mạng là đạo đức phản ánh lợi ích cơ bản của
giai cấp cơng nhân, mang bản chất của giai cấp cơng nhân, giai cấp có sứ
mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành độc lập dân tộc và đưa đất
nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó phù hợp với quy luật vận động
phát triển của lịch sử xã hội, với sự phát triển của đạo đức tiến bộ của nhân
loại, hướng tới mục tiêu giải phóng con người khỏi áp bức bất công. Với thuật
ngữ đạo đức cách mạng Bác Hồ muốn nói về đạo đức mới, đạo đức cộng sản
nhưng nó mang nội dung cụ thể với những người cán bộ, đảng viên - những
người làm cách mạng. Vì thế, nói về đạo đức cách mạng Người, nhấn mạnh
đạo đức cách mạng là:
Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là
điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của
Đảng, thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của
Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của
cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân
mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để
nâng cao tư tưởng và cải tiến cơng tác của mình và cùng đồng chí
mình tiến bộ [51, tr.285].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về những phẩm chất cơ bản của đạo đức cách
mạng có thể khái qt thành bốn nội dung chính:
- Trung với nước, hiếu với dân: Đây là phẩm chất bao trùm nhất,
quan trọng nhất chi phối các phẩm chất khác, là điểm xuất phát mang tính
cách mạng trong quan niệm về đạo đức. "Trung" và "hiếu" là hai khái niệm cơ
12
bản, đứng đầu trong "tam cương" và "ngũ luân" của đạo đức nho giáo. Hồ Chí
Minh trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước của người Việt Nam, giữ lại ý
nghĩa trách nhiệm, bổn phận của người dân, của người con trong khái niệm
"trung, hiếu" để đưa vào đây nội dung mới, hồn tồn mang tính cách mạng,
"trung với nước, hiếu với dân". "Trung với nước" là trung thành với sự nghiệp
dựng nước, giữ nước của nhân dân, của Đảng; "hiếu với dân" là đem lại
cuộc sống "ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân", "thương dân, gần dân,
gắn bó với dân, kính trọng lễ phép với dân, học tập dân, dựa vào dân, lấy
dân làm gốc".
Đối với cán bộ, đảng viên Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cao hơn là
"tận trung với nước, tận hiếu với dân, vì cán bộ đảng viên vừa là người lãnh
đạo, người "dẫn dắt", nhưng lại "là đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
Trung với nước, hiếu với dân có quan hệ chặt chẽ với nhau, càng "trung với
nước" bao nhiêu, thì càng "hiếu với dân" bấy nhiêu và càng "hiếu với dân"
bao nhiêu sẽ thể hiện được "trung với nước" cao bấy nhiêu.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư:
+ Cần: Là chuyên cần, cần mẫn, mọi người cần phải có đức tính cần
cù, chủ động tích cực sáng tạo mang lại hiệu quả cao công việc mà mình đảm
nhận. Tính hiệu quả là u cầu khách quan, là chuẩn mực quan trọng để đánh
giá cán bộ đảng viên. Cán bộ, đảng viên phải chuyên cần, phải yêu, say mê
cơng việc của Đảng, của nhân dân giao phó như chính cơng việc của gia đình
mình, phải tìm tịi sáng tạo, phát hiện và nhân các sáng kiến, kinh nghiệm
hay, vận dụng vào thực tiễn có hiệu quả.
+ Kiệm: Là tiết kiệm, khơng xa xỉ hoang phí, mục đích của tiết kiệm
là nâng cao hiệu quả của lao động sản xuất, mọi người phải thực hành tiết
kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Tiết kiệm khơng khơng phải là bủn xỉn,
việc gì khơng nên tiêu sài dù một hào cũng khơng nên tiêu, việc gì đáng làm
13
mà có ích cho nhân dân cho đất nước thì dù có tốn đến bao nhiêu cơng bao
nhiêu của cũng vui lòng, như thế mới đúng là tiết kiệm"
+ Liêm: Là trong sạch không tham lam, không tham tiền của, địa vị,
danh lợi, không tham ăn ngon, mặc đẹp … cán bộ, đảng viên phải lấy chữ
Liêm làm đầu, phải thường xuyên rèn luyện phẩm chất liêm khiết trước nhân
dân, trước Đảng. Cán bộ, đảng viên phải thực hành chữ Liêm trước để làm
kiểu mẫu cho nhân dân.
+ Chính: Là ngay thẳng, không tà, đúng đắn, là người làm việc công,
phải công tâm, công đức, chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người
tư làm việc công, việc gì cũng phải cơng minh chính trực, khơng nên tư ân, tư
huệ hoặc tư thù, tư ốn. Mình có quyền dùng người thì phải dùng người có tài
năng, làm được việc, thực sự cần, kiệm, liêm, chính.
Người cán bộ, đảng viên khơng chỉ nỗ lực rèn luyện mình theo chính
nghĩa cách mạng mà phải đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, khơng chân
chính; khơng chỉ tích cực xây dựng đức "chính" ở người khác mà phải thực sự
phê bình và tự phê bình một cách thẳng thắn để chiến thắng sự cám dỗ của
các thế lực đen tối.
+ Chí cơng vơ tư là đem lịng chí cơng vơ tư đối với người, với việc,
ham làm những việc ích nước lợi dân, khơng ham địa vị cơng danh. Chí cơng
vơ tư là chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà, chăm lo việc tập thể như
việc gia đình. Như vậy, chí cơng vơ tư khơng phải là khơng chăm lo đến lợi
ích riêng, Bác chỉ yêu cầu trong quan hệ lợi ích chung và riêng phải hài hịa,
nghĩ lợi ích riêng nhưng cần tính toán ưu tiên đến lợi ích chung.
Cơ sở khách quan của chí công vô tư là quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích cộng đồng, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, trong đó lợi ích
riêng, lợi ích cá nhân chỉ có tính chân chính khi nó khơng đối lập với lợi ích
chung, đặt lợi ích của Đảng của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân mình.
14
Chí cơng vơ tư là phải chống chủ nghĩa cá nhân. Bác lưu ý đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân khơng phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi người
đều có tính cách, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình, nếu
lợi ích cá nhân mà khơng trái với lợi ích tập thể thì khơng phải là xấu.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là những phẩm chất đạo đức
căn bản của người cách mạng.
- Thương yêu, quý trọng con người: Người cách mạng, người có lý
tưởng xã hội chủ nghĩa khơng thể là người khơng có tình u thương con
người. Rộng lượng, khoan dung với người, biết cách nâng đỡ con người, thái
độ tôn trọng con người luôn gắn liền với yêu thương, quý trọng con người và
đồng thời phải nghiêm khắc với bản thân mình.
Tình u thương con người khơng chung chung trừu tượng, phi giai
cấp mà gắn với cuộc đấu tranh giải phóng, giành độc lập tự do cho dân tộc và
tiến lên chủ nghĩa xã hội; con người được giải phóng, được sống trong đất
nước độc lập, trở thành chủ nhân thật sự của đất nước, được "ấm no, tự do,
hạnh phúc".
- Tinh thần quốc tế trong sáng: Theo Hồ Chí Minh, tinh thần yêu
nước phải gắn liền với tinh thần quốc tế trong sáng, chân chính. Nếu chỉ có
tinh thần u nước mà khơng có tinh thần quốc tế trong sáng, chân chính thì
sẽ dẫn đến hoặc kỳ thị dân tộc, chủng tộc, nước lớn hoặc dân tộc hẹp hịi.
Tinh thần quốc tế trong sáng chân chính là tinh thần quốc tế vơ sản, đồn kết
các dân tộc bị áp bức giai cấp vơ sản tồn thế giới trong cuộc đấu tranh cho
tiến bộ, hịa bình, độc lập dân tộc, hữu nghị, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.
Đạo đức cách mạng "là gốc, là nền tảng của người cách mạng" là
nguồn nước làm cho tinh thần cách mạng khơng bao giờ cạn. Bác khẳng định
"có sức mới gánh được xa, có đức mới hồn thành nhiệm vụ", "phải có cái
15
đức để đi đến cái trí, và khi đã có cái trí, hiểu biết về khoa học, chủ nghĩa
Mác, phương pháp cách mạng…. thì cái đức chính là cái bảo đảm cho người
cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp thuận, đã
đi theo.
Cần phải nhấn mạnh rằng, đạo đức cách mạng mà Bác Hồ đã chỉ ra
như: Trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư …
là một động lực giúp con người vượt qua cạm bẫy của chủ nghĩa cá nhân,
vượt qua những khó khăn gian khổ để phấn đấu cho lợi ích của Đảng, của
cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của lồi người. Có đạo đức cách
mạng thì khi cần, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình. Động lực của đạo
đức cách mạng còn biểu hiện ở mặt thứ hai là khi gặp thuận lợi và thành công
cũng vẫn giữ được tinh thần giản dị, chất phác, khiêm tốn, không kèn cựa về
mặt hưởng thụ, không công thần, quan liêu, kiêu ngạo, hủ hóa. Vì đạo đức
cách mạng ln gắn liền với việc thực hiện mục tiêu của Đảng nên một người
cách mạng vừa phải có đức, vừa phải có tài. Có đức mà khơng có tài khơng
thể phục vụ tốt nhiệm vụ cách mạng. Đặc biệt khi cách mạng phát triển, xã
hội đi lên, muốn bớt đi sự mò mẫm, sai lầm, càng phải có cả đức cả tài. Cán
bộ đảng viên nếu khơng được học tập, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin,
không hiểu biết về khoa học kỹ thuật, khơng có một trình độ văn hóa phổ
thơng … thì khơng thể nói tới việc xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Ngược lại, người có tài lại phải có đức, có tài năng, trí tuệ, sự hiểu biết về
khoa học kỹ thuật nhưng phải có đức để phục vụ đúng mục đích, cống hiến
cho nhân dân, cho Đảng. Có như vậy chữ tài mới đem lại hiệu quả đích thực.
Tài và Đức là hai mặt cấu thành nhân cách người đảng viên nói
chung, người đảng viên là cán bộ nói riêng, chúng phải thống nhất gắn bó với
nhau. Nếu tách rời, bản thân mỗi thành tố sẽ tự làm suy yếu nó. Nói về sự
thống nhất giữa đức và tài trong cấu trúc nhân cách người cán bộ, Hồ Chí
16
Minh viết: “Có tài mà khơng có đức thì khơng những khơng được gì lợi ích
cho xã hội mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví như
ơng Bụt khơng làm hại gì, nhưng cũng khơng lợi cho lồi người” [52, tr.172].
Trong tư tưởng của Người, đạo đức cách mạng là thước đo bản chất
người, trình độ người của mỗi cá nhân. Bởi vậy cũng như trời, đất " thiếu một
mùa thì khơng thành trời, thiếu một phương thì khơng thành đất, thiếu đức thì
khơng thành người".
Tóm lại, đạo đức cách mạng là đạo đức đáp ứng yêu cầu thực tiễn
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là sự thống nhất hữu
cơ giữa phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách
của người cán bộ, đảng viên; là động lực thúc đẩy người cán bộ - đảng viên
trong quá trình hoạt động cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm thực
hiện mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Với tính cách là một bộ phận của nền tảng tinh thần xã hội, đạo đức
ln có vị trí và vai trị quan trọng đối với sự phát triển của xã hội trong mọi
thời kỳ lịch sử. Đồng thời nó cũng là tính thứ hai so với tồn tại xã hội, là tồn
tại xã hội được ý thức. Điều đó cũng có nghĩa, khi tồn tại xã hội thay đổi, khi
cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, khi nền kinh tế xã hội nước ta có
nhiều bước vận động sâu sắc thì đạo đức cũng có những biến đổi nhất định.
Giai đoạn cách mạng hiện nay đã ảnh hưởng ra sao đến đạo đức cách mạng
của người cán bộ - đảng viên? Và nó đặt ra yêu cầu gì về đạo đức cách mạng của
đội ngũ này? cần phải làm gì để đạo đức cách mạng của cán bộ - đảng viên tác
động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội?
1.1.2. Những yêu cầu đạo đức cách mạng đối với cán bộ - đảng
viên trong giai đoạn hiện nay
Danh từ cán bộ có gốc Hán - Việt xuất hiện trong đời sống xã hội
nước ta, đã để lại dấu ấn tốt đẹp trong lịch sử cách mạng Việt Nam đặc biệt từ
17
khi có Đảng lãnh đạo. Cán bộ là "người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ
quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, khơng có chức vụ" [81, tr.105].
Chế độ xã hội nào cũng chú ý, quan tâm đến cán bộ, vì nó liên quan
đến vận mệnh và sự hưng thịnh của mỗi chế độ, mỗi quốc gia. Ở nước ta,
trong các thời kỳ cách mạng, cán bộ luôn là vấn đề nổi lên hàng đầu và giữ
vai trị hết sức trọng yếu. Nó chẳng những có ý nghĩa quyết định đối với công
tác xây dựng Đảng và việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ; cán bộ " vừa là người lãnh đạo vừa là người
đầy tớ trung thành của nhân dân".
Đảng muốn lãnh đạo cách mạng phải có đường lối chính trị đúng
đắn. Nhưng để xây dựng được đường lối đúng đắn và làm cho đường lối
trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì nhất thiết phải có đội
ngũ cán bộ vững vàng, đủ sức giúp Đảng hoạch định đường lối đúng và tổ
chức thực hiện đường lối. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Cán bộ là cái gốc của
công việc" [49, tr.265] và " muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ
tốt hoặc kém" [49, tr.240], cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền
khơng tốt hoặc khơng chạy thì động cơ dù tốt mấy, bộ máy cũng bị tê liệt.
Cán bộ là người định ra đường lối, chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước; đồng thời là người đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước đến với nhân dân; vận động, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi các
mục tiêu đề ra, đưa đất nước ngày càng phát triển và tiến bộ. Lênin đã chỉ rõ,
trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó
khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào.
Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng cần có một đội ngũ cán
bộ thích ứng, vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có năng lực đáp ứng được sự
18
địi hỏi của nhiệm vụ cách mạng. Chính vì thế, trong sự phát triển kinh tế - xã
hội hiện nay, đạo đức cần phải được nhấn mạnh trong mỗi con người, đặc
biệt đối với đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể quần
chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành
xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng làm
nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang.
Cán bộ - đảng viên là những người đảng viên được giao những chức
vụ, quyền hạn nhất định trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, xã hội. Họ tham
gia định hướng và điều khiển hoạt động của tổ chức ấy. Đây là những con
người rất quan trọng, có vai trị quyết định đến tồn bộ hoạt động của một tổ
chức, một địa phương, một đơn vị. Vì vậy những u cầu về tính tiền phong
gương mẫu, sự tận tụy hy sinh trong công việc, tinh thần đấu tranh tự phê
bình và phê bình đối với đội ngũ này địi hỏi càng cao hơn khơng chỉ đối với
quần chúng nhân dân mà cao hơn cả những cán bộ, đảng viên bình thường.
Trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng nhất định đều đặt ra
những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể cho người cán bộ - đảng viên. Trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, sau 20 năm đổi mới đất nước cùng với việc xây
dựng nền kinh tế thị trường chúng ta đã đạt được những thành quả to lớn trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời cũng có một sự xáo trộn rất
lớn trong đời sống tinh thần của xã hội, trong đó có đời sống đạo đức. Dường
như có những hiện tượng đạo đức truyền thống bị xuống cấp, đạo đức cách
mạng thậm chí lãng qn.
Trong khi đó nền kinh tế thị trường với xu hướng mở cửa và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho những luồng văn hóa, lối
sống tư sản tác động mạnh mẽ vào đội ngũ cán bộ - đảng viên: những người
19
được nhân dân giao quyền lực dễ lạm dụng quyền lực, sa vào chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa thực dụng, cơ hội chủ nghĩa. Cho nên mỗi cán bộ - đảng viên
phải tự đấu tranh với chính mình để tránh và chống lại những tác động tiêu
cực đó.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp;
công cuộc đổi mới đất nước đang đặt ra những yêu cầu đạo đức cách mạng
của đội ngũ cán bộ - đảng viên là rất cấp bách:
Một là, người cán bộ - đảng viên phải luôn gương mẫu, nêu tấm
gương sáng về đạo đức: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư. Trong điều
kiện Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên lưu tâm rằng, cán
bộ, đảng viên ln trau dồi đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, thì hệ
thống chính trị sẽ trong sạch, vững mạnh, khơng có tệ quan liêu, tham nhũng.
Người nhấn mạnh: “Tự phê bình phải chính trước, mới giúp được người khác
chính. Mình khơng chính, mà muốn người khác chính là vơ lý” [49, tr.644].
Gương mẫu là một địi hỏi hết sức nghiêm túc mà người cán bộ phải thực hiện,
khơng được tự dễ dãi với bản thân mình. Phải gương mẫu cả trong lời nói và trong
cơng việc. Một đảng viên bình thường cần phải có đạo đức cách mạng, những
đảng viên là cán bộ yêu cầu này còn cao hơn để không ngừng trau dồi nâng cao
kiến thức, nắm bắt thực tiễn, trăn trở tìm ra giải pháp cho cơng tác đạt hiệu
quả cao, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước.
Cần phải đi đôi với tiết kiệm. Cán bộ là những người nắm giữ quyền
lực của nhân dân nếu khơng có đức tính tiết kiệm dễ sa vào lối sống xa hoa,
chạy theo những khát vọng điên cuồng về danh lợi, lãng phí thời gian, của cải
khơng chỉ riêng mình mà cịn của nhân dân. Trong thực tế khơng ít cán bộ,
đảng viên đã lợi dụng quyền lực, tiền bạc của nhân dân để đổ vào những cuộc
ăn chơi sa đọa. Họ tìm “kẽ hở” của pháp luật, lợi dụng quyền lực để tham
nhũng, làm thất thoát tiền bạc, tài sản của Nhà nước. Do đó, đạo đức của
20
người cán bộ - đảng viên trong điều kiện hiện nay là biết tiết kiệm và gương
mẫu trong thực hành tiết kiệm; tức là biết chi tiêu một cách khoa học và hiệu
quả trong mọi công việc, đặc biệt là tiết kiệm thời gian, tiền bạc của Nhà
nước, của nhân dân, tiết kiệm để đầu tư tái sản xuất, mở rộng sản xuất, phát
triển kinh tế xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường tính hiệu quả, các lợi ích vật
chất, giá trị đồng tiền được đề cao, khía cạnh thực dụng phát triển mạnh trong
các mối quan hệ, Nếu cán bộ - đảng viên không gương mẫu trong tính liêm
khiết thì khó thốt khỏi bệnh cơ hội, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, tư lợi bất
minh, bệnh tham nhũng, đặc biệt là “tham nhũng quyền lực” - lợi dụng chức
quyền để kiếm lợi cho cá nhân, người thân, gia đình, người quen, hay lợi
dụng chức quyền để có tiền, của hối lộ cấp trên, mua chuộc cấp dưới, bảo vệ
vị trí của mình.
Kinh tế thị trường ngồi những tác động tích cực cịn có những tác
động tiêu cực tới sự phát triển nhân cách con người, nó dễ tạo ra sự phát triển
cá nhân một cách phiến diện. Khi hoạt động của con người định hướng chủ
yếu vào mục tiêu làm giàu, tính thực dụng sẽ nổi lên cản trở, thậm chí loại trừ
những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc. Mặt khác trong quá
trình mở cửa, hội nhập, những thế lực thù địch tìm cách truyền vào nước ta
những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, văn hóa thực dụng, trực tiếp hay
gián tiếp mua chuộc, dụ dỗ, không chế, lôi kéo cán bộ vào con đường sa đọa
về đạo đức, lối sống, phá hoại ý thức đạo đức xã hội chủ nghĩa, đối tượng
quan trọng kẻ thù hướng tới là đội ngũ cán bộ, nhằm phá hoại Đảng ta từ bên
trong. Trước những tình huống đó, người cán bộ - đảng viên phải vững vàng,
quang minh chính đại, khơng dao động, khơng sa ngã trước sự cám dỗ của
tiền bạc và uy quyền, trung thành với lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân
dân. Sự mẫu mực trong chữ Liêm đối với người cán bộ - đảng viên càng trở