Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Hoàn thiện quản lý nhà nước về vận tải hành khách của tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519 KB, 111 trang )

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG VIẾT TẮT
ATGT
BTXM
BOT
BT
CHXHCN
CNH-HĐH
CSHT
ĐRCN
ĐVT
GPLX
HĐND
HTX
KCN
NSNN
NSTW
GTĐB
GTĐT
GTVT
PTTH
QLNN
TNGT
: An toàn giao thông
: Bê tông xi măng
: Xây dựng-kinh doanh-chuyển giao
: Xây dựng-chuyển giao
: Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa


: Cơ sở hạ tầng
: Đưa rước công nhân
: Đơn vị tính
: Giấy phép lái xe
: Hội đồng nhân dân
: Hợp tác xã
: Khu công nghiệp
: Ngân sách nhà nước
: Ngân sách Trung ương
: Giao thông đường bộ
: Giao thông đô thị
: Giao thông vận tải
: Phát thanh truyền hình
: Quản lý Nhà nước
: Tai nạn giao thông
XHCN
VTHK
VNĐ
UBND
: Xã Hội Chủ Nghĩa
: Vận tải hành khách
: Việt Nam đồng
: Ủy Ban Nhân Dân
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
BẢNG
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Chuyến – xe của tuyến VTHK cố định Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ % của 5 công ty kinh doanh VTHK bằng xe Taxi Error:
Reference source not found

Biểu đồ 2.3. Cơ cấu bộ máy QLNN về VTHK Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.4. Cơ cấu bộ máy của Sở GTVT Đồng Nai Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2.5. Số lượng đội ngũ lái xe Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.6. Số vụ vi phạm, tổng số tiền nộp Kho bạc Nhà nước Error: Reference
source not found
Biểu đồ 2.7. Sản lượng vận chuyển hành khách Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.8. Số lượng các tỉnh đối lưu với tỉnh Đồng Nai Error: Reference source
not found
Biểu đồ 2.9. Tổng số xe các doanh nghiệp đầu tư theo Quyết định 39 Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.10. Số lượng xe theo tuyến cố định, xe buýt, taxi.Error: Reference source
not found
Biểu đồ 2.11. Số lượng doanh nghiệp, HTX, taxi tham gia kinh doanh VTHK Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.12. Tổng số tiền trợ giá tuyến VTHK công cộng bằng xe buýt Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.13. Chi phí trợ giá cho 1 hành khách/đồng Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2.14. Cấp thẻ đi xe buýt miễn phí Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.15. Tình hình tai nạn giao thông Error: Reference source not found
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Trong buổi gặp mặt các đại biểu dự Đại hội Thi đua đảm bảo GTVT quyết tâm
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tổ chức tại Hà Nội ngày 24/3/1966 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói : “Nhiệm vụ của các cô, các chú bên GTVT rất quan trọng, phải làm
cho tốt, làm cho kỳ được … GTVT có nhiều ngành. Có ngành thủy, ngành bộ, có
xe, có cầu, có phà … các cô các chú phải ra sức thi đua với nhau. Thi đua làm
cho giao thông : một là thông suốt, hai là an toàn, ba là liên tục. Phải nhằm vào
ba cái đó mà thi đua”.

Ba yêu cầu đó đối với GTVT theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh gồm 6
chữ : Thông suốt – An toàn – Liên tục. Sáu chữ này bao gồm những nội dung khá
phong phú. Mỗi cặp chữ là một nội dung, một mục tiêu cơ bản của GTVT. Ba cặp
chữ tạo nên một yêu cầu, một mục tiêu hoàn chỉnh mà ngành GTVT phải phấn đấu
đạt cho kỳ được. Ba yêu cầu “thông suốt, an toàn, liên tục” tuy mỗi yêu cầu có mặt
riêng của nó, song lại có mối quan hệ hữu cơ với nhau, do đó khi thực hiện không
chỉ thực hiện một yêu cầu nào. “Liên tục” chỉ có thể đảm bảo khi đường sá “thông
suốt”, xe cộ “an toàn”, người sử dụng phải có tinh thần trách nhiệm.
Căn cứ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam nhằm “Phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hàng hóa,
hành khách ngày càng hiện đại, an toàn có sức cạnh tranh, vươn ra thị trường
khu vực và thế giới… Phát triển mạnh vận chuyển hành khách công cộng ở các
thành phố lớn”, “Thực hiện mạnh mẽ việc phân cấp trong hệ thống hành chính
đi đôi với tính tập trung, thống nhất trong việc ban hành thể chế. Quy định rõ
trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp, từng tổ chức, từng cá nhân. Đề cao trách
nhiệm cá nhân … Khắc phục tình trạng chồng chéo”, “Nâng cao chất lượng,
tăng khối lượng và độ an toàn vận tải hành khách, hàng hóa trên tất cả các loại
hình vận tải; có biện pháp tích cực để giải quyết tốt vận tải hành khách công
cộng ở các thành phố lớn Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, phấn đấu để giảm
thiểu tai nạn giao thông …”.
1
Căn cứ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt
Nam nhằm : “Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng yêu cầu và phù hợp với
tiềm năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới;
tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển vượt bậc của
khu vực dịch vụ”; “Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ
truyền thống trong đó có vận tải,…phát triển nhanh hơn dịch vụ vận tải, tạo lập
và phát triển mạnh vận tải đa phương thức và dịch vụ hỗ trợ các phương thức
vận tải”.
Như vậy, GTVT là một bộ phận quan trọng cấu thành cơ sở hạ tầng của nền

kinh tế đất nước, là huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, là mắt xích không thể
thiếu được trong sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sự giao lưu kinh tế và văn
hóa phục vụ cho đời sống vật chất và tinh thần của con người. Ngoài ra GTVT còn
giữ một vai trò quan trọng đối với việc giữ gìn an ninh quốc phòng, phục vụ sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Trong thời gian qua hệ thống pháp luật về GTVT đường bộ của nước ta chưa
hoàn chỉnh, các văn bản pháp luật vừa thiếu, vừa không đồng bộ. Công tác QLNN
về GTVT đường bộ chưa theo kịp nhu cầu phát triển của lực lượng vận tải đường
bộ trong cơ chế thị trường. Sự phối hợp giữa các ngành, địa phương trong QLNN về
cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, còn chồng chéo làm ảnh hưởng đến hoạt động trong
lĩnh vực vận tải đường bộ. Công tác tuyên truyền giáo dục, phổ biến, hướng dẫn
pháp luật về luật GTĐB chưa hiệu quả, ý thức người dân về chấp hành pháp luật
GTĐB chưa cao. Trong một thời gian dài, Nhà nước đã buông lõng quản lý, để cho
lĩnh vực vận tải đường bộ phát triển tự phát, ồ ạt theo cơ chế thị trường dẫn đến sự
rối loạn trên thị trường vận tải, khủng hoảng “vừa thừa vừa thiếu”. Bên cạnh đó,
VTHK là phương thức vận tải gây ô nhiễm môi trường nhiều nhất, nhưng không
được quan tâm kiểm soát đúng mức.
Chưa tạo được môi trường bình đẳng cho các thành phần kinh tế kinh doanh
tham gia vào VTHK : Sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh
VTHK, chất lượng phương tiện đầu tư không đồng đều, các tuyến mở chồng chéo
2
kém hiệu quả, chưa ưu đãi cho các HTX như : cấp đất, thuế, cho vay với lãi suất ưu
đãi để đầu tư phương tiện …
Một số thành phần tham gia VTHK chấp hành pháp luật chưa cao, nhiều hiện
tượng tiêu cực, nhưng giải quyết không triệt để như : TNGT, ùn tắc giao thông, xe
dù, tranh giành khách, bán khách, chạy không đúng tuyến, xe không vào bến, …
Việc kiểm tra, kiểm soát trên đường của Thanh tra đường bộ chưa cao, công
tác trật tự ATGT thực hiện chưa nghiêm, TNGT vẫn còn ở mức cao, ảnh hưởng lớn
đến phát triển kinh tế - xã hội.
Với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, việc QLNN về GTVT

đường bộ nói chung, VTHK nói riêng là vấn đề cấp thiết cần được Nhà nước quan
tâm và kiểm soát để có thể dần dần đưa công tác quản lý VTHK đi vào nề nếp, góp
phần vào của sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hoạt động VTHK có tính xã hội hóa cao sẽ ảnh hưởng nhiều đến ổn định xã
hội. Dó đó, việc QLNN về VTHK là một việc làm cấp thiết trong hiện nay để có thể
phát triển lĩnh vực vận tải một cách bền vững, tạo môi trường văn hóa giao thông
như các nước tiên tiến trên thế giới.
Từ những vấn đề trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu : “Hoàn thiện quản lý
nhà nước về vận tải hành khách của tỉnh Đồng Nai”.
2.Mục đích nghiên cứu.
Tác giả sẽ phân tích làm rõ cơ sở lý luận, hệ thống hóa các lý thuyết, quan
điểm về QLNN về VTHK; phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về VTHK tỉnh
Đồng Nai; đề xuất giải pháp hoàn thiện QLNN về VTHK tỉnh Đồng Nai nhằm đáp
ứng yêu cầu và nhu cầu của xã hội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời giai tới.
3.Tình hình nghiên cứu.
QLNN về VTHK là một lĩnh vực nghiên cứu mang tính chuyên ngành,
nghiên cứu các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các chính sách có liên
quan đến hoạt động VTHK trong tình hình kinh tế của tỉnh cũng như của đất nước,
hội nhập khu vực, hội nhập toàn cầu, từ đó hoàn thiện công tác QLNN về VTHK
trên địa bàn tỉnh.
3
Trong quá trình nghiên cứu để thực hiện đề tài luận văn của mình, tác giả đã
nghiên cứu một số tài liệu quốc tế và trong nước.
 Nghiên cứu quốc tế, tác giả đã tham khảo quá trình hình thành lý thuyết
quản lý, lý thuyết quản lý và thuyết quản lý theo khoa học của Freederick Winslow
Taylor (1856-1916) với 4 nguyên tắc quản lý, đó là :
- Xây dựng cơ sở khoa học cho các công việc (định mức, phương pháp).
- Chọn công nhân khoa học, chú trọng kỹ năng, có huấn luyện.
- Khen thưởng, trang bị nơi làm việc đầy đủ.
- Phân niệm quản lý và sản xuất, tạo tính chuyên nghiệp của quản lý.

Đối với thuyết hành vi trong quản lý của Herbert A.Simom thì cốt lõi của quản
lý là ra quyết định (quyết sách), bao gồm : hoạch định kế hoạch, lựa chọn phương
án hành động, thiết lập cơ cấu tổ chức, phân định trách nhiệm và quyền hạn, so sánh
tình hình thực tế với kế hoạch, kiểm tra, tổ chức và điều khiển đối với mọi cấp quản
lý và mọi mặt của quá trình quản lý.
Ngoài ra, tác giả đã tham khảo sách “Những vấn đề cốt yếu của Quản lý” của
TS.Harald Koontz, TS.Cyril Odonnell, TS.Heinz Weirich, NXB Khoa học và kỹ
thuật, 1998. Sách đã trình bày một cách hệ thống những vấn đề cần thiết trong quản
lý, đây là quyển sách hữu ích đã giúp cho tác giả một bộ khung của kiến thức cơ
bản của quản lý theo các chức năng lập kế hoạch, xây dựng tổ chức, xác định biên
chế, lãnh đạo và kiểm tra. Mục đích là nhằm làm quản lý trở thành một khoa học -
tức là một tri thức có tổ chức và làm cho khoa học này trở nên hữu ích khi áp dụng
trong thực tế với tư cách là nhà thực hành. Tuy nhiên, dù có nhấn mạnh nhiều vào vai
trò quản lý trong việc tạo ra và duy trì một môi trường bên trong, tác giả nhận thấy
rằng vẫn phải xét tới sự hoạt động của các nhà quản lý đối với toàn bộ môi trường
xung quanh như về mặt kinh tế, xã hội, chính trị, kỹ thuật-công nghệ và đạo lý.
 Nghiên cứu trong nước, tác giả đã nghiên cứu một số giáo trình của Trường
Đại học Kinh tế Quốc dân, Học viện Hành chính Quốc gia.
Trong quá trình thực thi chính sách, cần áp dụng một số nội dung như hoạch
định, tổ chức và kiểm tra. Nhà nước cần có lực lượng kinh tế để sản xuất và cung
4
ứng những hàng hóa dịch vụ mà khu vực tư nhân không làm được hoặc làm được
nhưng cần có sự hỗ trợ của nhà nước. Để thực hiện nhiệm vụ quản lý, nhà nước cần
phải tổ chức thực hiện bộ máy và ban hành các Luật, các văn bản quy phạm pháp
luật để điều tiết nền kinh tế thị trường, hướng dẫn, quản lý các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân trong quá trình điều hành đất nước. Nội dung QLNN đối với các
doanh nghiệp, HTX là xây dựng và ban hành pháp luật, xây dựng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, dự án, đầu tư, tổ chức thực hiện, định hướng và điều chỉnh, thực
hiện các hoạt động hỗ trợ, kiểm tra, giám sát.
Ngoài ra, tác giả đã nghiên cứu luận văn thạc sĩ và đề tài nghiên cứu khoa học

thuộc chuyên ngành GTVT, qua đó tác giả đã kế thừa và phát huy những tài liệu, số
liệu liên quan đến luận văn của mình.
Như vậy, có khá nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực QLNN, nhưng những
công trình nghiên cứu chỉ tập trung nhiều ở QLNN ở tầm vĩ mô, ở các lĩnh vực
khác, chứ chưa nghiên cứu sâu rộng ở tầm vi mô và ở lĩnh vực chuyên ngành như
ngành GTVT, đặc biệt trong lĩnh vực VTHK.
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn, tác giả đã kế thừa, học tập
những ưu điểm, những cơ sở lý luận của các giáo trình, luận văn, đề tài nghiên cứu
khoa học có liên quan đến luận văn của mình, tuy nhiên vì mục tiêu, phạm vi và đối
tượng nghiên cứu có khác nhau nên luận văn không trùng lắp với các công trình khoa
học đã nêu về nội dung và hình thức. Luận văn đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của
một luận văn thạc sỹ, có giá trị lý luận và thực tiễn, đề xuất được một số giải pháp và
kiến nghị nhằm hoàn thiện QLNN về VTHK của tỉnh Đồng Nai. Luận văn có thể sử
dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong lĩnh vực QLNN về giao thông.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu : Quá trình thực hiện QLNN về VTHK đối với các
doanh nghiệp, HTX kinh doanh VTHK.
Phạm vi nguyên cứu : Vận tải hành khách đường bộ bằng xe ô tô đối với
VTHK theo tuyến cố định, VTHK bằng xe buýt và xe taxi trong phạm vi của tỉnh
Đồng Nai từ năm 2007-2009.
5
5.Câu hỏi nghiên cứu.
- Việc QLNN đối với các doanh nghiệp, HTX kinh doanh VTHK hiện nay
như thế nào ?
- Các vấn đề còn tồn tại trong quá trình quản lý VTHK của tỉnh Đồng Nai ?
- Những giải pháp và điều kiện cần phải thực hiện để hoàn thiện QLNN về
VTHK của tỉnh Đồng Nai
6.Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở phương pháp luận.
Trong luận văn, có sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp

thống kê kết hợp với phương pháp chuyên gia thông qua việc tham khảo các ý kiến
của các chuyên gia, các báo cáo của Sở, các đơn vị trực thuộc ngành có liên quan.
Mặt khác, trên cơ sở những kiến thức đã học, những kinh nghiệm trong quá trình
công tác của bản thân để đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện
mục tiêu nghiên cứu.
7.Những đóng góp của luận văn.
- Góp phần xây dựng lý luận về QLNN về VTHK.
- Trình bày, phân tích những kết quả đạt được, những tồn tại, nguyên nhân, từ
đó xây dựng những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện việc QLNN về VTHK trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
8.Kết cấu của luận văn.
Luận văn gồm 3 chương :
Chương 1 : Cơ sở lý luận của QLNN về VTHK.
Chương 2 : Thực trạng QLNN về VTHK tỉnh Đồng Nai.
Chương 3 : Giải pháp hoàn thiện QLNN về VTHK tỉnh Đồng Nai.
6
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ VẬN TẢI HÀNH KHÁCH
1.1. Đường bộ và vận tải hành khách
1.1.1. Đường bộ
a. Khái niệm đường bộ
Đường bộ là các công trình giao thông phục vụ cho sự đi lại của người dân và
các phương tiện vận tải tham gia đường bộ bao gồm đường, cầu đường bộ, hầm
đường bộ, bến phà đường bộ.
Hệ thống đường bộ trong cả nước là một mạng liên hoàn do nhà nước thống
nhất quản lý không phân biệt đường bộ được xây dựng bằng nguồn vốn nào.
+ Các khái niệm khác liên quan đến đường bộ :
- Công trình đường bộ gồm đường bộ, nơi dừng xe, đỗ xe trên đường bộ, đèn
tín hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ đường, cọc tiêu, rào chắn, đảo giao thông, dải phân

cách, cột cây số, tường, kè, hệ thống thoát nước, trạm kiểm tra tải trọng xe, trạm thu
phí và các công trình, thiết bị phụ trợ đường bộ khác.
- Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ gồm công trình đường bộ, bến xe, bãi
đỗ xe, trạm dừng nghỉ và các công trình phụ trợ khác trên đường bộ phục vụ giao
thông và hành lang an toàn đường bộ.
- Đất của đường bộ là phần đất trên đó công trình đường bộ được xây dựng và
phần đất dọc hai bên đường bộ để quản lý, bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ.
- Hàng lang an toàn đường bộ là dải đất dọc hai bên đất của đường bộ, tính từ
mép ngoài đất của đường bộ ra hai bên để bảo đảm an toàn giao thông đường bộ.
- Phần đường xe chạy là phần của đường bộ được sử dụng cho phương tiện
giao thông qua lại.
- Làn đường là một phần của phần đường xe chạy được chia theo chiều dọc
của đường, có bề rộng đủ cho xe chạy an toàn.
7
- Khổ giới hạn của đường bộ là khoảng trống có kích thước giới hạn về chiều
cao, chiều rộng của đường, cầu, bến phà, hầm đường bộ để các xe kể cả hàng hóa
xếp trên xe đi qua được an toàn.
- Đường phố là đường đô thị, gồm lòng đường và hè phố.
- Đường cao tốc là đường dành cho xe cơ giới, có dải phân cách chia đường
cho xe chạy hai chiều riêng biệt; không giao nhau cùng mức với một hoặc các
đường khác; được bố trí đầy đủ trang thiết bị phục vụ, bảo đảm giao thông liên tục,
an toàn, rút ngắn thời gian hành trình và chỉ cho xe ra, vào ở những điểm nhất định.
- Đường chính là đường mà trên đó phương tiện tham gia giao thông đường
bộ được các phương tiện giao thông đến từ hướng khác nhường đường khi qua nơi
đường giao nhau, được cắm biển báo hiệu đường ưu tiên.
- Đường gom là đường để gom hệ thống đường giao thông nội bộ của các khu
đô thị, công nghiệp, kinh tế, dân cư, thương mại – dịch vụ và các đường khác vào
đường chính hoặc vào đường nhánh trước khi đấu nối vào đường chính.
b.Phân loại đường bộ.
Mạng lưới đường bộ được chia thành sáu hệ thống gồm quốc lộ, đường tỉnh,

đường huyện, đường xã, đường đô thị và đường chuyên dùng.
 Quốc lộ (QL) :
Quốc lộ là đường nối liền Thủ đô Hà Nội với trung tâm hành chính cấp tỉnh;
đường nối liền trung tâm hành chính cấp tỉnh từ ba địa phương trở lên; đường nối
liền từ cảng biển quốc tế, cảng hàng không quốc tế đến các cửa khẩu quốc tế, cửa
khẩu chính trên đường bộ; đường có vị trí đặc biệt quan trọng trọng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của vùng, khu vực.
 Đường tỉnh (ĐT) :
Đường tỉnh là đường nối trung tâm hành chính của tỉnh với trung tâm hành
chính của huyện hoặc trung tâm hành chính của tỉnh lân cận; đường có vị trí quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
 Đường huyện (ĐH) :
Đường huyện là đường nối trung tâm hành chính của huyện với trung tâm
8
hành chính của xã, cụm xã hoặc trung tâm hành chính của huyện lân cận; đường có
vị trí quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
 Đường xã (ĐX) :
Đường xã là đường nối trung tâm hành chính của xã với các thôn, làng, ấp, bản
và đơn vị tương đương hoặc đường nối với các xã lân cận; đường có vị trí quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của xã.
 Đường đô thị (ĐĐT) :
Đường đô thị là đường trong phạm vi giới hành chính nội thành, nội thị.
 Đường chuyên dùng (ĐCD) :
Đường chuyên dùng là đường chuyên phục vụ cho việc vận chuyển, đi lại của
một hoặc một số cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Vận tải hành khách
a. Khái niệm vận tải hành khách
Vận tải hành khách là một loại hình kinh doanh vận tải đường bộ, là ngành
nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật, hoạt động VTHK phải
phù hợp với quy hoạch GTVT đường bộ và mạng lưới tuyến vận tải.

b.Hình thức vận tải hành khách
- Kinh doanh VTHK theo tuyến cố định có xác định bến đi, bến đến và ngược
lại với lịch trình, hành trình phù hợp do doanh nghiệp, HTX đăng ký và được cơ quan
quản lý tuyến chấp thuận. Bao gồm : tuyến liên tỉnh và tuyến nội tỉnh. Tuyến liên tỉnh
có cự ly từ 300 km trở lên phải xuất phát và kết thúc tại bến xe loại 4 trở lên.
- Kinh doanh VTHK bằng xe buýt theo tuyến cố định có các điểm dừng, đón
trả khách và xe chạy theo biểu đồ vận hành với cự ly, phạm vi hoạt động nhất định.
- Kinh doanh VTHK đưa rước công nhân bằng xe buýt theo tuyến cố định có
các điểm dừng đón, trả khách ở các khu công nghiệp, trường học, phạm vi hoạt
động nhất định.
- Kinh doanh VTHK bằng xe taxi có lịch trình và hành trình theo yêu cầu của
hành khách; cước tính theo đồng hồ tính tiền căn cứ vào ki lô mét lăn bánh, thời
gian chờ đợi.
9
c. Mô hình vận tải hành khách
- Doanh nghiệp kinh doanh vận tải là các doanh nghiệp được thành lập theo
Luật doanh nghiệp (29/11/2005). Lệnh số 33/2005/L/CTN ngày 12/12/2005 của
Chủ tịch nước về việc công bố Luật Doanh nghiệp.
Theo Điều 4 chương I : “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
- Hợp tác xã là tổ chức được thành lập theo Luật của nước CHXHCN Việt
Nam số 18/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về HTX.
Theo Điều 1 chương I : “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân,
hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự
nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh
tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả
các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. HTX hoạt động như một loại hình
doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài

chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX theo
quy định của pháp luật”.
- Hộ kinh doanh cá thể là những cá nhân tự đầu tư xe, tự mình kinh doanh,
thường chạy theo hợp đồng.
1.2. Quản lý nhà nước về vận tải hành khách
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về vận tải hành khách
Có thể hiểu khái niệm QLNN về VTHK là : QLNN về VTHK là sự tác động
có tổ chức và bằng pháp quyền của bộ máy nhà nước lên đối tượng bị quản lý trong
việc tổ chức, quy hoạch, điều hành các tuyến xe thông qua quản lý các doanh
nghiệp, HTX kinh doanh trong lĩnh vực vận tải nhằm phục vụ cho nhu cầu đi lại của
nhân dân, góp phần vào việc tạo xây dựng và phát triển đất nước trong lĩnh vực
GTVT một cách có hiệu quả và công bằng.
10
QLNN về VTHK là một bộ phận quan trọng của QLNN đối với GTĐB cũng
như QLNN đối với chính sách kinh tế - xã hội nói chung. Xã hội luôn có những vấn
đề chung liên quan đến cuộc sống của mọi người, vượt quá phạm vi của mỗi cá
nhân, mỗi nhóm người, một tổ chức có quy mô nhỏ, vì vậy cần có sự QLNN đối với
những lĩnh vực mà tổ chức tư nhân trong hoạt động của mình cần có sự quản lý điều
tiết của nhà nước, thông qua QLNN để đáp ứng các nhu cầu trong đời sống xã hội
của mọi người. Một trong những vấn đề đó là GTĐB, đặc biệt là lĩnh vực VTHK,
một lĩnh vực cần phải được nhà nước quan tâm hàng đầu trong bối cảnh toàn cầu
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Thông thường nhà nước có hai chức năng chính là : (1) chức năng cai trị hay
còn gọi là QLNN bao gồm các hoạt động quản lý và điều tiết đời sống kinh tế - xã
hội thông qua các công cụ vĩ mô như pháp luật, chiến lược, chính sách, quy hoạch,
kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát; (2) chức năng phục vụ bao gồm các hoạt động
cung ứng dịch vụ công cho xã hội, cho các tổ chức xã hội và công dân, nhằm phục
vụ các lợi ích thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức và công dân. Việc
thực hiện QLNN là thực hiện theo nhu cầu của bản thân bộ máy nhà nước nhằm
đảm bảo trật tự, ổn định và an toàn xã hội. Còn việc cung ứng các dịch vụ công lại

do nhu cầu cụ thể của các tổ chức và công dân, ngay cả khi các nhu cầu này có thể
phát sinh từ những yêu cầu của nhà nước. Xét về bản chất, nhà nước thực hiện chức
năng cai trị hay QLNN, đồng thời không thể thiếu được việc cung cấp công cộng
một số hàng hóa và dịch vụ thiết yếu phục vụ nhu cầu của xã hội.
VTHK là một trong số các dịch vụ công cũng như điện, nước, bưu điện …
Theo đó, dịch vụ công có nghĩa là các hoạt động vì lợi ích chung do các cơ quan
nhà nước hoặc các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp nhà
nước và tư nhân được nhà nước trao quyền ủy nhiệm, trao quyền thực hiện và cung
cấp. Do nhu cầu chung của xã hội, đáp ứng những dịch vụ phúc lợi cho người dân
và để hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX kinh doanh vận tải bước đầu đi vào hoạt động
có hiệu quả, nhà nước cần phải dùng một khoản NSNN dùng để trợ giá, chi trả cho
11
các doanh nghiệp, vì vậy cần có sự quản lý của nhà nước trong việc điều hành, quản
lý sao cho mục tiêu của chính sách, chiến lược trong lĩnh vực VTHK đạt hiệu quả
cao nhất.
1.2.2. Mục tiêu quản lý nhà nước về vận tải hành khách
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin thì cơ sở hạ tầng quy định cấu trúc
và tính chất của kiến trúc thượng tầng. Vì thế kinh tế có vai trò rất quan trọng trong
đời sống xã hội. Hơn nữa chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không
thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế, chính trị ra đời, tồn tại, phát triển trên cơ
sở kinh tế. Đồng thời chính trị có vai trò tác động mạnh mẽ đối với kinh tế, mà
quyền lực chính trị được thực hiện thông qua nhà nước.
Trong thời đại toàn cầu hóa, bùng nỗ thông tin, giao lưu, trao đổi, buôn bán, du
lịch… ngày càng tăng nhanh, các quan hệ kinh tế ngày càng được mở rộng, mà kinh
tế là một lĩnh vực hoạt động chứa đựng mâu thuẫn giai cấp thống trị với giai cấp bị
thống trị, vì lợi ích của giai cấp mà cần có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh
tế tùy theo mức độ.
Có những lĩnh vực mà các doanh nghiệp không tự giải quyết được hoặc những
lĩnh vực về loại hình công cộng kinh doanh không có lãi thì nhà nước phải tham gia
đầu tư hoặc hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực phục vụ lợi

ích công cộng, nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế
cùng tham gia.
Do vậy, lĩnh vực VTHK là loại hình “sản xuất vật chất đặc biệt” mang tính xã
hội hóa cao. Nhu cầu đi lại của nhân dân là một điều tất yếu khách quan, xã hội ngày
càng phát triển thì đòi hỏi dịch vụ VTHK càng cao, mạng lưới VTHK phải đi trước
thời đại đáp ứng kịp thời sự phát triển của đất nước. Vì vậy cần có sự quan tâm đúng
mức của nhà nước để hoạch định đúng hướng cho sự phát triển loại hình dịch vụ này,
đây cũng là bộ mặt đổi mới của đất nước trong việc hình thành hệ thống GTĐB cũng
như mạng lưới VTHK theo tinh thần thực hiện “văn hóa giao thông”.
Trong lĩnh vực VTHK, phải phát triển đồng bộ về cả số lượng, chất lượng
phương tiện, bến bãi, chất lượng phục vụ, … nhưng phải có chiến lược, kế hoạch
12
phát triển, định hướng rõ ràng để không tạo ra sự lãng phí trong đầu tư, các doanh
nghiệp kinh doanh vận tải không có lãi, trật tự ATGT không đảm bảo, gia tăng
TNGT. Vì vậy, trong thực tế là cần phải có sự quản lý của nhà nước để điều tiết sự
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này – đây là yêu cầu cấp thiết và cấp bách
trong giai đoạn hiện nay.
Đối với tỉnh Đồng Nai, do đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội của tỉnh, đặc biệt
có sự chênh lệnh về kinh tế, xã hội, văn hóa giữa thành thị với nông thôn, vùng sâu
vùng xa, miền núi, đòi hỏi VTHK phải phát triển ổn định và bền vững đáp ứng nhu
cầu lớn của xã hội với sự định hướng đúng của chính quyền địa phương.
Như vậy, mục tiêu của QLNN về VTHK trong giai đoạn hiện nay là :
- Xây dựng và không ngừng hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy
hoạch để tạo điều kiện cho lĩnh vực VTHK phát triển đúng định hướng không xảy
ra lãng phí trong đầu tư, phát triển ổn định và bền vững để có thể đáp ứng được nhu
cầu phát triển của xã hội.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống GTĐB để phục vụ trong lưu thông đường
bộ mà chính là VTHK phục vụ cho sự đi lại của người dân.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh VTHK hoạt động
trong môi trường kinh doanh lành mạnh, ít tệ nạn, ít có sự thay đổi trong chính sách.

Vì muốn phát triển nhanh, bền vững thì phải có sự ổn định xã hội, bảo đảm ATGT.
- Thanh tra, kiểm tra phải đúng quy định của pháp luật, không để tình trạng
tham nhũng, nhũng nhiễu trong thanh tra, kiểm tra, kiểm soát. Có như vậy thì các
doanh nghiệp mới có thể yên tâm đầu tư phương tiện cho sự phát triển kinh doanh
của mình.
- Hạn chế mật độ lưu thông đường bộ bằng xe cá nhân, dần dần tạo thói quen
cho người dân sử dụng phương tiện công cộng khi tham gia lưu thông, từ đó hạn
chế nạn ùn tắc giao thông, kìm chế TNGT
- Tạo điều kiện, giúp người dân hiểu rõ hơn sự cần thiết phải biết Luật GTĐB
khi tham gia giao thông, đồng thời người dân đồng tình ủng hộ sự phát triển loại
hình VTHK công cộng, tạo nên nét văn hóa giao thông trong cộng đồng. Dần dần
13
tạo thói quen không dùng phương tiện cá nhân khi lưu thông, giúp cho bộ mặt về
GTĐB có sự văn minh như hầu hết các nước trên thế giới
1.2.3. Nguyên tắc quản lý nhà nước về vận tải hành khách
Để QLNN về VTHK có hiệu quả, nhà nước và các cơ quan chức năng có liên
quan cần phải tuân thủ nghiêm các nguyên tắc, đó là các ràng buộc khách quan
mang tính khoa học mà nhà nước cần thực hiện trong quá trình hoạt động quản lý
của mình.
a. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật, chính sách nhà nước
Phải đảm bảo theo nguyên tắc tuân thủ pháp luật, chính sách của Nhà nước. Mọi
hoạt động trong QLNN về VTHK phải theo khuôn khổ của pháp luật, thực hiện đúng
theo quy định các chỉ thị, thông tư, quyết định liên quan đến hoạt động kinh doanh
VTHK. Các doanh nghiệp, HTX kinh doanh VTHK phải tuân thủ những chính sách
pháp luật của Nhà nước, những quy định trong lĩnh vực VTHK khi tham gia hoạt
động kinh doanh vận tải; nếu có sai phạm thì sẽ bị xử lý đúng theo quy định.
b.Nguyên tắc “Thông suốt-An toàn-Liên tục”
Nguyên tắc “Thông suốt-An toàn-Liên tục” phải được thực hiện nghiêm túc.
Với vai trò là QLNN, Sở GTVT phải quy hoạch hệ thống GTĐB hợp lý để hoạt
động VTHK luôn được thông suốt. Các doanh nghiệp, HTX phải tổ chức quản lý

điều hành để mạng lưới VTHK được hoạt động liên tục. Các lái xe, người tham gia
giao thông phải nghiêm chỉnh chấp hành quy tắc giao thông để luôn giữ gìn an toàn
cho mình và cho người khác.
c. Nguyên tắc “Đúng giờ”
Quản lý tổ chức điều hành các tuyến VTHK theo nguyên tắc “Đúng giờ”, đi
đúng lịch trình, biểu đồ xe chạy, xuất bến đi và về bến đến đúng giờ.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về vận tải hành khách
a. Thể chế, pháp luật chính sách của nhà nước
Thể chế, pháp luật, chính sách của nhà nước là những công cụ mà nhà nước sử
dụng trong việc thực hiện mục tiêu nhiệm vụ chính trị của hệ thống chính trị của một
giai cấp thống trị, thể hiện quyền lực của mình trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
14
Nhà nước thực hiện quản lý thống nhất, có chiến lược, kế hoạch cho toàn bộ
nền kinh tế quốc dân trong cả nước, việc quản lý và điều hành toàn bộ quá trình sản
xuất và tái sản xuất xã hội của các thành phần và ngành kinh tế trong đó có lĩnh vực
VTHK. Tùy theo từng ngành nghề, lĩnh vực, thành phần kinh tế nhà nước cân đối
để chỉ đạo việc thực hiện mục tiêu chiến lược đã đề ra, thực hiện hướng dẫn chỉ đạo,
kiểm tra, kiểm soát sự hoạt động của mọi lĩnh vực, mọi thành phần và mọi ngành
nghề trong xã hội.
QLNN về VTHK là nhằm tạo điều kiện cho các loại hình tham gia kinh doanh
vận tải được phát triển nhanh, bền vững, đúng định hướng, tất cả các thành phần
kinh tế kinh doanh VTHK được ổn định sản xuất kinh doanh, đạt hiệu quả cao,
không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân, chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật nhà nước, dần dần tạo nên văn hóa văn minh giao thông.
Để đạt được những mục tiêu đã đề ra nhà nước cần phải xây dựng và ban hành
các văn bản luật, các văn bản quy phạm pháp luật một cách đầy đủ, đồng bộ, chặt
chẽ, có tính khả thi cao.
b.Vai trò của tỉnh
HĐND và UBND là cơ quan Trung ương tại địa phương quản lý trên mọi lĩnh
vực trên địa bàn tỉnh, thực hiện theo Nghị quyết, theo kế hoạch 5 năm, hàng năm.

Các ngành các cấp có nhiệm vụ tham mưu cho UBND tỉnh theo từng lĩnh vực của
ngành phụ trách để UBND ban hành các văn bản quy phạm, các quyết định, trên cơ
sở pháp lý các ngành các cấp thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình.
Vì vậy, vai trò của tỉnh rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương trong đó có sự phát triển lĩnh vực giao thông đường bộ đặc biệt là lĩnh vực
VTHK.
c. Môi trường kinh doanh – Hội nhập toàn cầu
Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu tố tác động trực tiếp hay gián tiếp
đến các quyết định hoặc hoạt động của các chủ thể kinh tế trên thị trường. Nhóm
các yếu tố bên ngoài có tác động gián tiếp đến các đơn vị kinh doanh được gọi là
nhóm các yếu tố môi trường vĩ mô. Thuộc nhóm này bao gồm : môi trường văn hóa
15
– xã hội, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường vật chất và môi trường
công nghệ. Nhóm các yếu tố bên ngoài có tác động trực tiếp đến các đơn vị kinh
doanh là các yếu tố môi trường vi mô. Các yếu tố này gồm : khách hàng, nhà cung
cấp, các đối thủ cạnh tranh, các nhóm quyền lợi trong các cơ sở kinh tế.
Trong các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, nhà nước có vai trò đặc biệt với
các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô. Vai trò đó được thể hiện qua các nội dung : duy
trì ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm ổn định xã hội.
+ Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô :
Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô là làm giảm những biến động ngắn hạn trong nền
kinh tế khuyến khích tăng trưởng bền vững lâu dài. Ổn định kinh tế vĩ mô có ý
nghĩa rất lớn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó củng cố lòng tin của các
chủ thể kinh tế vào tương lai của nền kinh tế, nó tránh cho nền kinh tế khỏi những
cuộc khủng hoảng kinh tế dẫn đến sự tàn phá nền kinh tế. Nó là điều kiện tiên quyết
cho việc tính toán kinh doanh của các chủ thể kinh tế.
+ Giữ vững ổn định chính trị :
Chức năng ổn định chính trị của nhà nước xuất phát từ sự tác động của chính
trị đối với kinh doanh. Ổn định chính trị tạo ra môi trường thuận lợi đối với các hoạt
động kinh doanh. Một nhà nước mạnh, thực thi hữu hiệu các chính sách phát triển

kinh tế - xã hội đáp ứng được các yêu cầu chính đáng của nhân dân sẽ đem lại lòng
tin và hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong một xã hội ổn định chính
trị, các nhà kinh doanh được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu và các loại
tài sản khác, do đó các nhà kinh doanh sẵn sàng đầu tư.
+ Bảo đảm ổn định xã hội :
Mỗi tổ chức kinh doanh đều hoạt động trong một môi trường văn hóa – xã hội
nhất định, giữa doanh nghiệp và môi trường có những mối liên hệ chặt chẽ, tác
động qua lại lẫn nhau. Xã hội cung cấp các nguồn lực mà doanh nghiệp cần và tiêu
thụ những hàng hóa dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra. Các giá trị chung của xã
hội, các tập tục truyền thống, lối sống của nhân dân, các hệ tư tưởng tôn giáo và cơ
cấu dân số, thu nhập cá nhân có tác động nhiều mặt đến các hoạt động của các tổ
16
chức kinh doanh. Tạo môi trường văn hóa – xã hội ổn định, thuận lợi cho các hoạt
động của chủ thể kinh tế trên thị trường là nhà nước đã thực hiện vai trò kinh tế của
mình đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
Nhà nước cần tiếp tục cải cách hành chính trong các lĩnh vực như thuế, đăng
ký kinh doanh…, giúp cho doanh nghiệp kinh doanh VTHK hoạt động có hiệu quả;
có chính sách hỗ trợ giá cho hoạt động xe buýt, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh
thông qua chất lượng phương tiện, chất lượng phục vụ, giá vé,…
Việc tạo ra môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp kinh doanh VTHK là
điều cần thiết để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phương tiện,
… để doanh nghiệp thấy được mình sẽ có lợi khi kinh doanh vào lĩnh vực này. Bên
cạnh đó, cho doanh nghiệp thấy được tầm quan trọng của mình trong việc góp phần
làm thay đổi văn hóa giao thông của đất nước.
d.Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước
về vận tải hành khách
Tổ chức bộ máy QLNN về VTHK phải được thành lập và hoạt động thông
suốt, ổn định theo hướng tinh gọn, hiệu quả, tổ chức bộ máy phải đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra trong mọi thời kỳ.
Trình độ, năng lực các cán bộ trong ngành, nhất là các cán bộ công chức trực

tiếp làm công tác quản lý phải không ngừng học hỏi nâng cao nghiệp vụ chuyên
môn để có thể quản lý, điều hành công việc được thông suốt, theo kịp sự phát triển
của thời đại.
Không quan liêu, hách dịch, cửa quyền, để các doanh nghiệp kinh doanh vận
tải có thể tin cậy vào bộ máy tổ chức điều hành của nhà nước.
Con người là yếu tố quan trọng nhất và không có gì thay thế được, do vậy việc
hình thành tổ chức bộ máy điều hành thông suốt cũng như trình độ năng lực của cán
bộ góp phần vào sự thành công của nhà nước. Vì vậy, cần phải đầu tư cho đào tạo
đối với các cán bộ làm công tác này.
e. Trình độ, năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải
Ngày nay không ai còn phủ nhận tầm quan trọng của chiến lược sản xuất kinh
doanh trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh
17
vẫn là vấn đề xa lạ với nhiều doanh nghiệp vận tải nói chung, doanh nghiệp kinh
doanh VTHK nói riêng. Điều đó nói lên rằng trình độ, năng lực kinh doanh của các
doanh nghiệp vận tải vẫn còn yếu kém, các doanh nghiệp chưa chú trọng đến chiến
lược tầm nhìn của doanh nghiệp mình. Điều này vẫn còn phổ biến đối với các
doanh nghiệp vận tải Việt Nam.
+ Các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là :
- Do thiếu hiểu biết đầy đủ về chiến lược sản xuất kinh doanh. Nhiều lãnh đạo
doanh nghiệp quan niệm chiến lược sản xuất kinh doanh chỉ là cái gì na ná như
công tác kế hoạch trước đây. Trong thời kỳ bao cấp người ta thường nhấn mạnh
công tác kế hoạch như một phép mầu nhưng từ khi chuyển sang kinh tế thị trường
công tác kế hoạch ít được nhắc tới vì bị coi như một sự lạc hậu.
- Chủ nghĩa kinh nghiệm. Nhiều người đứng đầu doanh nghiệp thường cho
rằng giữa sách vỡ và thực tế là một khoảng cách rất xa nên việc quản lý chỉ dựa
theo kinh nghiệm và sự khôn khéo của cán bộ lãnh đạo.
- Môi trường sản xuất kinh doanh tại Việt Nam có quá nhiều biến động đòi
hỏi các ứng xử linh hoạt thường xuyên nên các định hướng lâu dài rất khó chính
xác. Chiến lược sản xuất kinh doanh dễ trở thành một bài bản mang tính hình thức,

ít có tác dụng thực tế.
Vì vậy, trong lĩnh vực kinh doanh VTHK, trình độ, năng lực của doanh nghiệp
có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có
chiến lược, kế hoạch đúng hướng thì sẽ tận dụng hết những cơ hội và hạn chế
những nguy cơ, thách thức mới có thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường.
f.Ý thức của người dân
Nhận thức là một quá trình. Đặc biệt là nhận thức về pháp luật – yếu tố nhận
thức bắt buộc, đó lại càng là một quá trình phức tạp, khó khăn, kéo dài. Không chỉ
thế, từ nhận thức đến hành động đúng lại còn là một khoảng cách rất lớn.
Ý thức của người dân trong giao thông cũng là điều cần phải quan tâm. Phải
giáo dục tuyên truyền ý thức chấp hành nghiêm chỉnh Luật GTĐB khi tham gia lưu
thông trên đường, điều này cũng thể hiện được văn minh văn hóa của đất nước. Vì
18
vậy mà không thể lơ là trong việc tuyên truyền, giáo dục cho người dân về văn hóa
giao thông, về Luật GTĐB.
Để có một thế hệ tương lai có ý thức trách nhiệm với xã hội, quý bản thân mình,
nhà nước cần phải có chiến lược, kế hoạch từ Trung ương đến địa phương, các ngành
các cấp, nhất là ngành Giáo dục đào tạo, đưa việc giáo dục vào trường học, ngoài ra
cần phải luôn tuyên truyền, giáo dục Luật GTĐB với các thành phần khác trong xã
hội. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa việc nâng cao ý thức của người dân trong việc
chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách pháp luật cũng như các văn bản quy phạm
pháp luật để dần dần tạo thành ý thức tư duy trong mỗi một con người.
Để làm được như vậy phải có sự nỗ lực hết mình của các ngành các cấp, sự
nhiệt tình ủng hộ của người dân thật sự muốn có sự thay đổi mới trong bộ mặt giao
thông của nước nhà – văn hóa giao thông như các nước tiên tiến trên thế giới.
1.3. Nội dung của quản lý nhà nước về vận tải hành khách
QLNN là sự tác động và điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước đối với quá
trình và hành vi xã hội, quản lý toàn bộ xã hội, trong đó có sự thực hiện QLNN đối
với từng lĩnh vực, từng ngành cụ thể khác nhau. Nhà nước tổ chức xây dựng và
quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Để việc QLNN về VTHK mang lại hiệu quả cao, đáp ứng được nhu cầu của xã
hội trong tình hình kinh tế hội nhập toàn cầu, nhà nước cần phải quan tâm đến
những vấn đề sau :
1.3.1. Xây dựng thể chế, pháp luật về vận tải hành khách
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, vận động dưới sự chi phối của
các quy luật kinh tế thị trường trong môi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận.
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý của mình đối với xã hội
nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp
luật. Điều 12, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 khẳng định : “Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”.
Ở nước ta, toàn bộ hệ thống các cơ quan nhà nước đều có chức năng QLNN,
quản lý trên hầu hết các lĩnh vực thông qua các văn bản quy phạm pháp luật để điều
19
chỉnh hoạt động QLNN. Văn bản quy phạm pháp luật được chia ra văn bản luật và
văn bản dưới luật.
Do vậy, công việc đầu tiên và quan trọng nhất trong QLNN về VTHK là tạo
môi trường pháp lý, xây dựng thể chế, pháp luật đó là xây dựng và ban hành các
văn bản luật, các văn bản dưới luật một các đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ, có tính khả
thi cao.Và trong quá trình thực hiện phát sinh ra nhiều vấn đề cần giải quyết, đánh
giá tổng kết để tìm ra những điều chưa hợp lý, những điều vướng mắc, từ đó bổ
sung, sửa đổi, điều chỉnh hệ thống văn bản ngày càng hoàn thiện hơn.
Nhà nước sử dụng linh hoạt các công cụ QLNN như chiến lược, kế hoạch,
chính sách,… để nhà nước chỉ cho các đối tượng quản lý trong lĩnh vực VTHK cái
đích mà nhà nước muốn đối tượng tuân theo; pháp luật là phương tiện để thể hiện ý
chí của nhà nước về chuẩn mực hành vi trong sản xuất kinh doanh và chất lượng
phục vụ, nhờ đó mà các mục tiêu kế hoạch được thực hiện, nó cũng là phương tiện
để cưỡng chế hay chế tài, tức hình phạt để đối tượng dè chừng; đối với thuế thì vừa
là công cụ vừa là mục tiêu, mục tiêu vì nó thể hiện ý chí của nhà nước về việc cần
có quỹ tiền tệ của quốc gia để chi cho các nhu cầu chung của cộng đồng như xây
dựng cơ sở hạ tầng, các dịch vụ công cộng … (như không đánh thuế nhập khẩu xe

buýt phục vụ cho VTHK công cộng), là công cụ vì thông qua việc tăng, giảm, miễn
thuế nhà nước kích thích hay kìm hãm động lực của đối tượng quản lý; thông qua
việc tăng, giảm lãi suất ngân hàng (như không áp dụng lãi suất khi vay mua xe
buýt) có thể điều chỉnh chiều hướng hoặc mức độ hoạt động của các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực VTHK; thông qua tỷ giá hối đoái của hoạt động thu đổi
ngoại tệ, nhà nước điều chỉnh việc sử dụng ngoại tệ của các đối tượng hoạt động
sản xuất kinh doanh VTHK, đầu tư hay không đầu tư phương tiện vận chuyển mới,

Nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển bền vững, trong đó có lĩnh vực
VTHK phải định hướng việc phát triển số lượng, chủng loại phương tiện phù hợp,
dần dần thay thế, loại bỏ xe cải tiến, xe cũ nát, xe ôm. Tạo điều kiện cho doanh
nghiệp trong nước sản xuất ô tô để sử dụng trong nước, kể cả xuất khẩu, đồng thời
20
xem xét, điều chỉnh các loại thuế có liên quan đến phương tiện VTHK, có chính
sách hợp lý cho nhập khẩu và sản xuất xe buýt phục vụ trong nước trong lĩnh vực
VTHK. Tạo điều kiện về các chính sách ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư sản xuất ô tô, phụ tùng nhằm tiếp cận kỹ thuật công nghệ cao trong
lĩnh vực này.
Có chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển mạng lưới giao thông đường bộ,
xây dựng hệ thống đường dành riêng cho VTHK bằng xe buýt phát huy cao độ,
phục vụ đáp ứng đủ nhu cầu đi lại của người dân.
Có chính sách cho việc đào tạo cán bộ quản lý các loại hình doanh nghiệp có
liên quan đến lĩnh vực VTHK, cụ thể hiện nay nên chú trọng đào tạo cán bộ cho các
HTX kinh doanh VTHK.
1.3.2. Lập kế hoạch và quy hoạch mạng lưới về vận tải hành khách
Cùng với sự phát triển kinh tế -xã hội của đất nước, GTĐB là việc cần phải
triển khai phát triển nhanh chóng, phát triển nhanh hơn so với phát triển kinh tế -xã
hội. Hiện nay, VTHK là một trong những vần đề mang tính xã hội cao, nó góp phần
vào việc lưu thông giao thông với một bộ mặt mới của giao thông của nước ta đó là
phát triển lên thành “văn hóa giao thông”.

Vì vậy, việc lập kế hoạch và quy hoạch phát triển mạng lưới VTHK là rất cần
thiết trong lĩnh vực giao thông nhất là giao thông đô thị ở các thành phố.
Phải quy hoạch định hướng đúng, phát triển mạng lưới VTHK bền vững, quy
hoạch phải hài hòa với quy hoạch tổng thể của cả nước cũng như của địa phương.
Quy hoạch không trái với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, không để lãng phí
trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch mạng lưới VTHK phải đồng bộ với
việc quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống GTĐB, có thể nói là hai mảng này
phải đồng hành cùng nhau, phải được xây dựng phù hợp với quy hoạch tổng thể của
địa phương trong việc phát triển GTĐB.
1.3.3. Tổ chức thực hiện kế hoạch về vận tải hành khách
Việc tổ chức thực hiện và hoàn thiện cơ cấu bộ máy QLNN về VTHK là vấn
đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay – hội nhập toàn cầu, phát triển kinh tế - xã hội
21
bền vững. Với tư cách là đại diện cho toàn thể nhân dân quản lý lĩnh vực VTHK,
nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý thông qua hệ thống các cơ quan nhà nước và
nhà nước quy định cụ thể nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan nhà nước có liên
quan trong lĩnh vực giao thông trong phạm vi cả nước cũng như tại các địa phương.
Các cơ quan nhà nước trong hệ thống QLNN về VTHK có nhiệm vụ trong
từng lĩnh vực của cơ quan mình nhưng điều có sự phối hợp giữa các đơn vị với mục
đích là quản lý thật tốt lĩnh vực, ngành nghề của mình, sao cho công việc được thực
hiện đúng chính sách, kế hoạch đã đề ra từ Trung ương đến địa phương, không có
trường hợp thực hiện sai chính sách của nhà nước, ngoài ra, bộ máy nhà nước góp
phần vào việc hệ thống hóa công tác QLNN của các ngành các cấp.
Đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN về VTHK phải là những người
công dân tốt, là một cán bộ giỏi, đầy nhiệt huyết để có thể là người đại diện cho nhà
nước làm công tác quản lý.
1.3.4. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật giao thông đường bộ
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật GTĐB giúp cho mọi người nắm bắt
được những quy định về trật tự ATGT, dần dần giúp người dân tuân thủ pháp luật
một cách tự giác nhằm bảo đảm hoạt động giao thông được trật tự và an toàn.

Tuyên truyền, phổ biến Luật GTĐB theo chủ đề nhằm nâng cao hiệu quả công tác
tuyên truyền, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác bảo đảm trật tự ATGT, từng
bước xóa bỏ những thói quen tùy tiện vi phạm quy tắc GTĐB, và mục tiêu cuối
cùng là xây dựng “văn hóa giao thông”.
Văn hóa giao thông là một bộ phận trong văn hóa ứng xử của con người khi
tham gia giao thông. Đó là sự tôn trọng, là sự hiểu biết đầy đủ và nghiêm chỉnh
chấp hành các luật về giao thông trong đó có Luật GTĐB.
Nhằm giảm đến mức thấp nhất vi phạm pháp luật, TNGT, đồng thời nâng cao
nhận thức pháp luật, tính tự giác chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông
cũng như là đội ngũ lái xe trong lĩnh vực VTHK. Việc tiếp tục tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về trật tự ATGT, đặc biệt là ý thức, văn hóa ứng xử của người tham
22

×