An toàn và hợp lý trong sử dụng thuốc đông dược
Vấn đề này có liên quan đến nhiều khâu: từ đất gieo trồng dược liệu, đến thu hái,
chế biến, bảo quản, đến nhiều người, nhiều ngành, nhưng chẩn đoán, lựa chọn vị
thuốc để dùng, cách dùng thế nào lại phụ thuộc vào thầy thuốc. YHCT có hệ thống
lý luận rất phong phú và chặt chẽ và cũng thật khó
Đông dược có nguồn gốc từ động vật, khoáng vật và thực vật đã được cổ nhân phát
hiện và sử dụng hàng ngàn năm để phục vụ cho sức khoẻ con người.
Qua thực tiễn, người ta đã biết vận dụng lý luận của học thuyết Âm dương - Ngũ
hành, tính biến đổi của kinh dịch, xây dựng nên y lý YHCT. Theo học thuyết Âm
dương thì bệnh hàn phải dùng thuốc ôn nhiệt. Bệnh nhiệt tuỳ mức độ mà dùng
thuốc hàn, lương. Khi dùng sai các kinh văn đã chỉ ra:
“Hàn ngộ hàn tắc tử
Nhiệt ngộ nhiệt tắc cuồng”
Lại có Tứ khí ngũ vị và quy kinh để chỉ rõ tác dụng vị thuốc với tạng phủ: vị mặn
vào thận, vị đắng vào tâm, vị cay vào phế, vị ngọt vào tỳ. Muốn cho thuốc vào
đúng chỗ, thì cần sao tẩm, dùng tá dược như dấm, muối, đường mật hay rượu để
chế thuốc. Cách bào chế sẽ thay đổi tính vị của thuốc.
Thuốc còn tác dụng theo kiểu thăng, giáng, phù, trầm, khi chữa lại cần chẩn đoán
bệnh ở biểu hay lý, thượng tiêu, trung tiêu hay hạ tiêu, để chọn loại thuốc tác dụng
ở biểu hay lý, ở tâm hay tỳ, trên hay dưới cho phù hợp.
Những điều trình bày trên chính là y lý của YHCT. Muốn sử dụng an toàn và hiệu
quả, còn cần lưu tâm đến tính tương tác của các vị thuốc với nhau, các vị thuốc
với thức ăn. Khi phối hợp, các vị thuốc có thể làm tăng tác dụng chính, làm giảm
tác dụng phụ nhưng cũng có thể làm mất hay giảm tác dụng chính. Đó là nội dung
người viết muốn giới thiệu ở đây.
Agiao- Gelatin, Gelatinum Asini
Tính vị: vị ngọt, bình tính vào 3 kinh phế, can, thận. Tác dụng: tư âm dưỡng
huyết, cầm máu an thai. Không dùng cho người tỳ vị hư, chán ăn chậm tiêu dễ và
lỏng.
Ba đậu, Croton Tiglium L Họ Thầu đầu (Euphorbiaceae). Dầu Ba đậu độc với da
và mắt. Là thuốc xổ mạnh . Độc bảng A. Thận trọng cho tất cả mọi người.
Ba kích, Morinda Officinalis- Họ Cà phê (Rubiaceae)
Tính vị: Cay, ngọt, ấm, vào kinh thận. Tác dụng: Bổ thận, ích tinh, điều huyết
mạch bổ trùng tiêu. Không dùng cho người âm hư, hoả vượng. Ba kích dễ mốc
mọt, có thể sấy hơi lưu huỳnh để bảo quản.
Bá tử nhân, Thujae Orientalis Semen- Họ Trắc bá (Cupressacenere).
Tính vị: ngọt bình tính vào 2 kinh tâm tỳ. Tác dụng: bổ tâm tỳ, nhạn huyết.
Không dùng cho người có đờm, dễ ỉa lỏng.
Bạc hà, Mentha Arvensis L- Họ Hoa môi (Labiatea).
Tính vị quý kinh: cay, mát, vào phế, can. Tác dụng: tán phong nhiệt, phát hàn giải
biểu. Không dùng Bạc hà dại
Bạch chỉ, Angelica Dahurica Benth et Hook- Họ Hoa tán
Tính vị qui kinh: cay,ấm, vào kinh phế, đại tràng. Tác dụng: Phát biểu giải cơ, tán
phong táo thấp, hoạt huyết. Sao qua để chữa lâm lậu. Sao cháy chữa rỉ máu.
Chú ý phân biệt với Độc hoạt và Bạch chỉ nam. Độc hoạt là thuốc chữa phong
thấp. Bạch chỉ nam chữa lở ngứa (theo kinh nghiệm dân gian)
Bách hợp: Lilium Browni FE Brown var colehosleri Wilson- Họ Hành tỏi
Liliaceae
Tính vị qui kinh: đắng hơi lạnh vào kinh tâm phế. Tác dụng: nhuận phế định tâm
an thần
Không dùng cho người trúng hàn
Cần phân biệt với thứ vẩy của Tỏi voi là loại hoa loa kèn đỏ, có tên amryllis
beiladoca swell thuộc họ Thuỷ tiên. Loại này vẩy to không nhớt. Tỏi voi có thể gây
nôn, ngứa
Cũng cần phân biệt với Hải thông, Họ Hành tỏi: loại vẩy này nhỏ hơn vẩy Bách
hợp, có vị cay, khi dùng dễ bị say thuốc.
Còn Bách hợp đúng có màu trắng ngà, trong sáng, tép khô dày, không đen, không
mốc, nhiều chất nhớt
Bạch mao căn, Rễ cỏ tranh- Imperatae Rhizoma, họ Lúa Poaceae (Graeineae)
Tính vị qui kinh: vị ngọt lạnh vào 3 kinh: tâm, tỳ, vị. Tác dụng: chữa lậu nhiệt, lậu
mủ, đái ra máu, nôn ra máu, chảy máu mũi. Không dùng cho người không có thực
nhiệt, người hư lao
Chỉ xin nêu một số vị trong vần A-B-C đã thấy được một phần trong tính đặc thù
của sử dụng thuốc y học cổ truyền.
Chuyện an toàn có liên quan đến nhiều khâu: từ đất gieo trồng dược liệu, đến thu
hái, chế biến, bảo quản. Đó là vấn đề liên quan đến nhiều người, nhiều ngành.
Nhưng sử dụng từng vị thuốc cụ thể lại phụ thuộc vào thầy thuốc. Thầy thuốc chẩn
đoán theo bát cương, theo tạng phủ để chọn vị thuốc. Vị thuốc nào đúng chỉ định,
vị nào không dùng được, vị nào dùng thận trọng đối với loại bệnh nào. Đó là chưa
đề cập tới khi sắc thuốc uống phải sắc thế nào, người bệnh không được ăn chất gì,
chú ý những gì.