Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Lực lượng sản xuất và vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.14 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU

MỞ ĐÂU

MỞ ĐẦU
Quá trình sản xuất vật chất là nguồn gốc phát triển của lịch sử lồi người. Hay
nói cách khác lịch sử của loài người là lịch sử của quá trinh sản xuất vật chất. Sở dĩ
con người có thể trở thành người là do con người biết lao động tự tạo ra của cải vật
chất phục vụ cho đời sống của mình, đó cũng là điểm khác nhau cơ bản của người
và động vật. Tự nhiên không làm thỏa mãn con người, nhu cầu của con người ngày
càng phong phú và đa dạng. Cũng chính trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất
phục vụ nhu cầu hàng ngày của mình họ đã sáng tạo ra các mặt của đời sống xã hội,
đồng thời làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi chính bản
thân mình. Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định,
mỗi phương thức sản xuất lại bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
đó lượng sản xuất giữ vai trò quyết định. Chúng ta sẽ đặt ra câu hỏi lực lượng sản
xuất là gì? Vì sao nó lại có vai trị quan trọng đến như vậy? Vấn đề này chỉ được
làm sáng tỏ khi chúng ta nghiên cứu về lực lượng sản xuất và vai trị của nó đối với
đời sống xã hội. Vì vậy em chọn đề tài tiểu luận là: lực lượng sản xuất và vai trò
của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội.


PHẦN I:LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Một số vấn đề chung về lực lượng sản xuất
a. Khái niệm và tính chất của lực lượng sản xuất
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất biểu hiện mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên. Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải
biến thế giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình. Đó
là khái niệm để chỉ việc con người chinh phục thế giới tự nhiên bằng tất cả sức
mạnh hiện thực của mình trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội. Trình độ của


lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Gắn liền với trình độ của lực lượng
sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản
xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất
dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản
xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hiện đại,
phân cơng lao động xã hội phát triển thì lực lượng xã hội có tính chất xã hội hóa.
b. Các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất. Trong
các yếu tố của lực lượng sản xuất, Lênin viết : “Lực lượng sản xuất hàng đầu của
tồn thể nhân loại là cơng nhân, người lao động. Chính người lao động là chủ thể
của quá trình lao động sản xuất. Con người sở dĩ trở thành người là nhờ vào lao
động. Khơng có người lao động thì khơng có hoạt động sản xuất vật chất. Người
lao động là nguồn nhân lực ở vị trí trung tâm và giữ vai trị quyết định tồn bộ quá


trình phát triển của lực lượng sản xuất. Vì các nguồn lực khác có giới hạn nhất
định, khai thác chúng đến một lúc nào đó cũng phải cạn kiệt, chỉ có nguồn nhân lực
với thể lực, trí lực và chất xám là có khả năng tự tái sinh đến vơ hạn. Chính con
người tạo ra nguồn vốn, lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp khai thác sử dụng
đồng thời khôi phục các nguồn lực khác. Với thể lực và trí lực người lao động biến
những vật vơ tri vơ giác trong giới tự nhiên thành công cụ lao động và sử dụng
chúng trong hoạt động lao động của mình, cải tiến những cơng cụ lao động phục vụ
cho chính cuộc sống hàng ngày của mình, họ chế tạo ra những công cụ lao động
mới làm cho lực lượng sản xuất nói riêng, đời sống xã hội nói chung ngày càng
phát triển. Người lao động với tính xã hội, các quan hệ xã hội trong đời sống xã hội
hiện thực là một thành tố của lực lượng sản xuất. Con người vừa là chủ thể - chủ
thể sáng tạo và “tiêu dùng” của sản xuất, vừa là nguồn nhân lực đặc biệt của sản
xuất. Điều chủ yếu nhất ở người lao động là người lao động có trí tuệ. Trong điều
kiện của khoa học - công nghệ hôm nay hàm lượng trí tuệ trong lao động làm cho

người lao động trở thành nguồn lực đặc biệt, nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận,
nguồn lực của mọi nguồn lực.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực
lượng sản xuất có vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Muốn đánh giá trình độ
phát triển của sản xuất xã hội hoặc trình độ phát triển của xã hội thì phải căn cứ vào
chỉ tiêu quan trọng nhất là tư liệu lao động vì tư liệu lao động là cơ sở quyết định
sự phát triển của sản xuất trong mọi thời đại. Vì vậy C.Mác khẳng định “Những
thời đại kinh tế khác nhau không phải là ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ
chúng sản xuất bằng cách nào với những tư liệu lao động nào” (1)
Mặc dù yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất vẫn là con người : tư liệu
lao động chỉ phát huy tác động khi được con người với kỹ năng kỹ xảo, kinh
nghiệm thói quen lao động sử dụng vào mục đích sản xuất vật chất, nhưng ngược
lại sức mạnh vốn có và khả năng lao động cơ bắp của con người được nhân lên gấp


bội cũng là nhờ có sự kết hợp với cơng cụ lao động do con người tạo ra trong sản
xuất. Công cụ lao động là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất.
(1):C.Mac và P.Ăngghen. Toàn tập, t 23.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1993, tr2969.
Cơng cụ lao động là khí quan của bộ óc con người, là sức mạnh của tri thức đã
được vật thể hóa để làm tăng sức mạnh trí tuệ của con người. Cơng cụ lao động là
yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Q trình tích lũy kinh nghiệm với những
phát minh và sáng chế kỹ thuật. Công cụ lao động khơng ngừng được cải tiến và
hồn thiện. Chính sự cải tiến và hồn thiện khơng ngừng cơng cụ lao động đã làm
biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó nguyên nhân sâu xa của biến đổi
xã hội: trình độ phát triển của cơng cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục
thiên nhiên của con người là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch
sử. Ngày nay, công cụ lao động đã đạt tới trình độ cao được tin học hóa, tự động
hóa nên nó có thể trở thành “ lực lượng’’hết sức to lớn và đáng kể. Ở mọi thời đại
công cụ lao động luôn được biến đổi, sự thay đổi hồn thiện của cơng cụ sản xuất

do con người thực hiện không ngừng đã thường xuyên gây ra những biến đổi sâu
sắc toàn bộ tư liệu sản xuất và cũng là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
Từ đó có thể thấy rằng trình độ phát triển của cơng cụ lao động là thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người và là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế
khác nhau. Đồng thời sự biến đổi của lực lượng sản xuất cũng sẽ làm biến đổi các
quan hệ sản xuất của con người.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn chuyển từ lao động thô sơ
sang sản xuất cơng nghiệp, cơ khí hóa khơng chỉ giới hạn ở việc tăng một cách
đáng kể số lượng thuần túy các cơng cụ đã có mà chủ yếu là ở việc tạo ra những
cơng cụ lao động hồn tồn mới, sử dụng các nguồn năng lượng thiên nhiên khác
nhau, thay thế con người và cơ bắp của con người. Nhờ vậy mà con người đã
chuyển một cách đáng kể những lao động nặng nhọc sang cho máy móc có điều


kiện để phát triển năng lực khác của mình. Các yếu tố trong lực lượng sản xuất có
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau một cách biện chứng như là
yếu tố của hệ thống.Với tính chất hệ thống, lực lượng sản xuất không ngừng biến
đổi và thực tế đang có những biến đổi căn bản về chất ở thời đại của chúng ta.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn.
Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy
sản xuất phát triển. Ngày nay khoa học phát triển đến mức trở thành nguyên nhân
trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành“ lực
lượng sản xuất trực tiếp” tham gia trực tiếp vào việc định hướng tích cực hoạt động
sản xuất và hoạt động khoa học. Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại
khơng cịn chỉ là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Những
phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới,
những máy móc, thiết bị mới, cơng nghệ mới, ngun vật liệu mới, năng lượng
mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất trở thành một yếu tố
không thể thiếu được của sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển
nhảy vọt tạo thành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Có thể nói :“

khoa học và cơng nghệ hiện đại đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại”.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất đó là quan
hệ sản xuất; điều kiện tự nhiên, thời đại, dân tộc…trình độ của cơng cụ lao động;
trình độ, kinh nghiệm, kĩ năng lao động của con người; trình độ hình thức phân
cơng lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Nhưng yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp và sâu sắc đến lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất. Lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là hai yếu tố của phương thức sản xuất. Sự vận động
phát triển cuả lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho
phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ là động lực thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc“tiên


tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất có thể tác động đến lực
lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất, ảnh hưởng đến lợi ích và thái
độ của người lao động trong sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với
lực lượng sản xuất thì mới có thể thực hiện công bằng xã hội, cải thiện đời sống của
người dân.

2. Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội.
Lực lượng sản xuất có vai trị quan trọng đối với sự phát triển của xã hội loài
người nó thể hiện ở một số mặt như sau:
a.Vai trị của lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Là sự thống nhất
giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định trong quan hệ sản xuất tương ứng.
Do hoàn cảnh sản xuất ở mỗi nơi, mỗi nước khác nhau nên sự vận dụng và nhận
thức về vai trò của lực lượng sản xuất là khác nhau. Chẳng hạn nước ta những năm
60 của thế kỷ XX một số nhà lý luận cho rằng: trong nền nông nghiệp nước ta

“quan hệ sản xuất đi trước lực lượng sản xuất”, hay ở Liên Xô những năm 70 một
số nhà triết học và kinh tế học nhấn mạnh rằng: trong quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cần coi trọng sự phù hợp của lực lượng sản xuất
với quan hệ sản xuất chứ không phải ngược lại hoặc cho rằng vị trí, vai trị và tầm
quan trọng của quan hệ sản xuất ngang với lực lượng sản xuất trong nền sản xuất
xã hội. Đó là những nhận thức sai lầm về vai trò của lực lượng sản xuất. Lực lượng
sản xuất có tính quyết định đến sự phát triển quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là
yếu tố phụ thuộc vào lực lượng sản xuất mà không phải là đi trước hoặc“tiên tiến”
hơn lực lượng sản xuất tức là đối với một lực lượng sản xuất nhất định muốn sản
xuất phát triển phải xây dựng quan hệ sản xuất tương ứng phù hợp.


Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất nên
chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau một cách biện
chứng tạo thành quy luật là sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển xã
hội. Lực lượng sản xuất đóng vai trị quan trọng trong quyết định của phương thức
sản xuất. Để thấy được tầm quan trọng của lực lượng sản xuất với phương thức sản
xuất cần phải đặt nó trong mối quan hệ với quan hệ sản xuất. Sự vận động, phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù
hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ
sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả
các mặt của quan hệ sản xuất đều“ tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát
triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa
người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở phát triển
hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành khơng phù hợp, thành“ xiềng xích” của lực lượng

sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển thì yêu cầu khách quan của lực
lượng sản xuất dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát
triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó
cũng có nghĩa là phải sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động và tư
liệu sản xuất để lực lượng sản xuất có cơ sở phát triển hết khả năng của nó. Thay
thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức
sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
b. Vai trò của lực lượng sản xuất đối với kinh tế và đời sống xã hội


Vai trò của lực lượng sản xuất với sự phát triển xã hội loài người thể hiện rõ ở
tác động của nó đến nền kinh tế và đời sống xã hội. Trình độ của lực lượng sản xuất
thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử.
Vai trò của lực lượng sản xuất đối với nền kinh tế và đời sống xã hội được thể hiện
rõ nét trong lịch sử loài người. Tất cả các hình thái ngun thủy chiếm hữu nơ lệ,
phong kiến đều có nền văn minh nơng nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất nhỏ bé tự
cung tự cấp. Người lao động và cả công cụ lao động đều chưa phát triển cịn rất
nhiều hạn chế. Điều này có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội của con người vì lực
lượng sản xuất chưa phát triển nên kinh tế còn lạc hậu, chưa tạo ra nhiều của cải vật
chất không đáp ứng được nhu cầu của con người. Mà con người ln có nhu cầu
chính đáng để tồn tại là nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại…Những nhu cầu này chưa được
đáp ứng đầy đủ vì sản xuất vật chất cịn ít, đời sống cịn kém, chưa phát triển. Điều
này cũng cho thấy nền văn minh nông nghiệp rất yếu kém, khơng đủ khả năng phát
triển tồn diện con người, dẫn đến hậu quả: trình độ giáo dục yếu kém, số người
mù chữ cao, trẻ em tử vong khi sinh tăng… Đó cũng là giai đoạn lực lượng sản
xuất mang tính chất cá nhân. Hầu hết các nước trên thế giới sau một thời gian
phương thức sản xuất phong kiến sẽ dần bị thay thế bởi phương thức sản xuất mới:
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi đó thì đời sống con người được phát
triển lên rõ rệt, thể hiện ở tuổi thọ trung bình tăng, trình độ của con người được
nâng cao, quyền lợi của họ được đảm bảo…Có được sự tiến bộ này cũng là do lực

lượng sản xuất có sự nhảy vọt, tính chất xã hội hóa thay thế cho tính chất cá nhân.
Chưa bao giờ lực lượng sản xuất phát triển mạnh đến thế và tạo ra nhiều của cải vật
chất đến vậy. Số lượng của cải vật chất mà con người làm ra bằng tất cả các thế hệ
trước kia cộng lại. Đó cũng là do hoạt động của của nền kinh tế hàng hóa. Mặc dù
vậy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cịn có nhiều hạn chế mẫu thuẫn khơng
thể khắc phục. Chỉ có chủ nghĩa xã hội với tính ưu việt của nó mới khắc phục được
tất cả những hạn chế của chế độ trước kia. Lực lượng sản xuất làm thay đổi rất


nhiều, nếu khơng nói là tất cả. Sự phát triển của lực lượng sản xuất mới trong lòng
chế độ phong kiến đã thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, thiết
lập nên chế độ cộng hòa. Xã hội chủ nghĩa mới thực sự là xã hội vì con người, ở đó
lực lượng sản xuất được giải phóng tối đa tạo mơi trường kinh tế bền vững, phát
triển ở trình độ cao. Như vậy có thể thấy rằng dù trong xã hội nào đi chăng nữa thì
tầm quan trọng của lực lượng sản xuất là rất lớn.
Trên cơ sở nền đại cơng nghiệp cơ khí, theo nhiều chun gia thì tiếp sau giai
đoạn cơ khí hóa là giai đoạn tin học hóa. Ở giai đoạn tin học hóa, lực lượng sản
xuất của xã hội sẽ có nhiều biến đổi về chất. Những máy tính điện tử hiện đại
những máy siêu tính có thể thực hiện 250 triệu đến 2.5 tỷ phép tính/s, rồi rơbốt
thơng minh, các thiết bị tự động … Đặc biệt là máy siêu tính “Cray 3” đạt 25-30 tỷ
phép tính/s. Điều này có nghĩa rằng mọi yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất của xã
hội sẽ chịu những biến đổi về chất và vì vậy tính chất của lao động, cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu sản phẩm, cơ cấu nhu cầu, tổ chức và quản lý sản xuất…sẽ có những
thay đổi căn bản. Điều này đồng nghĩa với việc lực lượng sản xuất ở các giai đoạn
trước tiếp tục được kế thừa và nâng cao, bổ sung ở những giai đoạn sau, cùng song
song, tồn tại với lực lượng sản xuất mới. Nếu nền kinh tế mà lực lượng sản xuất
hiện đại khơng phát triển thì nền kinh tế sẽ khó đứng vững thậm chí có thể tiêu
vong. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đi liền với sự phát triển lâu dài bền
vững, ổn định của từng quốc gia trong đó con người là yếu tố quan trọng, động lực
thúc đẩy lực lượng sản xuất đạt tới trình độ cao nhất. Do đó mới thấy hết ý nghĩa,

tầm quan trọng của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất còn là địn bẩy thúc đẩy
q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế một cách tồn diện.
Một trong những quốc gia Châu Á mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
của họ có thể nói là thần kỳ đó là Nhật Bản. Họ đã phát triển vượt bậc từ cách đây
nhiều năm. Sở dĩ có được điều đó cũng là do họ biết chú trọng phát triển lực lượng
sản xuất hợp lý cả yếu tố con người và tư liệu sản xuất. Sau chiến tranh thế giới thứ


2 khoảng 20 năm( 1952-1973) nền kinh tế Nhật Bản phát triển với nhịp độ nhanh
chóng trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 trên thế giới. Do Nhật Bản biết chú trọng
phát huy vai trò nhân tố con người. Người Nhật từ lâu được giáo dục theo những
luân lý của đạo Khổng. Trong thời kỳ hiện đại những đức tính cần kiệm, kiên trì,
lịng trung thành, tính phục tùng…vẫn được đề cao. Giới quản lý kinh doanh của
Nhật Bản được đánh giá là những người sắc xảo, nhạy bén trong việc nắm bắt thị
trường, đổi mới phát triển kinh doanh đem lại thắng lợi cho các công ty trên thị
trường quốc tế. Chế độ giáo dục ở Nhật Bản khá phát triển và hoàn thiện. Trong
giai đoạn này Nhật đã phổ cập giáo dục hệ 9 năm.Nói chung Nhật bản rất chú trọng
đào tạo cơng nhân lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt và sử dụng những kỹ thuật
cơng nghệ mới. Vì cơng nhân là lực lượng sản xuất chính của nền sản xuất. Bên
cạnh đó là sự tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất. Các công ty, các trường đại học cũng tham gia tích cực vào việc
nghiên cứu và đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật để đáp ứng với những trình độ
cơng nghệ tiên tiến, nhanh chóng nhập khẩu cơng nghệ, kỹ thuật, mua các phát
minh sáng chế. Nhờ đó cải tạo căn bản tài sản cố định và góp phần nâng cao năng
suất lao động xã hội. Tư liệu sản xuất của Nhật Bản được thay đổi căn bản, kèm
theo là nguồn nhân lực ở Nhật Bản đáp ứng được sự phát triển của tư liệu sản xuất.
Năm 1955 chi phí nghiên cứu phát triển của Nhật Bản chỉ là 40,1 tỷ yên (0,84% thu
nhập quốc dân) thì đến năm 1970 đã là 1.200 tỷ yên (1,96% thu nhập quốc dân).
Năm 1955 chỉ có 1.445 phịng thí nghiệm tham gia nghiên cứu khoa học - kỹ thuật
thì năm 1970 đã tăng lên đến 12.594, gấp 8 lần trong 15 năm. Năm 1970 Nhật Bản

có tới 419.000 các nhà khoa học và các chuyên gia khoa học - kỹ thuật. Song thành
công hơn cả của người Nhật vẫn là lĩnh vực khoa học ứng dụng. Bằng cách đi khôn
ngoan, chỉ hơn 20 năm sau chiến tranh, nền khoa học kỹ thuật của Nhật Bản đã có
bước phát triển nhảy vọt đưa nước Nhật trở thành một trong những nước phát triển
nhất thế giới. Đây là bài học quý giá cho các nước đi sau cần phải học hỏi đó là:


những thành tựu kinh tế mà mỗi quốc gia đạt được không thể tách rời sự phát triển
của lực lượng sản xuất.
Tóm lại, lực lượng sản xuất có vai trị hết sức quan trọng đối với sự phát triển
của nền kinh tế và đối với đời sống xã hội nói chung điều này cũng thể hiện rõ ở
Việt Nam.

PHẦN II:QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY,THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
1.Thực trạng của quá trình phát triển lực lượng sản xuất Việt Nam
Hầu hết các nước trên thế giới đều phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa
nước ta lại đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nên có rất nhiều khó
khăn đặt ra với nước ta.
a. Những thành tựu đã đạt được
Nguồn nhân lực của một quốc gia được tạo ra từ quy mô dân số mà trực tiếp là
lực lượng lao động. Năm 1945 dân số Việt Nam là 23 triệu dân đến năm 2005 thì
đã là hơn 83 triệu dân, điều này cho thấy quy mô dân số nước ta ngày càng mở
rộng, tốc độ phát triển dân số cao cũng làm cho lực lượng lao động phát triển. Dân
số đông, lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu khá trẻ: 60% lực lượng lao động đang
ở độ tuổi 15-35.
Việt Nam cũng đã từng bước phát triển về nhân lực và ứng dụng để phát triển
các tư liệu sản xuất. Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng quan tâm đến phát triển hai
vấn đề chính để phát triển lực lượng sản xuất đó là yếu tố con người và các tri thức
khoa học - công nghệ tiên tiến phục vụ cho một nền sản xuất hiện đại. Được sự

quan tâm của Đảng và Nhà nước, được sự đầu tư mạnh mẽ vào việc đẩy mạnh nâng
cao chất lượng người lao động và công cụ lao động là yếu tố rất quan trọng giúp
Việt Nam định hướng phát triển một cách đúng đắn. Việt nam đang từng bước xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội“ phát triển lực lượng sản xuất


hiện đại” cũng chính là phát triển một nền khoa học - công nghệ tiên tiến. Đầu tư
cho nghiên cứu khoa học kết hợp với việc sử dụng nguồn vốn tri thức mới nhất của
nhân loại. Đại hội X cũng đã chỉ rõ “phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công
nghệ, tập trung nghiên cứu cơ bản, định hướng ứng dụng đặc biệt những lĩnh vực
Việt Nam có nhu cầu và thế mạnh”. Việt Nam có lợi thế là có nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên, chúng ta đã phát triển từ việc xuất khẩu nguyên liệu thô rồi sau
một thời gian nghiên cứu tự chế biến sản phẩm thô trước khi xuất khẩu chúng ta đã
xuất khẩu được sản phẩm sơ chế rồi dần xuất khẩu được sản phẩm tinh chế là do
chúng ta đã đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với
cơng nghệ sẵn có nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ cơng nghệ có lợi thế
cạnh tranh, có tỉ trọng trong GDP các ngành cơng nghiệp bổ trợ, tạo việc làm cho
xã hội. Ngoài ra nước ta cũng đã phát triển những công nghệ cao, công nghệ tin học
và sinh học và công nghệ vật liệu mới, phát triển hệ thống thông tin quốc gia về
nhân lực và công nghệ. Ngày nay cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã
được thể hiện ở khoa học cơng nghệ, thành tựu cơng nghiệp hóa và sinh học mà
nước ta từng bước tiến hành. Chỉ khi lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ cao
trong tồn bộ nền kinh tế quốc dân thì mục tiêu và tính ưu việt của chủ nghiã xã hội
mới được thực hiện ngày càng tốt hơn trong thực tế.
b. Những hạn chế còn tồn tại.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được là những khó khăn kèm theo. Thực tế
hiện nay ở nước ta cịn nhiều những nhân tố kìm hãm sự phát triển lực lượng sản
xuất. Đó là tình hình nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay cịn rất yếu kém so với các
nước. Quy mô dân số ngày càng mở rộng, lực lượng lao động cũng nhiều nhưng
lực lượng lao động được đào tạo cịn ít, cịn lãng phí chất xám, tỷ lệ người thất

nghiệp cao, năng suất và hiệu quả kinh tế thấp ở chỗ: trên 8% người lao động
không biết chữ, ở thành thị tỷ lệ lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật là trên
44 %, ở nông thôn là 12 %. Giáo dục - đào tạo còn thấp kém, thiếu cán bộ khoa học


công nghệ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ. Nước ta có trên 1,3 triệu cán bộ khoa
học cơng nghệ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học. Bình qn có hơn
10.000 cán bộ khoa học cơng nghệ trên 1 triệu dân, quá thấp so với các nước khác.
Ví dụ như ở Singapo tỷ lệ này là 16.000 cán bộ khoa học công nghệ trên 1 triệu
dân, Hàn Quốc thì tỷ lệ là 52.000, Nhật Bản là 700.000. Hơn thế nữa lao động ở
nơng thơn lại có xu hướng di cư đến những thành phố lớn để kiếm việc làm, làm
cho tỷ lệ thất nghiệp càng cao, không có cơng ăn việc làm ổn định ảnh hưởng đến
đời sống của người lao động kèm theo phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. Tình hình
tham nhũng xảy ra ở mọi cấp, ngành ảnh hưởng đến niềm tin của người lao động
vào sự công bằng xã hội, vào đội ngũ đứng trên chỉ đạo họ. Tiếp đó là hiện tại nước
ta đang ở trong tình trạng kế thừa những lực lượng sản xuất vừa nhỏ nhoi vừa lạc
hậu so với trình độ chung của thế giới, hơn nữa trong một thời gian khá dài, những
lực lượng ấy bị kìm hãm, phát huy tác dụng kém. Thực tế hiện nay trong những
ngành sản xuất công cụ thủ công vẫn đang là chủ yếu, lao động cơ bắp nặng nhọc
của con người đang chiếm một tỷ lệ rất đáng kể. Chúng ta vẫn đang loay hoay với
nhiệm vụ cơ khí hóa và thật khó xác định bao giờ sẽ hồn thành về cơ bản. Cần
khẳng định một vấn đề có tính quy luật là trong lịch sử bao giờ cũng có sự đan xen
của những trình độ phát triển khác nhau trong từng yếu tố cấu thành của lực lượng
sản xuất. Bởi vậy mà có thực tế song song với tình trạng lạc hậu đó, trong một
phạm vi hẹp nhất định, chúng ta cũng đã bắt đầu thực hiện việc tự động hóa, những
cơng cụ điều khiển tự động nhưng nó chỉ giới hạn trong một phạm vi hẹp mà thôi.
Ngành sản xuất công cụ thủ công vẫn là chủ yếu, lao động cơ bắp nặng nhọc vẫn
đang chiếm tỷ lệ đáng kể kèm theo đó là tình hình lạm pháp ở nước ta ngày càng
cao ảnh hưởng mọi mặt của đất nước, đời sống người lao động thì càng khó khăn,
giá cả tăng cao làm cho nhiều cơng ty, xí nghiệp bị phá sản nhiều cơng trình bị

ngưng lại vì khơng đủ phương tiện máy móc để tiếp tục thi cơng. Cũng một phần là
do khơng có tiền đề cơ sở vật chất kỹ thuật do chủ nghĩa tư bản tạo ra. Vì vậy rất


cần có các biện pháp để phát triển tồn diện lực lượng sản xuất ở Việt Nam để ổn
định đời sống ổn định xã hội.

2. Giải pháp phát triển lực lượng sản xuất hiện nay
Để phát triển lực lượng sản xuất hiện nay Đảng và Nhà nước ta phải chú trọng
phát triển cả nhân tố con người và phát triển công cụ lao động của chúng ta“ phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại” đồng thời phải phù hợp với quan hệ sản xuất là
mục tiêu của Đảng ta thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo LêNin thì nền sản
xuất cơ khí ở trình độ hiện đại được áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kể
cả nơng nghiệp. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản
xuất gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả 3 mặt : sở hữu, quản lý
và phân phối. Như vậy ngay trong những chính sách lớn thì sự phát triển lực lượng
sản xuất đã được chú ý và quan tâm hơn.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khi đất nước ta
chưa có tiền đề về cơ sở vật chất - kinh tế của chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản
tạo ra, do đó phát triển lực lượng sản xuất nói chung, cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
nói riêng là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ q độ. Nó có tính chất quyết định
đối với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mục tiêu và phương hướng là
nâng cao năng lực lao động và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh tồn
dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi
nguồn lực. Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ cơng bằng văn minh, tăng cường
quốc phòng an ninh mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội, sớm đưa nước ta khỏi tình trạng kém
phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công

nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu cụ thể trên thì sự quan tâm phát
triển lực lượng sản xuất có ý nghĩa đặc biệt. Phát triển lực lượng sản xuất thì phải


chú tâm vào phát triển nguồn nhân lực và công cụ sản xuất phải được đổi mới.
Nhiệm vụ quan trọng đầu tiên là nguồn lực con người – lực lượng sản xuất cơ bản
của đất nước, yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Phải đào tạo đội ngũ lao động
có khả năng sáng tạo, tiếp thu, sử dụng, quản lý có hiệu quả các thành tựu khoa
học. Phát triển nguồn nhân lực phải phát triển cả về số lượng và chất lượng, nâng
cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực chất lượng gồm cả thể lực, trí lực và nhân
cách. Phát triển ngồn nhân lực là nguồn gốc và động lực thúc đẩy sự phát triển của
toàn xã hội. Chúng ta cần bố trí lại lực lượng lao động trên phạm vi cả nước theo
nguyên tắc:
Thứ nhất là căn cứ vào khả năng và yêu cầu phát triển của từng ngành, từng vùng
và quy hoạch phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội chung của cả nước. Đảm bảo việc
đổi mới công nghệ truyền thống, tranh thủ ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản
xuất, tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời tạo nhiều công cụ việc làm
cho người lao động và khai thác tốt lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng và cả
nước để tham gia tốt vào công việc phân công hợp tác trong nước và quốc tế.
Thứ hai là đổi mới triệt để hệ thống giáo dục – đào tạo. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đã nêu rõ phải triển khai,
kết hợp chặt chẽ và đồng bộ các q trình, đa dạng hóa, kế hoạch hóa, xã hội hóa
và tiêu chuẩn hóa giáo dục - đào tạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Giáo dục đào tạo phải trở thành “quốc sách hàng đầu”, ngân sách chi cho giáo dục - đào tạo
không thể dưới 20% tổng chi ngân sách mỗi năm. Tiếp theo là xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo quản lý giáo dục đào tạo tốt về đạo đức, giỏi về chun mơn. Có
thế mới có đội ngũ nhân lực sử dụng thành thạo các thành tựu khoa học mới ứng
dụng trong sản xuất. Kèm theo đó là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản
lý của Nhà nước với giáo dục- đào tạo, giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba là đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ, tạo lập thị trường cho phát
triển khoa học công nghệ. Tổ chức lại mạng lưới nghiên cứu và lực lượng nghiên



cứu khoa học cho phù hợp. Từ nay đến năm 2010 nhà nước ta cần phải chi cho
nghiên cứu khoa học - công nghệ không thể thấp hơn 5% tổng chi ngân sách mỗi
năm. Thực hiện kế hoạch hóa, đa dạng hóa, xã hội hóa sự phát triển khoa học công
nghệ, ứng dụng chúng vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Mặc dù các thế hệ đi sau không được quyền tự do và tùy ý lựa chọn lực lượng
sản xuất mà là kế thừa những lực lượng sản xuất đã có, nhưng thế hệ đi sau có trách
nhiệm phải cải tiến nâng cao chúng và nhất là phải tạo ra được những công cụ sản
xuất mới, mở rộng đối tượng lao động, đào tạo con người có năng lực tương xứng
sử dụng chúng nếu muốn thúc đẩy xã hội tiến nhanh hơn. Đại hội lần VI của Đảng
cũng đặt ra nhiệm vụ là phải tìm cách giải phóng mọi năng lực của lượng sản xuất
hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự
giúp đỡ của quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Về khách quan rõ ràng là cần có sự phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất
cần có bước nhảy vọt cách mạng trong lĩnh vực này. Nhưng cũng có những điều
kiện khách quan địi hỏi phải có sự tiến hố, sử dụng những tư liệu, những cơng cụ
thích hợp, thơng dụng, chuẩn bị điều kiện cần thiết cho việc nắm vững những công
nghệ tiên tiến nhất những công cụ lao động hiện đại nhất. Không nên khẳng định
bằng một mệnh đề là chúng ta đi thẳng vào cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại,
do đó phải phát triển lực lượng sản xuất ở trình độ hiện đại nhất của thế giới. Trên
quy mơ tồn xã hội thì khơng thể đi ngay vào trình độ cao nhất và hiện đại nhất,
nhưng trong từng lĩnh vực riêng biệt, cụ thể, ở một công đoạn, một xí nghiệp, hoặc
một ngành nào đó có thể và cần làm như vậy để tạo nên sức mạnh cho toàn bộ nền
sản xuất .
Đẩy mạnh giải quyết việc làm cho người lao động bằng cách tổ chức, quản lý,
điều chỉnh hoạt động thuê lao động hợp lý, đào tạo, bồi dưỡng lại cơng cụ lao động
hiện có, đào tạo nguồn nhân lực mới có chun mơn nghề nghiệp nhất định và tổ
chức lại thị trường lao động. Bên cạnh đó Nhà nước cần đầu tư vốn vào vùng kinh



tế trọng điểm và những chính sách khuyến khích thành phần kinh tế, các tổ chức xã
hội và cá nhân bỏ vốn vào kinh doanh thu hút lực lượng lao động, thay đổi công cụ
lao động đổi mới công nghệ nâng cao năng suất lao động.
Và còn nhiệm vụ rất quan trọng nữa là tăng cường đấu tranh chống tham nhũng.
Cần có bộ máy chống tham nhũng ở ba cấp : trung ương, tỉnh - thành phố, huyện quận và các tòa án xử tội tham nhũng và đội đặc nhiệm chống tham nhũng ở ba
cấp. Vì cịn tham nhũng thì sẽ làm ngân sách Nhà nước bị thâm hụt, khơng cịn
nhiều kinh phí chi cho các hoạt động phát triển sản xuất, và phát triển đời sống cho
người lao động. Làm được điều đó cần có cơ chế phịng và chống tham nhũng bằng
cách chú ý đến đào tạo, tuyển chọn, sử dụng và đề bạt cán bộ, ban hành thực hiện
chế độ cơng khai tài chính ở các cơ quan, tăng cường giáo dục rèn luyện cán bộ có
chức quyền một cách nghiêm khắc từ trên xuống dưới.
Tóm lại Đảng và Nhà nước ta có những quan điểm để phát triển lực lượng sản
xuất một cách toàn diện trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó phát triển lực lượng sản xuất là yếu tố trọng
tâm để xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, một chế độ xã hội đem lại công bằng
hạnh phúc cho mọi người.


KẾT LUẬN
Quá trình con người sản xuất vật chất cũng chính là q trình phát triển của con
người. Tự nhiên không làm thỏa mãn nhu cầu của con người ngày càng tăng về cả
đời sống vật chất và tinh thần. Và để đáp ứng được điều này chỉ có cách là phát
triển lực lượng sản xuất. Vì lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy mọi hoạt động
của xã hội phát triển. Dù còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của toàn
xã hội nhưng lực lượng sản xuất vẫn giữ vai trò cơ bản và then chốt nhất. Phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại là nền tảng cho sự phát triển xã hội, tạo cơ sở quyết
định để vươn tới một xã hội mới tốt đẹp nhất - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cho dù
nhìn dưới góc độ nào đi chăng nữa thì vai trò của lực lượng sản xuất với sự phát
triển của xã hội cũng luôn được khẳng định. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
rất gian nan, khó khăn và lâu dài, song với những chính sách, chủ trương đúng đắn

của Đảng và Nhà nước, trong đó có chính sách phát triển lực lượng sản xuất, tất
yếu tin tưởng rằng cùng với sự đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, tồn qn thì sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chắc chắn thành công.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác-Lênin. NXB Chính trị Quốc gia.
2. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin. NXB Chính trị Quốc gia.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X NXB Chính trị Quốc gia.
4. 1 số vấn đề về Triết Học – Con Người - Xã Hội. NXB Khoa Học Xã Hội.
5. Những chuyên đề Triết học. NXB Khoa Học Xã Hội.
6. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. NXB Sự thật.
7. V.I.Lênin: Toàn tập. NXB Tiến bộ, Maxcơva, 1977.


MỤC LỤC
Mở đầu

1

Phần 1. Lực lượng sản xất và vai trò của lực lượng sản xuất trong
đời sống xã hội
1. Một số vấn đề chung về lực lượng sản xuất

2

a. Khái niệm và tính chất của lực lượng sản xuất

2


b. Các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất

2

2. Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội

6

a. Vai trò của lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất

6

b. Vai trò của lực lượng sản xuất đối với kinh tế và đời sống xã hội

7

Phần 2. quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay,
thực trạng và giải pháp 11
1. Thực trạng của quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam

11

a. Những thành tựu đã đạt được

11

b. Những hạn chế còn tồn tại

12


2. Giải pháp để phát triển lực lượng sản xuất hiện nay

13

Kết luận

18

Tài liệu tham khảo

19



×