Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Tiểu luận: Các quyết định Hội đồng bảo an trước và sau chiến tranh Iraq 2003 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.63 KB, 50 trang )

Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 1







Tiểu luận
Các quyết định Hội đồng bảo an
trước và sau chiến tranh Iraq 2003









Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 2







MỤC LỤC
I. LỜI NÓI ĐẦU 4
II. MỘT SỐ NGHỊ QUYẾT TIÊU BIỂU CỦA HĐBA TRƯỚC VÀ SAU
CHIẾN TRANH CHIẾN TRANH IRAQ 2003 4
1. Nghị quyết 1441 4
1.1 Hoàn cảnh ra đời 5
1.2 Tóm tắt nội dung 6
1.3 Đánh giá nghị quyết 14
1.3.1 Từng luận điểm về sự cho phép can thiệp vào Iraq 14
1.3.2 Nghị quyết 678 và 687 của HĐBA 16
1.3.3 Phạm vi nào của việc cho phép sử dụng vũ lực theo nghị quyết 678?
17
1.3.4 Liệu một sự vi phạm thực chất nghị quyết 687 có phục hồi quyền sử
dụng vũ lực ở nghị quyết 678 hay không? 18
1.3.5 Nghị quyết 1441 của HĐBA 19
1.3.6 Nghị quyết 1441 có cho phép sử dụng vũ lực không? 22
1.4 Tóm lại 26
2. Nghị quyết 1483 27
2.1 Hoàn cảnh ra đời 27
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 3

2.2 Nội dung nghị quyết 28
2.3 Phản ứng của các nước 28
2.4 Đánh giá 30
3. Nghị quyết 1511 32
3.1 Hoàn cảnh ra đời Nghị quyết 32
3.2 Nội dung Nghị quyết 33
3.2.1 Mục đích ra đời của Nghị quyết 33

3.2.2 Những điều khoản đáng lưu ý trong Nghị quyết 34
3.3 Ý kiến phản hồi 37
3.4 Đánh giá 41
4. Nghị quyết 1546 45
4.1 Hoàn cảnh ra đời 45
4.2 Nội dung Nghị quyết 45
4.3 Phản ứng của các nước 47
4.4 Đánh giá 48
III. KẾT LUẬN 49







Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 4






I. LỜI NÓI ĐẦU
Sau những vụ khủng bố tấn công nhằm vào New York và Washington
ngày 11/9/2001, “chủ nghĩa khủng bố” đã trở thành một mối đe dọa lớn đối với
hòa bình và an ninh thế giới trong thế kỷ XXI. Các vấn đề liên quan đến vũ khí
hủy diệt cũng thu hút được sự quan tâm được cộng đồng thế giới mạnh mẽ

hơn. Trong lúc tình hình an ninh thế giới có nhiều biến động như thế, Iraq nổi
lên thành một tâm điểm chú ý ở một khu vực trọng yếu, với việc nước này bị
nghi ngờ đang sở hữu vũ khí hủy diệt và Tổng thống Iraq lúc đó – Saddam
Hussein – bị cáo buộc là có liên quan đến các phần tử khủng bố nguy hiểm
hàng đầu thế giới. Ngày 20/3/2003, một lực lượng liên quân với 98% quân lực
đến từ Mỹ và Anh đã tấn công vào Iraq. Cuộc chiến này đã gây ra rất nhiều
tranh cãi trong cộng đồng quốc tế, đặc biệt là tại Liên Hiệp Quốc. Chiến tranh
Iraq đã trở thành điểm nóng trong các phiên họp của Hội đồng Bảo an Liên
Hiệp Quốc, và một loạt các Nghị quyết về vấn đề Iraq đã được thông qua từ
tháng 3/2003 đến nay nhằm tìm kiếm những giải pháp phù hợp để khôi phục
lại tình trạng ổn định ở Iraq, đồng thời ổn định lại hòa bình và an ninh khu vực
nói riêng và thế giới nói chung. Trong giới hạn thời gian cho phép, nhóm
chúng tôi xin trình bày một số nghị quyết tiêu biểu, tập trung về vấn đề cho
phép sử dụng vũ lực gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế.
II. MỘT SỐ NGHỊ QUYẾT TIÊU BIỂU CỦA HĐBA TRƯỚC VÀ SAU
CHIẾN TRANH CHIẾN TRANH IRAQ 2003
1. Nghị quyết 1441
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 5

1.1 Hoàn cảnh ra đời
Ngày 12/9/2002, Tổng thống Mỹ George W. Bush đọc một bài diễn
văn trước ĐHĐ và vạch ra hàng loạt những phàn nàn chống lại chính phủ
Iraq. Bao gồm:
 Sự vi phạm nghị quyết 1373, Iraq ủng hộ các tổ chức
khủng bố mà vi phạm trực tiếp đối với Iran, Israel và chính phủ các
nước phương Tây… và những tên khủng bố Al – Qaida trốn thoát
khỏi Afghanistan được biết là đang ở Iraq.
 Ủy ban nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 2001 đã

tìm thấy những sự vi phạm nhân quyền cực kỳ nghiêm trọng.
 Sự sản xuất và sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt bao
gồm vũ khí hóa học, sih học, tên lữa đạn đạo tầm xa của Iraq, tất cả
những điều này đã vi phạm các nghị quyết của UN.
 Iraq sử dụng số tiền thu được từ chương trình “đổi dầu
lấy lương thực” của UN để mua bán vũ khí hơn là lương thực cô
người dân của mình.
 Iraq đã vi phạm một cách trắng trợn những điều khoản
về chương trình thanh sát vũ khí trước khi đình chỉ nó hoàn toàn.
Tiếp theo bài diễn văn đó, bắt đầu các cuộc đàm phán chuyên sâu
với các quốc gia thành viên khác của HĐBA. Đặc biệt là 3 thành viên
thường trực với được biết là có lo ngại về sự xâm lược của Iraq: Nga và
Trung Quốc và Pháp.
Trong khi chờ đợi, Iraq tuyên bố rằng Iraq sẽ cho phép của các thanh
sát viên vũ khí của UN trở lại Iraq, trong khi từ chối tất cả các trách nhiệm.
Mỹ mô tả điều này như một thủ đoạn của Iraq và tiếp tục kêu gọi một nghị
quyết của HĐBA mà cho phép sử dụng lực lượng quân sự.
Bản nghị quyết được dự thảo chung bởi Mỹ và Anh, kết quả của 8
tuần đàm phán căng thẳng, đặc biệt là với Nga và Pháp. Pháp chất vấn cụm
từ “những hậu quả nghiêm trọng” – serious consequences và liên tục tuyên
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 6

bố rằng bất cứ sự vi phạm thực chất nào được tìm thấy bởi các thanh sát
viên không nên tự động dẫn đến chiến tranh (automaticity); thay vào đó
UN nên thông qua một nghị quyết khác quyết định hướng hành động. Sự
thật rằng những nghị quyết trước đây hợp pháp hóa chiến tranh theo
chương VII đã sử dụng những quy định mạnh mẽ hơn, như “tất cả các biện
pháp cần thiết” trong nghị quyết 678 năm 1990 và nghị quyết 1441 đó đã

tuyên bố rằng HĐBA sẽ tiếp tục theo dõi vấn đề này.
Ngày 8/11/2002, UN thông qua nghị quyết 1441 kêu gọi Iraq giải trừ
quân bị hoặc đối mặt với “những hậu quả nghiêm trọng”. Nghị quyết được
thông qua với 15/15 phiếu thuận, được ủng hộ bởi Nga, Trung Quốc và
Pháp, và các quốc gia Ả rập như Syria. Điều này trao cho nghị quyết này
một sự ủng hộ thậm chí rộng hơn nghị quyết chiến tranh vùng Vịnh năm
1992. Mặc dù quốc hội Iraq bỏ phiếu chống nghị quyết của UN nhưng
Tổng thống Saddam Hussein đồng ý tuân theo ghị quyết này.
1.2 Tóm tắt nội dung
Resolution 1441 (2002)
Adopted by the Security Council at its 4644th meeting, on
8 November 2002
The Security Council,
Recalling all its previous relevant resolutions, in particular its
resolutions 661 (1990) of 6 August 1990, 678 (1990) of 29 November 1990,
686 (1991) of 2 March 1991, 687 (1991) of 3 April 1991, 688 (1991) of 5
April 1991, 707 (1991) of 15 August 1991, 715 (1991) of 11 October 1991,
986 (1995) of 14 April 1995, and 1284 (1999) of 17 December 1999, and
all the relevant statements of its President,
Recalling also its resolution 1382 (2001) of 29 November 2001 and
its intention to implement it fully,
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 7

Recognizing the threat Iraq’s non-compliance with Council
resolutions and proliferation of weapons of mass destruction and long-
range missiles poses to international peace and security,
Recalling that its resolution 678 (1990) authorized Member States to
use all necessary means to uphold and implement its resolution 660 (1990)

of 2 August 1990 and all relevant resolutions subsequent to resolution 660
(1990) and to restore international peace and security in the area,
Further recalling that its resolution 687 (1991) imposed obligations
on Iraq as a necessary step for achievement of its stated objective of
restoring international peace and security in the area,
Deploring the fact that Iraq has not provided an accurate, full, final,
and complete disclosure, as required by resolution 687 (1991), of all
aspects of its programmes to develop weapons of mass destruction and
ballistic missiles with a range greater than one hundred and fifty
kilometres, and of all holdings of such weapons, their components and
production facilities and locations, as well as all other nuclear
programmes, including any which it claims are for purposes not related to
nuclear-weapons-usable material,
Deploring further that Iraq repeatedly obstructed immediate,
unconditional, and unrestricted access to sites designated by the United
Nations Special Commission (UNSCOM) and the International Atomic
Energy Agency (IAEA), failed to cooperate fully and unconditionally with
UNSCOM and IAEA weapons inspectors, as required by resolution 687
(1991), and ultimately ceased all cooperation with UNSCOM and the IAEA
in 1998,
Deploring the absence, since December 1998, in Iraq of
international monitoring, inspection, and verification, as required by
relevant resolutions, of weapons of mass destruction and ballistic missiles,
in spite of the Council’s repeated demands that Iraq provide immediate,
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 8

unconditional, and unrestricted access to the United Nations Monitoring,
Verification and Inspection Commission (UNMOVIC), established in

resolution 1284 (1999) as the successor organization to UNSCOM, and the
IAEA, and regretting the consequent prolonging of the crisis in the region
and the suffering of the Iraqi people,
Deploring also that the Government of Iraq has failed to comply
with its commitments pursuant to resolution 687 (1991) with regard to
terrorism, pursuant to resolution 688 (1991) to end repression of its
civilian population and to provide access by international humanitarian
organizations to all those in need of assistance in Iraq, and pursuant to
resolutions 686 (1991), 687 (1991), and 1284 (1999) to return or cooperate
in accounting for Kuwaiti and third country nationals wrongfully detained
by Iraq, or to return Kuwaiti property wrongfully seized by Iraq,
Recalling that in its resolution 687 (1991) the Council declared that
a ceasefire would be based on acceptance by Iraq of the provisions of that
resolution, including the obligations on Iraq contained therein,
Determined to ensure full and immediate compliance by Iraq without
conditions or restrictions with its obligations under resolution 687 (1991)
and other relevant resolutions and recalling that the resolutions of the
Council constitute the governing standard of Iraqi compliance,
Recalling that the effective operation of UNMOVIC, as the successor
organization to the Special Commission, and the IAEA is essential for the
implementation of resolution 687 (1991) and other relevant resolutions,
Noting that the letter dated 16 September 2002 from the Minister for
Foreign Affairs of Iraq addressed to the Secretary-General is a necessary
first step toward rectifying Iraq’s continued failure to comply with relevant
Council resolutions,
Noting further the letter dated 8 October 2002 from the Executive
Chairman of UNMOVIC and the Director-General of the IAEA to General
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 9


Al-Saadi of the Government of Iraq laying out the practical arrangements,
as a follow-up to their meeting in Vienna, that are prerequisites for the
resumption of inspections in Iraq by UNMOVIC and the IAEA, and
expressing the gravest concern at the continued failure by the Government
of Iraq to provide confirmation of the arrangements as laid out in that
letter,
Reaffirming the commitment of all Member States to the sovereignty
and territorial integrity of Iraq, Kuwait, and the neighbouring States,
Commending the Secretary-General and members of the League of
Arab States and its Secretary-General for their efforts in this regard,
Determined to secure full compliance with its decisions,
Acting under Chapter VII of the Charter of the United Nations,
1. Decides that Iraq has been and remains in material breach of its
obligations under relevant resolutions, including resolution 687 (1991), in
particular through Iraq’s failure to cooperate with United Nations inspectors and
the IAEA, and to complete the actions required under đoạngraphs 8 to 13 of
resolution 687 (1991);
2. Decides, while acknowledging đoạngraph 1 above, to afford Iraq, by this
resolution, a final opportunity to comply with its disarmament obligations under
relevant resolutions of the Council; and accordingly decides to set up an enhanced
inspection regime with the aim of bringing to full and verified completion the
disarmament process established by resolution 687 (1991) and subsequent
resolutions of the Council;
3. Decides that, in order to begin to comply with its disarmament
obligations, in addition to submitting the required biannual declarations, the
Government of Iraq shall provide to UNMOVIC, the IAEA, and the Council, not
later than 30 days from the date of this resolution, a currently accurate, full, and
complete declaration of all aspects of its programmes to develop chemical,
biological, and nuclear weapons, ballistic missiles, and other delivery systems

Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 10

such as unmanned aerial vehicles and dispersal systems designed for use on
aircraft, including any holdings and precise locations of such weapons,
components, subcomponents, stocks of agents, and related material and
equipment, the locations and work of its research, development and production
facilities, as well as all other chemical, biological, and nuclear programmes,
including any which it claims are for purposes not related to weapon production
or material;
4. Decides that false statements or omissions in the declarations submitted
by Iraq pursuant to this resolution and failure by Iraq at any time to comply with,
and cooperate fully in the implementation of, this resolution shall constitute a
further material breach of Iraq’s obligations and will be reported to the Council
for assessment in accordance with đoạngraphs 11 and 12 below;
5. Decides that Iraq shall provide UNMOVIC and the IAEA immediate,
unimpeded, unconditional, and unrestricted access to any and all, including
underground, areas, facilities, buildings, equipment, records, and means of
transport which they wish to inspect, as well as immediate, unimpeded,
unrestricted, and private access to all officials and other persons whom
UNMOVIC or the IAEA wish to interview in the mode or location of UNMOVIC’s
or the IAEA’s choice pursuant to any aspect of their mandates; further decides
that UNMOVIC and the IAEA may at their discretion conduct interviews inside or
outside of Iraq, may facilitate the travel of those interviewed and family members
outside of Iraq, and that, at the sole discretion of UNMOVIC and the IAEA, such
interviews may occur without the presence of observers from the Iraqi
Government; and instructs UNMOVIC and requests the IAEA to resume
inspections no later than 45 days following adoption of this resolution and to
update the Council 60 days thereafter;

6. Endorses the 8 October 2002 letter from the Executive Chairman of
UNMOVIC and the Director-General of the IAEA to General Al-Saadi of the
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 11

Government of Iraq, which is annexed hereto, and decides that the contents of the
letter shall be binding upon Iraq;
7. Decides further that, in view of the prolonged interruption by Iraq of the
presence of UNMOVIC and the IAEA and in order for them to accomplish the
tasks set forth in this resolution and all previous relevant resolutions and
notwithstanding prior understandings, the Council hereby establishes the
following revised or additional authorities, which shall be binding upon Iraq, to
facilitate their work in Iraq:
– UNMOVIC and the IAEA shall determine the composition of their
inspection teams and ensure that these teams are composed of the most qualified
and experienced experts available;
– All UNMOVIC and IAEA personnel shall enjoy the privileges and
immunities, corresponding to those of experts on mission, provided in the
Convention on Privileges and Immunities of the United Nations and the Agreement
on the Privileges and Immunities of the IAEA;
– UNMOVIC and the IAEA shall have unrestricted rights of entry into and
out of Iraq, the right to free, unrestricted, and immediate movement to and from
inspection sites, and the right to inspect any sites and buildings, including
immediate, unimpeded, unconditional, and unrestricted access to Presidential
Sites equal to that at other sites, notwithstanding the provisions of resolution 1154
(1998) of 2 March 1998;
– UNMOVIC and the IAEA shall have the right to be provided by Iraq the
names of all personnel currently and formerly associated with Iraq’s chemical,
biological, nuclear, and ballistic missile programmes and the associated research,

development, and production facilities;
– Security of UNMOVIC and IAEA facilities shall be ensured by sufficient
United Nations security guards;
– UNMOVIC and the IAEA shall have the right to declare, for the purposes
of freezing a site to be inspected, exclusion zones, including surrounding areas
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 12

and transit corridors, in which Iraq will suspend ground and aerial movement so
that nothing is changed in or taken out of a site being inspected;
– UNMOVIC and the IAEA shall have the free and unrestricted use and
landing of fixed- and rotary-winged aircraft, including manned and unmanned
reconnaissance vehicles;
– UNMOVIC and the IAEA shall have the right at their sole discretion
verifiably to remove, destroy, or render harmless all prohibited weapons,
subsystems, components, records, materials, and other related items, and the right
to impound or close any facilities or equipment for the production thereof; and
– UNMOVIC and the IAEA shall have the right to free import and use of
equipment or materials for inspections and to seize and export any equipment,
materials, or documents taken during inspections, without search of UNMOVIC or
IAEA personnel or official or personal baggage;
8. Decides further that Iraq shall not take or threaten hostile acts directed
against any representative or personnel of the United Nations or the IAEA or of
any Member State taking action to uphold any Council resolution;
9. Requests the Secretary-General immediately to notify Iraq of this
resolution, which is binding on Iraq; demands that Iraq confirm within seven days
of that notification its intention to comply fully with this resolution; and demands
further that Iraq cooperate immediately, unconditionally, and actively with
UNMOVIC and the IAEA;

10. Requests all Member States to give full support to UNMOVIC and the
IAEA in the discharge of their mandates, including by providing any information
related to prohibited programmes or other aspects of their mandates, including on
Iraqi attempts since 1998 to acquire prohibited items, and by recommending sites
to be inspected, persons to be interviewed, conditions of such interviews, and data
to be collected, the results of which shall be reported to the Council by UNMOVIC
and the IAEA;
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 13

11. Directs the Executive Chairman of UNMOVIC and the Director-
General of the IAEA to report immediately to the Council any interference by Iraq
with inspection activities, as well as any failure by Iraq to comply with its
disarmament obligations, including its obligations regarding inspections under
this resolution;
12. Decides to convene immediately upon receipt of a report in accordance
with đoạngraphs 4 or 11 above, in order to consider the situation and the need for
full compliance with all of the relevant Council resolutions in order to secure
international peace and security;
13. Recalls, in that context, that the Council has repeatedly warned Iraq
that it will face serious consequences as a result of its continued violations of its
obligations;
14. Decides to remain seized of the matter.

a) Nghị quyết 1441 được HĐBA thông qua ngày 8/11/2002. Lời nói đầu
của nghị quyết này dẫn chiếu đến nghị quyết 687, xác nhận một lần nữa
rằng nghị quyết này vẫn có hiệu lực. Nó cũng công nhận sự đe dọa mà
việc không tuân theo những quyết của HĐBA của Iraq gây ra đối với
nền hòa bình và an ninh quốc tế; đồng thời nhắc lại rằng nghị quyết 687

áp đặt những nghĩa vụ đối với Iraq như một bước cần thiết để đạt được
mục tiêu khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế. Ở đoạn 1 HĐBA tiếp
tục quyết định rằng Iraq vẫn và đang vi phạm thực chất những nghĩa vụ
của nó theo nghị quyết 687 và những nghị quyết liên quan khác.
b) Tuy nhiên HĐBA đã quyết định (trong đoạn 2 của nghị quyết
1441) cung cấp cho Iraq một cơ hội cuối cùng để tuân thủ những nghĩa
vụ giải trừ quân bị. Iraq bị yêu cầu phải đưa ra một tuyên bố đúng đắn,
đầy đủ và hoàn chỉnh về tất cả các lĩnh vực của những chương trình bị
ngăn cấm (đoạn 3), và cung cấp sự tiếp cận ngay lập tức và không hạn
chế cho UNMOVIC và IAEA. Sự thất bại của Iraq trong việc tuân theo
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 14

những yêu cầu của nghị quyết 1441 đã được tuyên bố là một sự vi phạm
thực chất xa hơn những nghĩa vụ của Iraq (đoạn 4), thêm vào sự tiếp tục
vi phạm đã được xác định ở đoạn 1. Trong trường hợp có một sự vi
phạm xa hơn (đoạn 4) hoặc sự can thiệp bởi Iraq với các thanh sát viên
hoặc sự thất bại trong việc tuân theo bất cứ nghĩa vụ giải trừ quân bị nào
theo bất cứ nghị quyết liên quan nào (đoạn 11), vấn đề sẽ được báo cáo
lên HĐBA. HĐBA sau đó sẽ triệu tập để xem xét tình huống và sự cần
thiết để tuân theo đầy đủ tất cả các nghị quyết liên quan để đảm bảo hòa
bình và an ninh quốc tế (đoạn 12). Hội đồng cảnh báo Iraq (đoạn 13)
rằng “Iraq sẽ đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng như là kết quả
của sự tiếp tục vi phạm những nghĩa vụ của nó” – it will face serious
consequences as a result of its continued violations”.
1.3 Đánh giá nghị quyết
Vào tháng 3/2003, khi Mỹ và Anh cuối cùng cũng tiến hành các hoạt
động quân sự chống lại Iraq, chính phủ hai nước này dựa trên cơ sở hợp lý
chính là Iraq đã thất bại trong việc thực hiện những nghị quyết nhất định

của HĐBA và liên minh tiếp tục có quyền sử dụng vũ lực dựa trên những
nghị quyết cụ thể 678, 687, và 1441. Vậy Nghị quyết 687 và 1441 có khôi
phục lại quyền cho phép các quốc gia thành viên sử dụng vũ lực chống lại
Iraq hay không?
1.3.1 Từng luận điểm về sự cho phép can thiệp vào Iraq
Lý lẽ bào chữa chung cho việc can thiệp vào Iraq được tận dụng bởi Lực
lượng liên quân là sự tồn tại một thẩm quyền ngầm định thông qua các nghị quyết
của HĐBA. Khi trả lời câu hỏi được nêu ra tại quốc hội Anh, cố vấn pháp luật tối
cao Lord Goldsmith cho rằng can thiệp vào Iraq là hợp lý:
Việc cho phép sử dụng vũ lực chống lại Iraq tồn tại từ những ảnh hưởng
được kết hợp từ các nghị quyết 678,687 và 1441. Tất cả những nghị quyết này
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 15

được thông qua theo chương VII của hiến chương UN về việc cho phép sử dụng vũ
lực nhằm thực hiện mục đích khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế.
Sau đó, thủ tướng Úc cũng tuyên bố tương tự:
Hành động mà có thể được tiến hành như kết quả của quyết định này (đưa
quân Úc đi đánh) có một nền tảng pháp lý hợp lý theo nghị quyết của HĐBA đã
được thông qua. Nếu xem xét lại nghị quyết 678, 687 và 1441 thì có thể tìm thấy
sự cho phép hợp pháp rộng rãi.
Trong một thông cáo báo chí từ bộ ngoại giao Mỹ, ngoại trưởng Colin
Powell ám chỉ đến sự tồn tại của một thẩm quyền ngầm định để hành động, nhưng
lại đi quá xa khi nói:
Nếu UN không hành động thì sẽ cần thiết để Mỹ hành động với một liên
minh tự nguyện.
“if the UN does not act, then it would be necessary for the US to act with a
willing coalition”
Phản đối lại những luận điểm này, nhiều quốc gia cho rằng sự can thiệp vào

Iraq là không thể chấp nhận mà không có một nghị quyết nào khác của HĐBA quy
định về sự cho phép rõ ràng để sử dụng các biện pháp cần thiết bao gồm cả vũ lực
để bắt tuân theo nghị quyết 1441 và những nghị quyết trước đó. Một vấn đề nổi
lên sau đó là sự liên kết giữa các nghị quyết đáng tin cậy của HĐBA có tạo ra
quyền cho các thành viên UN sử dụng vũ lực để bắt Iraq tuân theo các nghị quyết
này? Đó là vấn đề tranh luận về “automaticity” như quan ngại của Pháp đã được
đề cập ở trên. Cần phải đặt những nghị quyết 678, 687 và 1441 theo trật tự thời
gian và xem xét vị trí và những ảnh hưởng của chúng khi xem xét luận điểm dựa
trên sự liên kết ảnh hưởng của các nghị quyết của HĐBA.
Trước khi xem xét những nghị quyết cụ thể theo vấn đề và ý nghĩa của
chúng cần xem xét những bình luận của ICJ về giải thích những nghị quyết của
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 16

HĐBA. Trong ý kiến tư vấn duy nhất của PCIJ liên quan đế vấn đề này trong vụ
Botwana v.Namibia, tòa nhấn mạnh rằng cần phải xem xét một cách cẩn thận cả từ
ngữ lẫn bối cảnh của nghị quyết:
The language of a resolution of the SC should be carefully analyzed…
having regard to the terms of the resolution to be interpreted, the discussions
leading to it, the Charter provisions invoke and, in general, all circumstances that
might assist in determining the legal consequences.
1.3.2 Nghị quyết 678 và 687 của HĐBA
Nghị quyết 678 của HĐBA cho Iraq cơ hội cuối cùng để rút quân khỏi
Kuwait sau khi xâm lược vào Kuwait hồi tháng 8/1990, và cho phép Lực lượng
liên quân sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết để bảo đảm và thực thi nghị quyết.
Sự thất bại của Iraq trong việc thực hiện dẫn đến chiến dịch Bão táp sa mạc
(Operation Desert storm) năm 1991. Nghị quyết cũng yêu cầu Iraq phải chấp nhận
vô điều kiện việc tự mình tiêu hủy, dỡ bỏ và di dời một cách an toàn các loại vũ
khí hóa, sinh học, tên lửa đạn đạo bán kính trên 150km

2
cùng những thiết bị,
phương tiện liên quan dưới sự giám sát của các cơ quan, tổ chức quốc tế có thẩm
quyền; đồng thời Iraq cũng phải cam kết từ bỏ việc sử dụng, chế tạo, phổ biến các
loai vũ khí đó. Ngoài ra, nghị quyết còn yêu cầu Iraq trao cho hội đồng đặc biệt
Special Commission và cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế quyền hạn hoàn
toàn không hạn chế trong việc đi lại trên lãnh thổ Iraq cũng như trong phạm vi qui
mô điều tra nhằm xác định mức độ tuân thủ theo đúng nghĩa vụ nghị quyết này.
Trở lại với luận điểm của Lord Goldsmith, điều gì có thể rút ra từ Nghị
quyết 678 và 687? Ý kiến của ông về tính pháp lý của việc can thiệp, bao gồm sự
liên quan sau đối với các nghị quyết:
 Trong Nghị quyết 678, HĐBA cho phép sử dụng vũ lực
chống lại Iraq để trục xuất Iraq ra khỏi Kuwait và để khôi phục hòa bình và
an ninh khu vực.
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 17

 Việc vi phạm thực chất nghị quyết 687 khôi phục sự cho phép
sử dụng vũ lực theo nghị quyết 678.
1.3.3 Phạm vi nào của việc cho phép sử dụng vũ lực theo nghị quyết 678?
Ý kiến của Lord Goldsmith dựa trên sự thật là những nghị quyết này bao
gồm cả Nghị quyết 678 đã được thông qua theo chương VII của Hiến chương UN
cho phép sử dụng vũ lực với mục đích rõ ràng là nhằm khôi phục hòa bình và an
ninh quốc tế là đúng. Lời nói đầu của nghị quyết 678 diễn đạt bản thân nó như một
hoạt động theo chương VII của Hiến chương UN và xác nhận một lần nữa những
quyết định trước đó của HĐBA rằng việc xâm lược Kuwait đã tạo nên một sự phá
vỡ hòa bình; và chương VII quả thực cho phép HĐBA có quyền sử dụng vũ lực
cho mục đích khôi phục hòa bình và an ninh khu vực. Nghị quyết 678 cho phép
một cách cụ thể các quốc gia thành viên sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết để

bảo đảm và thực thi nghị quyết 660.
Đoạn 2. Cho phép các thành viên liên kết với chính phủ của Kuwait, để sử
dụng tất cả các biện pháp cần thiết để duy trì và thực hiện nghị quyết 660 (1990)
và tất cả các nghị quyết có liên quan sau đó và để phục hồi hòa bình và an ninh
thế giới ở khu vực, nếu Iraq vào hoặc trước ngày 15/01/1991 không thực hiện đầy
đủ như các nghĩa vụ như đã được nêu ra ở đoạn 1, nghị quyết được nhắt tới trên
đây.
Đoạn 2. authorizes mem states cooperating with the gov of Kuwait, unless
Iraq on or before 15 january 1991 fully implements as set forth in đoạn 1 above,
the above-mentioned res, to use all necessary means to uphold and implement res
660 (1990) and all subsequent relevant resolutions and to restore international
peace and security in the area;
Lord Goldsmith cho rằng nghị quyết cho phép sử dụng vũ lực với hai mục
đích: (1) trục xuất Iraq ra khỏi Kuwait, về vấn đề này thì không có tranh cãi nào;
và (2) để khôi phục hòa bình và an ninh khu vực. Nói một cách máy móc, luận
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 18

điểm sau cũng đúng vì đoạn 2 của nghị quyết cho phép sử dụng tất cả các biện
pháp để duy trì và thực hiện nghị quyết 660 “và tất cả các nghị quyết liên quan
sau đó và để khôi phục hòa bình và an ninh thế giới ở khu vực”. Tuy nhiên, vấn đề
này chỉ thuộc phạm vi cuộc khủng hoảng vùng Vịnh 1991 và nghị quyết 678
không tạo ra một sự liên quan nào đối với khủng hoảng ở Iraq 2002 – 2003. Luận
điểm thứ nhất về việc cho phép sử dụng vũ lực là để duy trì nghị quyết 660 và tất
cả các nghị quyết liên quan sau đó. Nói cách khác, nó được thông qua để đảm bảo
việc rút quân của Iraq khỏi Kuwait. Cuộc khủng hoảng 2002 -2003 và nghị quyết
1441 không có bất cứ điều gì để đối phó với sự có mặt của Iraq ở Kuwait và vì thế
không thể nói là để tạo thành “những nghị quyết liên quan sau đó” để kích hoạt
thẩm quyền ở đoạn 2. Với nhiều lý do giống nhau, cuộc khủng hoảng 2002 – 2003

không liên quan gì đến việc phục hồi hòa bình và an ninh quốc tế theo những điều
khoản trong nghị quyết 678, vì sự liên quan đến hòa bình và an ninh thế giới (như
trong nghị quyết 678) là với sự hiện diện của Iraq tại Kuwait. Xem xét lại câu chữ,
Nghị quyết 678 cho phép sử dụng vũ lực nếu Iraq thất bại trong việc rút quân khỏi
Kuwait trước 15/1/1991 và với mục đích khôi phục lại CHDC Kuwait. Sự hạn chế
nội dung của từ ngữ trong đoạn về việc cho phép sử dụng vũ lực quy định như sau:
“Cho phép các thành viên liên kết với chính phủ của Kuwait, để sử dụng tất cả các
biện pháp cần thiết để duy trì và thực hiện nghị quyết 660 (1990) và tất cả các
nghị quyết có liên quan sau đó và để phục hồi hòa bình và an ninh thế giới ở khu
vực, nếu Iraq vào hoặc trước ngày 15/01/1991 không thực hiện đầy đủ như các
nghĩa vụ như đã được nêu ra ở đoạn 1, nghị quyết được nhắt tới trên đây.”. Do
đó, quyền sử dụng vũ lực hạn chế chính nó một cách rõ ràng đối với tình huống
mâu thuẫn mà hiện diện sau đó.
1.3.4 Liệu một sự vi phạm thực chất nghị quyết 687 có phục hồi quyền sử
dụng vũ lực ở nghị quyết 678 hay không?
Nghị quyết 687 được thông qua (một lần nữa tuân theo chương VII) vào
ngày 3/4/1991 với 2 mục tiêu. Trước tiên là để thiết lập một lệnh ngừng bắn giữa
Iraq và Kuwait, điều này được quy định trong phần A của nghị quyết từ đoạn 2
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 19

đến 4. Phần A kêu gọi sự thiết lập đường biên giới giữa Iraq và Kuwait và cho
phép sử dụng vũ lực để thực hiện ngừng bắn.
Nghị quyết 687 không có quy định nào khác cho phép sử dụng vũ lực. Một
lần nữa, lênh ngừng bắn không phát sinh trong khủng hoảng Iraq 2002 – 2003. Sự
liên quan của nghị quyết 687 bị hạn chế bởi những nghĩa vụ nhất định đối với Iraq
gắn liền với việc giải trừ quân bị và không phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt phù
hợp với mục tiêu chính thứ hai. Vấn đề đặt ra bởi Lord Goldsmith là liệu một sự vi
phạm việc giải trừ quân bị và chế độ kiểm tra có khôi phục quyền sử dụng vũ lực

theo nghị quyết 678 hay không. Trước tiên phải công nhận rằng nghị quyết 687
không viện dẫn nghị quyết 678, ngoại trừ phần mở đầu của nó có nhắc lại nghị
quyết 678 như sau:
Affirming the commitment of all member states to the sovereignty,
territorial integrity and political independence of Kuwait and Iraq, and nothing
the intention expressed by the member states cooperating with Kuwait under
paragraph 2 of resolution 678 (1990) to bring their military presence in Iraq to
an end as soon as possible consistent with paragraph 8 of resolution 686 (1991),
Một lần nữa, những điều khoản của nghị quyết hạn chế chính bản thân
chúng với vấn đề đe dọa an ninh gây ra bởi Iraq đối với Kuwait. Sự nhắc lại ghị
quyết 678 bị hạn chế trong lời nói đầu của nghị quyết 687. Nghị quyết 687 không
đề cập gì đến việc đình chỉ hoặc kích hoạt lại. Không có một cơ sở nào cho việc
một sự vi phạm những quy định về giải trừ quân bị có thể phục hồi được sự cho
phép sử dụng vũ lực ở nghị quyết 678.
1.3.5 Nghị quyết 1441 của HĐBA
Theo sự xúi giục của chính quyền Bush, HĐBA đã thông qua nghị quyết
1441 ngày 8/11/2002, theo sau sự tiếp tục từ chối tuân theo những nghĩa vụ cung
cấp cho các viên thanh tra vũ khí của UN quyền sử dụng không hạn chế những
điều kiện dễ dàng của Iraq, và xét thấy sự phát triển liên quan đến việc Iraq đã tái
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 20

thiết một chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt. Nghị quyết bắt đầu bằng việc
nhắc lại rằng Iraq duy trì việc vi phạm nghị quyết 687. Nghị quyết này không
tuyên bố phần nào của nghị quyết 687 mà nó dẫn chiếu đến, nhưng nó chỉ có thể
dẫn chiếu theo logic đến những phần của nghị quyết mà gắn liền với những vũ khí
hủy diệt hàng loạt. Phần A của nghị quyết 687 là phần quy định việc cho phép duy
nhất việc sử dụng vũ lực, liên quan đến việc ngừng bắn với Kuwait. Như đã được
thảo luận, sự phân chia này của nghị quyết năm 1991 không chứa đựng bất kỳ sự

liên quan nào đến những quan tâm của chính quyền Bush và Blair. Hơn nữa, đoạn
1 của nghị quyết 1441 bị hạn chế trong thẩm quyền giải quyết của nó đối với
những sự vi phạm của Iraq liên quan đến sự thất bại của nó trong việc hợp tác với
các viên thanh tra UN và trong việc hoàn thành những hoạt động theo đoạn 8 đến
13 của nghị quyết 687.
Theo đoạn 3, Iraq được yêu cầu như một bước đầu tiên đối với việc làm
đúng theo nghĩa vụ giải trừ quân bị của mình là đệ trình một tuyên bố liên quan
đến tất cả các phương diện trong chương trình của nó về phát triển các vũ khí hóa
học, sinh học và hạt nhân, tên lửa đạn đạo và các phương tiện chuyên chở khác.
Nghị quyết cung cấp một cách rõ ràng cho Iraq một cơ hội cuối cùng để tuân theo
những nghĩa vụ giải trừ quân bị của mình và trong đoạn áp chót:
Nhắc lại, trong bối cảnh đó, HD đã cảnh báo lại với Iraq rằng nó sẽ đối
mặt với những hậu quả nghiêm trọng như kết quả của việc nó tiếp tục vi phạm
những nghĩa vụ của mình;
Recalls, in that context, that the Council has repeatedly warned Iraq that it
will face serious consequences as a result of its continued violations of its
obligations; [emphasis added]
Tiếp theo sự thông qua nghị quyết 1441, Iraq trao cho Tổng thư ký UN một
bản tuyên bố mà Iraq được yêu cầu theo đoạn 3. Mặc dù việc tiến hành điều tra các
thiết bị chưa được công bố khác ở Iraq đã được dự báo trước là sẽ vấp phải nhiều
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 21

khó khăn, nhưng Ủy ban giám sát, thẩm tra và thanh tra UN (UNMOVIC) vẫn tiến
hành việc thanh tra dưới sự chỉ đạo của giáo sư Hans Blix. Mỹ và Anh phàn nàn
rằng Iraq đã vi phạm nghị quyết 1441 thông qua một sự thất bại đã được chứng
minh của Iraq về việc đưa ra một bản tuyên bố đầy đủ và chính xác như được yêu
cầu theo đoạn 3. Tuy nhiên, đáng quan tâm là các thành viên HĐBA đã không hợp
nhất trong vấn đề liệu luận điệu đưa ra chống lại Iraq có tạo thành một sự vi phạm

thực chất nghị quyết 1441 hay không.
Ngày 6/3/2003, HDBA nhận được một bản báo cáo của UNMOVIC cùng
với thuyết trình của giáo sư Hans Blix. Trong bài thuyết trình, giáo sư có nhắc tới
việc UNMOVIC đã phải đối diện với một số khó khăn, ông cũng không khẳng
định rằng quá trình thanh tra đã dễ dàng; nhưng ông ghi nhận rằng UNMOVIC tại
thời điểm đó có thể kiểm soát việc thanh tra chuyên nghiệp và có thể tiến hành
điều tra mà không cần thông báo trước với phía Iraq trên toàn Iraq. Trong đoạn
cuối của thuyết trình, ông ta nói rằng:
Cần phải tốn bao nhiêu thời gian để giải quyết vấn đề chủ yếu đang được
duy trì những nhiệm vụ giải trừ quân bị? Trong khi sự hợp tác có thể và được
ngay lập tức, việc giải trừ quân bị và với bất cứ tỷ lệ nào sự kiểm tra của nó không
thể trong chốc lát. Thậm chí với sự tiên phong thực hiện của Iraq, gây ra bởi
những sức ép bên ngoài, nó vẫn sẽ mất một khoảng thời gian để kiểm tra các địa
điểm và các mục, để phân tích tài liệu, thẩm vấn những người liên quan và để đưa
ra kết luận. Sẽ không tốn nhiều năm, nhiều tuần nhưng mà hàng tháng dài. Không
có chính phủ hay thanh sát viên nào muốn việc thanh tra giải trừ quân kéo dài mãi
mãi. Tuy nhiên cần phải nhớ rằng phù hợp với các nghị quyết điều chỉnh, một hệ
thống giám sát và thanh tra được kéo dài là để giữ nguyên ở vị trí sau khi việc
giải trừ quân bị được thẩm tra để đưa ra sự quả quyết và để strike an alarm, nếu
các dấu hiệu được nhận thấy sự trở lại của bất cứ chương trình vũ khí bị bài trừ
nào.
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 22

How much time would it take to resolve the key remaining disarmament
tasks? While cooperation can and is to be immediate, disarmament and at any rate
the verification of it cannot be instant. Even with a proactive Iraqi attitude,
induced by continued outside pressure, it would still take some time to verify sites
and items, analyse documents, interview relevant persons, and draw conclusions.

It would not take years, nor week, but months. Neither gov nor inspectors would
want disarmament inspection to gon on forever. However, it must be remembered
that in accordance with the governing resolutions, a sustained inspection and
monitoring system is to remain in place after verified disarmament to give
confidence and to strike an alarm, if signs were seen of the revival of any
proscribed weapons programmes.
Tuy nhiên bất chấp những kêu gọi xa hơn đối với những thanh tra viên và
thời gian cho các cuộc thanh tra, liên minh Mỹ – Anh đã bắt đầu các hành động
quân sự chống lại Iraq vào ngày 19/03/2003.
1.3.6 Nghị quyết 1441 có cho phép sử dụng vũ lực không?
Như đã bác bỏ một vài những vấn đề trong lời khuyên của Lord Goldsmith
liên quan đến sự thích đáng của các nghị quyết 678, 687 của HĐBA, một vấn đề
xa hơn, mang tính sống còn vẫn còn tồn tại. Liệu nghị quyết 1441 có hoàn toàn
cho phép sử dụng vũ lực chống lại Iraq? Liệu những cụm từ “hậu quả khốc liệt
nhất đối với Iraq” và “Iraq sẽ đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng” có đủ để
đưa đến một sự cho phép liên minh vũ lực can thiệp vào Iraq?
Ngược lại với tình hình của những sự cho phép trước đó của HĐBA, và
điều 31(3) CƯ Viên, đưa ra kết luận rằng một thành viên của UN có thể được cho
phép theo Chương VII của hiến chương để sử dụng vũ lực đối với các quốc gia
khác chỉ trong hai trường hợp. Thứ nhất là trường hợp sử dụng hợp pháp lực lượng
vũ trang vào mục đích tự vệ. Thứ hai là theo quy định của HĐBA khi có đe dọa
hòa bình, xâm phạm hòa bình hoặc bị xâm lược.
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 23

Không có tình huống nào trong hai trường hợp này áp dụng nghị quyết
1441. Nghị quyết này không cung cấp cho bất cứ thành viên nào của UN hoặc bất
cứ liên minh nào của các thành viên một sự ủy nhiệm nào để chỉ đạo quá trình hoạt
động ở Iraq từ việc nó có thể được ngụ ý rằng việc sử dụng vũ lực là cần thiết. Về

mặt từ ngữ, nghị quyết này cũng không suy ra hoặc cho phép sử dụng tất cả các
biện pháp cần thiết. Đúng hơn là nghị quyết này cảnh báo những hậu quả khốc liệt
nhất và nghiêm trọng.
“Một cơ hội cuối cùng”. Một tranh luận mạnh hơn nhiều là một sự cho phép
sử dụng vũ lực được đưa ra không chỉ từ sự biểu lộ “những hậu quả nghiêm
trọng”, mà từ những ảnh hưởng được liên kết của sự biểu lộ đó với quy định trong
đoạn 2 của nghị quyết 1441 rằng Iraq đang được cung cấp một cơ hội cuối cùng để
tuân theo những nghĩa vụ giải trừ quân bị theo nghị quyết 687. Tại sao HĐBA sẽ
biểu lộ thêm rằng Iraq có một cơ hội cuối cùng để tuân theo, nếu nó không đương
đầu thì việc sử dụng vũ lực sẽ sinh ra trong phạm vi những hậu quả nghiêm trọng
được luận ra?
Ở cái nhìn đầu tiên, luận điểm đó có thể gặp một số phản đối. Tuy nhiên
nhìn vào thực tiễn trước đó của HĐBA thì nó cũng có thể được giải quyết. Trong
nghị quyết 678, những điều mà Lord Goldsmith luận ra là Iraq cũng được cung
cấp một cơ hội cuối cùng để tuân theo những yêu cầu của HĐBA. Tuy nhiên sự
biểu lộ này được kèm theo ngay lập tức bởi một thời gian hạn chế cho việc thực
hiện cơ hội đó và với quy định được biểu lộ này rằng một sự thất bại để thực hiện
cơ hội đó trong một thời gian được tuyên bố sẽ dẫn đến việc sử dụng tất cả các
biện pháp cần thiết:
Authorizes mem states cooperating with the Government of Kuwwait,
unless Iraq on or before 15 Jan 1991 fully implements, as set forth in paragraph 1
above, the above-mentioned resolutions, to use all necessary means to uphold and
implememt res 660 (1990) and all subsequent relevant resolutions and to restore
internation peace and security in the area;
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 24

Sự hạn chế thời gian và sư cho phép sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết
phân biệt nghị quyết 678 với nghị quyết 1441.

Về mặt ngôn từ của nghị quyết 1441. Trước tiên, đoạn 12 quy định như sau:
Decides to convene immediately upon receipt of a report in accordance
with papa 4 or 11 above, in order to consider the situation and the need for full
compliance with all of the relevant council resolutions in order to secure peace
and security;
Những từ ngữ này không nghi ngờ gì rằng lường trước rằng nghị quyết
1441 không phải là một bước cuối cùng trong quá trình. Đúng hơn là, bất cứ bản
báo cáo bất lợi nào được đưa ra bởi chủ tịch quản lý hành pháp của UNMOVIC
(executive chairman) được xem xét kỹ hơn bởi hội đồng. Nếu có bất cứ thẩm
quyền sử dụng vũ lực nào được cho phép thì rõ ràng điều này là không được trước
khi có sự triệu tập một cuộc họp và đưa ra một nghị quyết xa hơn.
Điểm thứ hai được đưa ra bởi ngôn từ của nghị quyết 1441 là việc thiếu sự
cho phép sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết là không phải vô tình. Bản nháp
nghị quyết này đã được lưu hành trước ở UN đầu tháng 10/2002, bao gồm đoạn
sau:
Decides that false statement orr omissions in the declaration submitted by
Iraq to the Council and the failure by Iraq at any time to comply and cooperarte
fully in accordance with the provisions laid out in this resolution, shall constitute
a further material breach of iraq’s obligations, and that such breach authorizes
member states to use all necessary means to restore international peace and
security in the area;
Đoạn này có thể gây tranh cãi nhất và bị phản đối bởi 2 trong số 5 thành
viên thường trực của HĐBA là Nga và Pháp. Một kết quả của sự phản đối đó là
Anh và Mỹ đã trình bày một bản dự thảo đã được sửa đổi mà bỏ bất cứ sự liên
Các Nghị quyết HĐBA trước và sau chiến tranh Iraq 2003 - Nhóm Lê Thị Thương

Môn Liên Hiệp Quốc Page 25

quan nào đên việc cho phép sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết. Hội đồng biết
rằng một cụm từ như vậy cho phép sử dụng vũ lực, đã chủ ý loại trừ cụm từ để ưu

tiên thông qua nghị quyết. Hơn nữa đoạn 12 (vừa được nhắc tới) cũng không được
chèn vào.
Nghị quyết 1441 được coi là văn kiện mở đầu cho hàng loạt sự kiện từ bùng
nổ chiến sự ở Iraq cho tới việc hất cẳng Saddam Husein ra khỏi chiếc ghế quyền
lực của ông ta. Quá trình mà dẫn đến sự thông qua nghị quyết này đã đề cập tới
các vấn đề đã được thảo luận trước đó và cũng sử dụng rất nhiều dự thảo NQ trước
đó. Tuy nhiên rõ ràng về mặt ngôn từ của của những đoạn trong nghị quyết 1441
áp đặt những nghĩa vụ đối với Iraq, và trao cho UNMOVIC những quyền hạn mà
đã không tồn tại trong tất cả các nghị quyết trước đó của UN. Nhiều năm thất bại
với sự lừa bịp và trì hoãn của Saddam cuối cùng HĐBA đã quy định những biện
pháp nghiêm khắc và không khoan nhượng – zero-tolerance mà sẽ cung cấp cho
Iraq một cơ hội cuối cùng để tuân theo những nghĩa vụ thanh sát vũ khí và giải trừ
quân bị của mình.
Đoạn 4 tuyên bố rằng Iraq sẽ được xem như tự ràng buộc với một sự vi
phạm thực chất xa hơn những nghĩa vụ thanh sát vũ khí của mình trong trường
hợp những tuyên bố hoặc sự bỏ sót sai nào dường như xuất hiện trong tuyên bố về
vũ khí mà Iraq được yêu cầu cung cấp trong vòng 30 ngày kể từ khi thông qua
nghị quyết 1441. Đoạn 4 này còn yêu cầu Iraq báo cáo tất cả sự thật về những
chươg trình hóa học, sinh học và hạt nhân khác, bao gồm cả bất cứ chương trình bị
cáo buộc nào cho mục đích không liên quan đến nguyên liệu và việc sản xuất vũ
khí…”. Tuy nhiên, nghị quyết 1441 không có ý định thay thế chế độ thanh sát mà
đã có trước nó.
Ít nhất 2 nhiệm vụ và quyền hạn kết nối với việc thanh sát vũ khí và xuất
hiện trong nghị quyết 1441 đáng được quan tâm. Nhiệm vụ và quyền hạn thứ nhất
bao gồm yêu cầu của UN rằng UNMOVIC được đảm bảo tiếp cận không chỉ
những vị trí có vũ khí mà còn tất cả những cá nhân liên kết với các hoạt động liên

×