Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận quản lý kinh tế hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.56 KB, 17 trang )

1

MỤC LỤC

Trang
Mở đầu

2

Nội dung

4

1. Tính tất yếu phải phát triển đồng bộ các loại thị trường

4

2. Nội dung phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế

5

2.1. Cơ sở để phân loại thị trường

5

2.2. Nội dung phát triển của các loại thị trường

6

3. Một số giải pháp cơ bản


13

Kết luận

15

Tài liệu tham khảo

16


2

MỞ ĐẦU
Qua mấy chục năm trăn trở, tìm tịi, vừa thí nghiệm trong nước vừa quan sát
thế giới, từng bước chuẩn xác hoá quan niệm trong tư duy, hoạt động trong thực
tiễn, đến Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khởi nguồn chính sách về hình thành và
phát triển đồng bộ các loại thị trường với tư tưởng giải phóng sức sản xuất hàng hố
và lưu thơng hàng hố. Tư duy này được tiếp tục khẳng định và làm rõ tại Đại hội
lần thứ VII, VIII của Đảng, đó là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN). Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng đã vạch rõ và dứt khoát hơn chủ
trương xây dựng nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN. Lần đầu tiên,
khái niệm KTTT định hướng XHCN mới được chính thức sử dụng trong các văn
kiện của Đảng. Và cũng từ đại hội này, Đảng xác định nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo đó, các Đại hội X, XI, XII tiếp tục bổ sung, hoàn
thiện thể chế mơ hình phát triển KTTT định hướng XHCN.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng
bộ và hiện đại vừa là một trong ba đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

2011 - 2020, vừa là "tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mơ"[1]. Thế nhưng, trong thời
gian qua, "hồn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách chưa hồn chỉnh và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp
ứng được yêu cầu đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba
đột phá chiến lược"[2]. Do vậy, một trong những nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm
tới (2016 - 2020) được xác định là "Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"[3].
Đại hội XII của Đảng tiếp tục thống nhất nhận thức về nền KTTT định hướng
XHCN. Theo đó, nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là


3

nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh"[4]. Từ đó cho thấy, việc
hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất cần thiết, có
vai trị rất quan trọng đối với sự nghiệp  xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


4

NỘI DUNG
1. Tính tất yếu phải phát triển đồng bộ các loại thị trường
Hình thành đồng bộ các loại thị trường là một yêu cầu khách quan của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, có thể ví như một cơ thể sống phải có đầy đủ
các bộ phận cấu thành của cơ chế. Tuy nhiên, trong cơ thể sống, mọi bộ phận khơng

thể cùng lúc được hình thành và phát triển như cơ thể lúc đã trưởng thành. Nền kinh
tế thị trường cũng vậy, để có thể vận hành được thì phải nhen nhóm, ấp ủ, hình
thành và phát triển dần từng bước.
Thực tiễn ở các nước chuyển đổi và ở nước ta thời gian qua cho thấy dù muốn
hay không một khi đã chấp nhận nền kinh tế thị trường hay nền kinh tế thị trường
hay nền kinh tế vận hành theo kinh tế thị trường, hay nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN thì điều cốt lõi nhất vẫn là phải có thị trường. Một khi đã chấp nhận
sự hiện hữu của thị trường thì phải có đầy đủ các loại thị trường. Cuộc chuyển đổi
sang kinh tế thị trường của các nền kinh tế XHCN ở Đông Âu và Liên Xô trước đây,
dù là áp dụng hình thức nào thì cũng là việc xây dựng một nền kinh tế thị trường có
đầy đủ các loại thị trường với đầy đủ các bộ phận cấu thành của nó. Cơng cuộc
chuyển sang kinh tế thị trường của Trung Quốc là tiệm tiến hơn nhưng vẫn không né
tránh việc xây dựng các loại thị trường. Ở nước ta cũng vậy, chúng ta cần xây dựng
đầy đủ các loại thị trường để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vận hành có
hiệu quả. Cái khác nhau giữa các nước là sự lựa chọn thời gian, bước đi, cách làm
và bản chất của thị trường.
Việc xây dựng đồng bộ các loại thị trường ở nước ta khơng có nghĩa là phải
cùng một lúc xây dựng đầy đủ các loại thị trường, mà được tiến hành từng bước, có
thử nghiệm, rút kinh nghiệm và làm tiếp: ưu tiên xây dựng một số loại thị trường
trước, số khác sẽ được xây dựng sau khi đã có đủ điều kiện. Tuy nhiên, đối với từng
loại thị trường cụ thể thì các bộ phận cấu thành của nó dứt khốt được xây dựng
đồng thời và đầy đủ nếu như muốn thị trường đó vận hành thơng thống và mang lại
hiệu quả thực.


5

Phát triển đồng bộ các loại thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta,
một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền
kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân cơng lao động quốc tế. Đó là con đường đúng

đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước
vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
2. Nội dung phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế
2.1. Cơ sở để phân loại thị trường
Cũng như ở nhiều nền kinh tế thị trường khác, cho đến nay, các loại thị
trường chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
được xác định gồm có: thị trường hàng hố và dịch vụ; thị trường tài chính; thị
trường lao động; thị trường bất động sản và thị trường khoa học - cơng nghệ. Ngồi
ra, theo thời gian sẽ còn tiếp tục phát triển thêm các loại thị trường khác nữa, mà
hiện tại chúng ta khó có thể hình dung chính xác được.
Khi nói đến thị trường thì khơng thể khơng nói đến các yếu tố như: cung- cầu
hàng hoá và dịch vụ; giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường (Nhà nước quyết
định những loại giá nào, còn những loại giá nào do thị trường điều tiết); khung pháp
lý cho thị trường hoạt động; các doanh nghiệp; người tiêu dùng; thông tin thị
trường… Đây là những yếu tố chung nhất cho mọi loại thị trường.
Việc phát triển đồng bộ các loại thị trường là cơ sở để đạt được mục tiêu cơ
bản xây dựng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có chính sách ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện. Vì vậy, mỗi bước phát triển các loại
thị trường luôn gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân với tiến bộ và công bằng xã
hội.
Mặt khác, phát triển các loại thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các
kế hoạch phát triển kinh tế. Những mục tiêu và biện pháp mà kế hoạch nêu ra muốn
được thực hiện có hiệu quả thì phải xuất phát từ yêu cầu của các loại thị trường. Bên
cạnh đó, muốn cho các loại thị trường đó hoạt động phù hợp với định hướng XHCN
thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch.


6


Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị
trường mà được phân công vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối
ưu. Trong đó, phát triển thị trường hàng hố và dịch vụ thơng qua việc đẩy mạnh
sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển hệ thống giao thông và
phương tiện vận tải để mở rộng thị trường. Hình thành thị trường sức lao động có tổ
chức để tạo điều kiện cho sự di chuyển sức lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế
và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình
thành và phát triển thị trường chứng khoán để huy động các nguồn vốn vào phát
triển sản xuất.
Nói tóm lại, phương châm chỉ đạo trong việc phát triển đồng bộ các loại thị
trường là làm thử, rút kinh nghiệm, làm tiếp, làm từng bộ phận tiến tới làm tổng thể.
Tuy nhiên, cần hiểu quá trình phát triển đồng bộ các loại hình thị trường là một q
trình liên tục, kiên định và cần có thời gian, khơng thể nóng vội, cũng khơng ngập
ngừng, do dự, gây ra chậm trễ và tổn thất nhiều mặt.
2.2. Nội dung phát triển của các loại thị trường
2.2.1. Thị trường hàng hoá và dịch vụ
Thị trường hàng hoá và dịch vụ đã được hình thành sơ khai ngay trong thời kỳ
kế hoạch hoá tập trung, nhất là thị trường nông sản. Mặc dù trong thời kỳ này chúng
ta không có khái niệm về thị trường theo đúng nghĩa của nó và khơng khuyến khích
phát triển thị trường. Nó hình thành là do nhu cầu cuộc sống xã hội, nhu cầu của nền
kinh tế. Sự phát triển của thị trường hàng hố và dịch vụ có bước đột phá tương đối
mạnh kể từ khi Việt Nam áp dụng chế độ khốn nơng nghiệp và kế hoạch 3 phần
trong xí nghiệp quốc doanh. Thị trường này có sự thay đổi cơ bản kể từ khi chúng ta
xoá chế độ tem phiếu, thực hiện cơ chế giá thị trường đối với hầu hết hàng hoá và
dịch vụ, từng bước tiền tệ hoá tiền lương, từng bước xoá bỏ bao cấp, xoá bỏ việc
"ngăn sông, cấm chợ". Thị trường này đặc biệt phát triển mạnh từ khi Việt Nam
tuyên bố áp dụng cơ chế thị trường, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay, thị trường này phát triển tương đối đa
dạng, đó là:



7

- Thị trường được thống nhất trong toàn quốc và bước đầu hình thành hệ
thống thị trường hàng hố với các cấp độ khác nhau. 
- Trên thị trường đã có đủ các thành phần kinh tế, đông đảo thương nhân với
các hình thức sở hữu khác nhau. 
- Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường đã thay đổi một cách cơ bản từ
chỗ thiếu hụt hàng hoá sang trạng thái đủ và dư thừa.
- Thị trường trong nước bước đầu đã có sự thơng thương với thị trường quốc
tế. Dù ở mức độ còn hạn chế nhưng sự tác động của tăng trưởng hay suy thoái trên
thị trường quốc tế đã bắt đầu ảnh hưởng đến thị trường trong nước.
- Sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường và thương mại
đã có nhiều đổi mới.
2.2.2. Thị trường tài chính
Thị trường này giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc huy động tiết kiệm,
phân bố các nguồn vốn một cách có hiệu quả, bảo đảm khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế. Quan điểm về phát triển thị trường tài chính đã được khẳng định tại nhiều
văn kiện của Đảng. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Phát triển
nhanh và bền vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và trung hạn. Tổ
chức và vận hành thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm an tồn, hiệu quả.
Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ; tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt
Nam".
Tuy mới ở giai đoạn đầu phát triển, thị trường tài chính Việt Nam đến nay đã
có tương đối đầy đủ các bộ phận cấu thành. Thị trường tiền tệ đã bước đầu tạo cơ sở
cho Ngân hàng Nhà nước thực thi linh hoạt hơn chính sách tiền tệ. Thị trường chứng
khốn tuy mới hoạt động song phát triển tương đối nhanh và bắt đầu là kênh huy
động vốn bổ sung cho các doanh nghiệp bên cạnh nguồn tín dụng “truyền thống” từ
hệ thống ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, về cơ bản, thị trường tài chính Việt
Nam vẫn cịn phát triển ở trình độ thấp. Thị trường tiền tệ cịn hạn chế nhiều khả

năng sử dụng có hiệu lực các cơng cụ tiền tệ và chưa tạo được những tiền đề cần
thiết (như tính thanh khoản của tài sản tài chính, lãi suất tham chiếu) cho sự phát


8

triển năng động, hiệu quả của toàn bộ thị trường tài chính. Thị trường tín dụng tuy
ngày càng phát triển theo các nguyên tắc thị trường và hội nhập kinh kinh tế song
còn chứa đựng nhiều rủi ro, nhất là rủi ro hệ thống. Vốn đầu tư cho hoạt động sản
xuất kinh doanh vẫn phải dựa quá mức vào nguồn tín dụng ngân hàng, đặc biệt là hệ
thống ngân hàng thương mại quốc doanh, trong khi chất lượng tín dụng còn thấp và
nợ quá hạn (cả nguy cơ phát sinh nợ q hạn) cịn lớn. Thị trường cổ phiếu có bước
phát triển nhanh từ năm 2006 (về tốc độ tăng và so với GDP) song còn chứa đựng
nhiều rủi ro và yếu kém. Thị trường trái phiếu (nhất là thị trường trái phiếu cơng ty)
cịn q nhỏ bé và nhỏ hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. Sau khi gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng
tài chính tồn cầu nổ ra năm 2008, hệ thống tài chính Việt Nam đã phải đối mặt với
khơng ít khó khăn địi hỏi được xử lý hữu hiệu. Bên cạnh đó, việc tự hố cán cân
vốn cũng đặt ra khơng ít thách thức đối với Việt Nam. Ngoài ra, việc thiết lập các cơ
chế quản lý và giám sát hệ thống tài chính vốn dĩ yếu kém của Việt Nam một cách
hiệu quả trong bối cảnh các định chế tài chính ngày càng đa dạng hố các dịch vụ tài
chính và đa năng hố hoạt động tài chính của mình, cùng với xu thế luồng vốn quốc
tế ngày càng gia tăng và tác động nặng nề của khủng hoảng toàn cầu cũng là những
thách thức lớn đối với Việt Nam trong bối cảnh mới. Do vậy, việc phát triển và hoàn
thiện thị trường tài chính trong bối cảnh tự do hố thương mại và và tự do hố tài
chính đang là một nhiệm vụ cấp bách, đòi hỏi sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt của
Đảng, Nhà nước và các bộ, ngành.
Triển khai chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển thị trường tài
chính, Đại hội XII xác định: Đẩy mạnh cơ cấu lại thị trường tài chính,nhất là tái cơ
cấu thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, hệ thống ngân hàng thương mại và

xử lý nợ xấu của nền kinh tế (bao gồm nợ xấu của các ngân hàng thương mại, các tổ
chức tài chính, các doanh nghiệp...). Thực hiện các chính sách tín dụng, lãi suất, tỉ
giá, các công cụ của Ngân hàng Nhà nước theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. 


9

2.2.3. Thị trường bất động sản
Đây là một trong những thị trường rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
Việc phát triển nó có tác động đến tăng trưởng kinh tế thơng qua các kênh như: tạo
ra những kích thích cho đầu tư vào đất đai, nhà xưởng… ở các nước có chế độ đa sở
hữu về đất thì đất là một loại bất động sản hàng hoá. Ở nước ta đất thuộc sở hữu
toàn dân và pháp luật khơng cho phép mua bán đất. Do đó, đất khơng phải là hàng
hoá, chỉ quyền sử dụng đất mới được cơng nhận là hàng hố. Do pháp luật nước ta
chưa quy định danh mục các bất động sản nên chưa xác định rõ các loại thị trường
BĐS. Khi nói đến thị trường bất động sản, mọi người thường hiểu đó là thị trường
quyền sử dụng đất và thị trường nhà.
Tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã xác định "Hình thành và phát triển thị
trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;
từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người
nước ngoài tham gia đầu tư". Hội nghị BCH TW7 khoá IX (tháng 3/2003) cũng xác
định "quyền sử dụng đất là hàng hoá đặc biệt" và "chủ động phát triển vững chắc
thị trường bất động sản …, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế…, không
tách rời thị trường quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất; chống đầu cơ
đất đai".
Đại hội XII khẳng định: Tiếp tục hồn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách để thị trường bất động sản được vận hành thông suốt, phù hợp cung - cầu. Đổi
mới chính sách để khai thác có hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai và tài sản, kết
cấu hạ tầng trên đất. Xây dựng các thể chế hình thành thị trường sơ cấp, thứ cấp về

đất đai, kể cả đất nông nghiệp thay thế cho cách thức giao đất, cho thuê đất, bảo
đảm thị trường về đất đai hoạt động công khai, minh bạch và trật tự. Hồn thiện thể
chế về giá, phí, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
2.2.4. Thị trường lao động
Việc phát triển thị trường này không những tác động mạnh đến tăng trưởng
kinh tế, mà nó cịn ảnh hưởng đối với phát triển xã hội, góp phần đáng kể vào việc
giữ vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội. Trong q trình đổi mới, sự cần


10

thiết phát triển thị trường lao động đã dần được xác định và được thể hiện trong các
chủ trương của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX đã chỉ rõ: "Giải
quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát
triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu
bức xức của nhân dân". Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định rõ:
"Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu
lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm
việc làm"[5]. Thị trường lao động đã được thể chế hoá trong nhiều văn bản pháp lý
như Bộ luật Lao động; các Luật; Pháp lệnh… liên quan đến lao động và việc làm.
Nhờ đó, người lao động ngày càng có thực quyền hơn, người sử dụng lao động cũng
tự chủ hơn.
Hiện nay, thị trường lao động nước ta tiếp tục được phát triển theo hướng
hiện đại hóa và định hướng thị trường; khn khổ luật pháp, thể chế, chính sách thị
trường lao động từng bước được hoàn thiện; các kết quả trên thị trường lao động
được cải thiện như chất lượng cung tăng lên, cơ cấu cầu lao động chuyển dịch tích
cực, thu nhập, tiền lương được cải thiện, năng suất lao động và tính cạnh tranh của
lực lượng lao động tăng lên. 
Tuy nhiên, với bối cảnh chuyển đổi và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế
giới thì sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam vẫn mang đặc

điểm của một thị trường cịn nhiều yếu kém. Đó là, lao động chủ yếu làm việc trong
khu vực nông nghiệp, khu vực phi kết cấu, năng suất thấp, nhiều rủi ro, tình trạng
chia sẻ cơng việc, chia sẻ việc làm cịn phổ biến; về cơ bản Việt Nam vẫn là một thị
trường dư thừa lao động trong nông nghiệp, nông thôn với chất lượng cung lao động
thấp, phân bổ chưa hợp lý và khả năng di chuyển còn bị hạn chế; cầu lao động thấp
về số lượng và vẫn còn một tỷ lệ lớn lao động làm việc trong các nghề giản đơn,
khơng địi hỏi chuyên môn kỹ thụât, khu vực làm công ăn lương phát triển chậm;
tuy tỷ lệ thất nghiệp khá thấp, tỷ lệ thiếu việc làm vẫn còn khá nghiêm trọng và 2/3
đến 3/4 số việc làm là không bền vững, nguy cơ có việc làm mà vẫn nghèo cao; hệ
thống luật pháp về thị trường lao động chưa đầy đủ; cơ sở hạ tầng của thị trường lao


11

động chưa phát triển đồng bộ dẫn đến khả năng kết nối cung cầu lao động kém; có
sự mất cân bằng nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động, mặc dù thiếu việc làm
chiếm tỷ lệ lớn, nhưng một số ngành nghề, địa phương.. khơng tuyển được lao động;
thiếu chính sách phù hợp để quản lý di chuyển lao động trong nước và quốc tế; chưa
thiết lập hệ thống quan hệ lao động hiện đại dựa vào cơ chế đối thoại, thương lượng
hiệu quả giữa các đối tác xã hội; hệ thống giáo dục, hướng nghiệp và đào tạo chưa
đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động, đặc biệt là đối với lao động yêu cầu
kỹ năng cao; một bộ phận lớn người lao động chưa được bảo vệ trong thị trường; thị
trường lao động bị phân mảng, có sự phân cách lớn giữa thành thị-nơng thơn, vùng
động lực phát triển kinh tế-vùng kém phát triển, lao động khơng có kỹ năng-có kỹ
năng.
Đại hội XI nêu rõ: Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động. Tiền lương, tiền
công phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước. Chế độ hợp đồng lao động được mở rộng, áp dụng phổ
biến cho các đối tượng. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các trung tâm dịch vụ
việc làm của Nhà nước; khuyến khích tổ chức các hội chợ việc làm; phát triển các tổ

chức dịch vụ tư vấn, sàn giao dịch, giới thiệu việc làm đi đôi với tăng cường quản lý
của Nhà nước; ngăn chặn các hành vi lừa đảo và các hiện tượng tiêu cực khác.
2.2.5. Thị trường khoa học và công nghệ
Nhận rõ tầm quan trọng của khoa học - công nghệ, Đảng và Nhà nước ta ngày
càng quan tâm tới vấn đề này. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW) ngày 31/10/2012 về phát triển khoa học và
công nghệ phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã chỉ rõ: Tiềm lực khoa
học và công nghệ được nâng lên. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ từng
bước được đổi mới. Hệ thống pháp luật về khoa học và công nghệ được chú trọng
hồn thiện. Thị trường khoa học và cơng nghệ đã được hình thành và bước đầu phát
huy tác dụng. Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh và chủ động hơn trong một số lĩnh


12

vực, góp phần nâng cao năng lực, trình độ khoa học và công nghệ trong nước. Tuy
nhiên, hoạt động khoa học và cơng nghệ nhìn chung cịn trầm lắng, chưa thực sự trở
thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội vào
hoạt động khoa học và công nghệ chưa được chú trọng; đầu tư cho khoa học và
cơng nghệ cịn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ
cán bộ khoa học và cơng nghệ cịn nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động khoa
học và công nghệ chậm được đổi mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa
học công nghệ chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; cơ chế tài chính cịn
chưa hợp lý. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa gắn kết chặt
chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và
quản lý. Hợp tác quốc tế về khoa học và cơng nghệ cịn thiếu định hướng chiến
lược, hiệu quả thấp.
Nghị quyết đã xác định: Phát triển và ứng dụng KH&CN là quốc sách hàng
đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và

bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước
trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của
Nhà nước và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ KH&CN đóng vai trị quyết
định thành công của sự nghiệp phát triển KH&CN. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và
đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược,
kế hoạch phát triển KH&CN; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán
bộ, cơ chế tự chủ của các tổ chức KH&CN phù hợp với kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đầu tư cho nhân lực KH&CN là đầu tư cho phát triển bền
vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có
chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ cán bộ KH&CN. Ưu tiên và
tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển KH&CN. Nhà nước có trách nhiệm
đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao
đồng bộ tiềm lực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công
nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị


13

dịch vụ công là trung tâm của đổi mới, trong ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là
nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường KH&CN. Quan tâm đúng mức đến nghiên
cứu cơ bản, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến của thế giới phù hợp với điều
kiện Việt Nam. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức KH&CN
tiên tiến của thế giới, thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án KH&CN của Việt Nam.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh
sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc.
3. Một số giải pháp cơ bản
Để phát triển đồng bộ các loại thị trường, Đại hội XII của Đảng đã xác định
phương hướng phát triển các loại thị trường ở nước ta: “Tiếp tục phát triển đồng bộ
và vận hành thông suốt các loại thị trường. Thực hiện đa dạng thị trường hàng hóa,

dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành khung pháp lý, phát triển hệ
thống phân phối thông suốt và hiệu quả…”[4]. Trên cơ sở thực trạng phát triển các
loại thị trường ở nước ta và quan điểm, phương hướng trong Văn kiện Đại hội XII
của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong thời gian tới, để phát triển đồng bộ, vận hành
thông suốt các loại thị trường ở nước ta, cần thực hiện những giải pháp cơ bản như
sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về phát triển đồng bộ, vận hành
thông suốt các loại thị trường. Tư duy, nhận thức cần được thay đổi từ tư duy, nhận
thức mang tính bao cấp, “xin - cho”, ban phát trong các hoạt động kinh tế, kinh
doanh sang tư duy phục vụ, tư duy kiến tạo phát triển ở các cấp, các ngành, nhất là ở
cấp cơ sở, địa phương. Cần làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn còn vướng mắc
trong phát triển các loại thị trường, đặc biệt là các vấn đề về: vai trò, chức năng của
Nhà nước, kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân; vai trò của thị trường trong phát triển
kinh tế; thị trường quyền sử dụng đất, cơ chế xác định giá trên thị trường bất động
sản; mức độ hỗ trợ của Nhà nước đối với dịch vụ công, như dịch vụ giáo dục, y tế...
Thứ hai, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trong việc phát
triển đồng bộ, vận hành thông suốt các loại thị trường. Giảm sự can thiệp hành


14

chính, trực tiếp của Nhà nước vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ
thể trên thị trường. Cần xác định rõ thị trường là cơ chế chủ yếu để điều tiết nền
kinh tế, Nhà nước đóng vai trị quản lý và kiến tạo phát triển, tạo mơi trường để các
thị trường phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt. Nhà nước định hướng, xây dựng
và lập quy hoạch, kế hoạch để phát triển các loại thị trường trong từng giai đoạn, kết
hợp quy hoạch phát triển giữa các loại thị trường với nhau nhằm bảo đảm sự phát
triển đồng bộ, như định hướng cơ cấu lại thị trường tài chính để bảo đảm cân bằng
hơn giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ, thị trường cổ phiếu và thị trường trái
phiếu.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật, chính sách cho việc
phát triển các loại thị trường. Xây dựng thể chế cho sự phát triển của thị trường sơ
cấp, thứ cấp về quyền sử dụng đất. Chú trọng hình thành khung pháp lý đối với
những thị trường mới hình thành, như thị trường mua bán nợ, thị trường mua bán
sản phẩm trong lĩnh vực văn hóa, thị trường mua bán hàng hóa online, thương mại
điện tử... Hồn thiện hệ thống pháp luật, chính sách cho các loại thị trường đã có,
như hồn thiện pháp luật về chống hàng lậu, hàng giả; hoàn thiện pháp luật về các tổ
chức tài chính, tín dụng phi ngân hàng; đổi mới cơ chế quản lý đối với các tổ chức
khoa học và cơng nghệ; hồn thiện chính sách định giá đất; đổi mới cơ chế quản lý
tiền lương trong các doanh nghiệp...
Thứ tư, đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả,
đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới. Tiếp tục
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện mơi trường kinh doanh. Nâng cao
trình độ, nhận thức, đạo đức, nâng cao trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ,
công chức. Đổi mới quan hệ giữa cơ quan nhà nước, công chức với doanh nghiệp,
người dân theo hướng hỗ trợ, tạo điều kiện giúp đỡ, là đối tác bình đẳng cùng tham
gia giải quyết các vấn đề kinh tế. Tăng tính cơng khai, minh bạch trên các thị
trường, nhất là thị trường bất động sản, thị trường lao động...


15


16

KẾT LUẬN
Tóm lại, phát triển đồng bộ các loại thị trường là một yêu cầu cấp thiết của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Các loại thị trường có vị trí hết sức quan
trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với nước đang phát
triển lại có ý nghĩa to lớn, đặc biệt là nước ta. Đó là cơ sở đầu tiên để đẩy mạnh

CNH- HĐH đất nước nhằm đưa đất nước ngày càng giàu mạnh, xã hội công bằng
văn minh. Muốn nghiên cứu tình hình phát triển của các loại thị trường địi hỏi phải
có sự hiểu biết các vùng khác nhau của đất nước trên mọi lĩnh vực nhất là trong lĩnh
vực kinh tế - xã hội. Phải có lý luận và phương pháp luận khoa học về việc phát
triển đồng bộ các loại thị trường, được đúc kết trong quá trình xây dựng đất nước.
Thực hiện việc phát triển đồng bộ các loại thị trường trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, địi hỏi phải có sự quan tâm của các ngành, các lĩnh vực khác ngồi lĩnh vực
kinh tế nói riêng. Vì kinh tế nước ta là một thể thống nhất bao gồm các bộ phận có
mối liên hệ chặt chẽ qua lại với nhau. Vì vậy, Đảng - Nhà nước và nhân dân phải
cùng làm, cùng khắc phục những yếu kém, bất cập của từng loại thị trường. Biến
những thành tựu đạt được trong những năm vừa qua thành thế mạnh trong giai đoạn
phát triển mới.


17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 107-108
[2], [3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XII của Đảng (Tài liệu
sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương, tháng 4-2015, tr.
27)
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.25-26, tr.109.
[5]
9516.html

/>



×