Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Văn mẫu lớp 10 – kết nối tri thức mẫu (25)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.99 KB, 22 trang )

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín
Đề bài: Viết bài văn phân tích bài thơ Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử)
Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (mẫu 1)
Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng lẻ, lạ mắt. Ông để lại cho đời
nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ
“Mùa xuân chín” là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của thi sĩ.
Tựa đề bài thơ đầy ấn tượng” Mùa xuân chín”, ta nghe như có sự mềm mại, hương
thoang thoảng của vị xuân rộn rực nhưng ko kém phần thắm thiết, ý tứ chất chồng
những tầng sâu ý nghĩa khiến ta tị mị muốn khám phá, thơi thúc ta đi sâu vào nội
dung tác phẩm để khám phá nét “chín” của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử ra sao.
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đơi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý bóng xn sang”
Bức tranh mùa xn chốn thơn q thật thanh bình, duyên dáng mà đằm thắm yêu
thương. Trong làn nắng nhẹ của của bầu trời, làn khói xa như tan đi, tạo nên vẻ đẹp
như mơ như thực, không quá chi tiết, chỉ đôi nét chấm phá nhưng khiến ta không khỏi
xuyến xao trước khung trời đầy yên bình lúc này.
Trên những mái nhà tranh nơi quê nghèo lấm tấm màu hoa thiên lý điểm tơ, cơn gió
nhẹ đung đưa những chiếc lá xanh biếc tạo nên thứ âm thanh lạ lùng” sột soạt”, tất cả
đều quá đỗi nhẹ nhàng mà thân thương. Mùa xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn
thiên lý báo xuân về, mùa xuân đến, cây cỏ, thiên nhiên, đất trời, và lòng người như
hồ quyện lấy nhau:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;”
Vạn vật mang sức xuân, làn mưa xuân tưới thêm cho cỏ cây sức sống mới đầy xanh
tươi “gợn tới trời” như đang đùa giỡn với nắng, với gió với mây. Tiếng hát đón xn
của bao cơ gái thơn q đầy tình tứ, mùa xuân đến khiến ai cũng vui tươi, phấn khởi,
tâm hồn đầy trẻ trung, yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:



“Ngày mai trong đám xuân xanh đó
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”
Thú vui xuân hoà cùng niềm vui của hạnh phúc lứa đôi, thế là ngày mai trong đám cơ
thơn nữ ấy, có người đi lấy chồng bỏ lại sau lưng những cuộc vui, có chút gì đó tiếc
nuối đan xen trong niềm vui ấy. Mùa xuân điểm tô cho đời, kết nên quả ngọt cho tình
yêu, mùa của niềm hạnh phúc tràn đầy.
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với người nào ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…”
Niềm yêu đời họa trong lời hát thơ ngây, trong sáng, tinh nghịch “tiếng ca vắt vẻo”
trên lưng núi, hoà vào cảnh vật, âm vang mãi. Những âm thanh như đang chuyển động
theo nhịp thời gian, “hổn hển” “thì thầm” với nhau đầy ý vị, thân thương. Tiếng thơ
nghe sao khiến người bâng khuâng, xao xuyến đến lạ kỳ.
“Khách xa gặp lúc mùa xn chín
Lịng trí bâng khng sực nhớ làng
Chị đó năm nay cịn gánh thóc
Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang”
Nếu ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây tươi xanh thì đây chính là hình ảnh đối lập khi
xn chín, xn đã khơng cịn thơ mộng như khi vừa sang nữa, nó mang màu của nỗi
tiếc nuối ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thơn q: “Dọc bờ sông trắng nắng
chang chang”. “mang” cuối bài làm cho câu thơ mang tâm trạng mênh mang khó tả,
như nỗi lịng thì nhân đang băn khoăn, trĩu nặng xót xa về thân phận người con gái:
“Chị đó năm nay cịn gánh thóc
Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang”
Nếu ngày xưa khi đang tuổi xn thì, nhịp xn sang cùng lịng bao cô gái ngân nga
lời ca, tiếng hát chào mừng thì giờ đây khi xn chín, xa rời xn xanh năm nào, “chị
ấy” giờ trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan. Trách nhiệm cuộc sống và
công việc của người mẹ, người vợ thêm nặng, song, dù vất vả, nhọc nhằn vẫn ánh lên
nét đẹp rạng ngời.

Bài thơ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ dù giản dị nhưng được nhà thơ chọn lọc rất tinh tế.
Mỗi tiếng thơ thốt lên là cả một bầu trời thương yêu vừa mang nỗi thương cảm vừa


mang nỗi nhớ mênh mang chốn quê nhà vất vả, gian nan. Với ngơn ngữ kết tinh cùng
tấm lịng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một “mùa xn chín” vẹn
trịn, đầy đặn, thiết tha.
Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (mẫu 2)
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ cất lên
từ sự hủy diệt để hướng về sự sống”. Quả đúng là như vậy đọc thơ Hàn Mặc Tử ta
ln thấy một tấm lịng khao khát u đời, khao khát sống. Một trong số đó là bài thơ
“Mùa xuân chín”. Bài thơ được rút trong tập “Đau thương” (1938) – được coi là
“tiếng thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo song cũng đầy bí
ẩn, đau thương.
“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với bạn đọc bởi chính nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ
của Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, đượm buồn và đau
thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa
xuân chín” lại mang đến một cảm giác hồn tồn mới lạ, một khơng gian tràn đầy sức
sống của cảnh xn và tình xn. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây
khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó,
Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên
mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa
sống nhất.
Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt. Về thời gian, tác
giả đang say đắm trong thời khắc hiện tại với cảnh xuân tươi đẹp phô bày trước mắt,
bỗng sực nhớ về quá khứ xa căm với khung cảnh làng quê thân thương. Về cảnh sắc,
bức tranh xuân đang từ ngoại cảnh (mái nhà tranh, giàn thiên lí, sóng cỏ xanh tươi,...)
thoắt biến thành tâm cảnh ( người con gái dánh thóc dọc bờ sông trắng). Về cảm xúc,
Hàn Mặc Tử đã bày tỏ dòng tâm tư của bản thân với nhiều bước ngoặt: từ niềm say
mê, rạo rực đến trạng thái bâng khuâng, xao xuyến rồi buồn thương da diết. Có thể

thấy, mạch thơ không đi theo một chiều mà luôn vận động vơ cùng linh hoạt, phong
phú. Đó chính là phong cách thơ độc đáo của chàng thi sĩ họ Hàn.
Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc
xuân:


“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đơi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.
Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói
mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói
sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng
của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đơi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong
khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà
áo biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng thật tài tình. “Sột
soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang
trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến khơng khí mùa xn trở nên sơi động,
vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn
thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là
khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xn sang”. Mùa xn được hữu hình
hố, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể
đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc
xuân tươi đẹp ấy.
Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Khơng
gian mùa xn được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết
hợp với thảm có xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau,
trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta
nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non
xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt

trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một
sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống
cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân
chín”!
Từ cảnh thu, Hàn Mạc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với
bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một


cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hồ cùng với khơng khí tươi
vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi
-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ
tươi đẹp, rực rỡ như mùa xn của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cơ thơn
nữ hồ trong khơng khí mùa xn chính là tình xn. Cái ửng của nắng phải chăng
chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của
họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xn chín”
khơng chỉ là tiết trời xn mà cịn là tình xn. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết
quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng
ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình
hồ trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con
người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời
mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng
núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp khơng gian. Xn tình từ thiên nhiên lây
lan, giao ứng với xn tình trong lịng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một
tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây.
Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên
đang cất lên qua lời hát của con người.

Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm
thì nhỏ bé:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mạc Tử. Đại từ “ai”
xuất hiện như “bóng ai đậu bến sơng trăng đó” (Đây thơn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng
ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người
thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con


người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lịng mình. Tuy nhiên,
câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân
chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám
xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người
thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng
khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết
thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung
của mình:
“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
-Chị ấy, năm nay cịn gánh thóc
Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang”.
Trước “mùa xn chín”, lịng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân
thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên
lý. Đó là một khơng gian làng q mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình.
Và trong khơng gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi
nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình
thường nơi thơn q của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc
cũng có thể là cơ người u của thi nhân. Thế nhưng, dù hiểu theo cách nào, ta cũng
thấy một niềm yêu quý và trân trọng của tác giả đối với “chị”. Người con gái xuất

hiện trong nét đẹp lao động với tư thế gánh thóc, hồ cùng ánh nắng vàng bên bờ sông
trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao! Ta có thể thấy ánh
nắng xuân lúc này càng trở nên long lanh, lấp lánh hơn trong dòng hồi tưởng của
người khách xa quê.
Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hồ của sắc xn, tình
xn. Khơng chỉ mùa xn chín mà lịng người cũng “chín” với khát khao giao cảm
với cuộc đời, “chín” với tình u và nỗi nhớ. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự
độc đáo của “Mùa xn chín” cũng như ngịi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự
kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử
có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất
phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ,


ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật.
Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể
thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử.
Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng
trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó
là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ
mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngịi
bút của Hàn Mạc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết
hợp từ ngữ mới: mùa xn chín, bóng xn sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo,
nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt
thường đã được nhà thơ hữu hình hố một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ
mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hồ cùng với dịng phát
triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng - tinh
tế, độc đáo và mới lạ.
Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc
được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh
xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xn chín” trong lịng người.

“Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương.
Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp
và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở
thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân
văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.
Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (mẫu 3)
Hàn Mặc Tử là một thi sĩ có phong cách thơ rất riêng biệt, độc đáo. Ông để lại cho đời
nhiều tập thơ nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên hay Chơi Giữa Mùa Trăng. Bài thơ
"Mùa xuân chín" là một bài thơ tiêu biểu, góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ.
Tựa đề bài thơ đầy ấn tượng" Mùa xn chín", ta nghe như có sự mềm mại, hương
thoang thoảng của vị xuân rạo rực mà không kém phần đằm thắm, ý tứ chất chồng
những tầng sâu ý nghĩa khiến ta tị mị muốn khám phá, thơi thúc ta đi sâu vào nội dung
tác phẩm để khám phá nét "chín" của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử ra sao.


"Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đơi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý bóng xn sang"
Bức tranh mùa xn chốn thơn quê thật thanh bình, duyên dáng mà đằm thắm yêu
thương. Trong làn nắng nhẹ của của bầu trời, làn khói xa như tan đi, tạo nên vẻ đẹp như
mơ như thực, không quá chi tiết, chỉ đôi nét chấm phá nhưng khiến ta không khỏi xuyến
xao trước khung trời đầy yên bình lúc này. Trên những mái nhà tranh nơi quê nghèo
lấm tấm màu hoa thiên lý điểm tô, cơn gió nhẹ đung đưa những chiếc lá xanh biếc tạo
nên thứ âm thanh lạ lùng" sột soạt", tất cả đều quá đỗi nhẹ nhàng mà thân thương. Mùa
xuân đang len lỏi vào cảnh vật, trên giàn thiên lý báo xuân về, mùa xuân đến, cây cỏ,
thiên nhiên, đất trời, và lịng người như hồ quyện lấy nhau:
"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;"
Vạn vật mang sức xuân, làn mưa xuân tưới thêm cho cỏ cây sức sống mới đầy xanh

tươi "gợn tới trời" như đang đùa giỡn với nắng, với gió với mây. Tiếng hát đón xn
của bao cơ gái thơn q đầy tình tứ, mùa xuân đến khiến ai cũng vui tươi, phấn khởi,
tâm hồn đầy trẻ trung, yêu đời. Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:
"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi."
Niềm vui xn hồ cùng niềm vui của hạnh phúc lứa đôi, thế là ngày mai trong đám cơ
thơn nữ ấy, có người đi lấy chồng bỏ lại sau lưng những cuộc vui, có chút gì đó tiếc
nuối đan xen trong niềm vui ấy. Mùa xuân điểm tô cho đời, kết nên quả ngọt cho tình
yêu, mùa của niềm hạnh phúc tràn đầy.
"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây..."
Niềm yêu đời họa trong lời hát thơ ngây, trong sáng, tinh nghịch "tiếng ca vắt vẻo" trên
lưng núi, hoà vào cảnh vật, âm vang mãi. Những âm thanh như đang chuyển động theo
nhịp thời gian, "hổn hển" "thì thầm" với nhau đầy ý vị, thân thương. Tiếng thơ nghe sao
khiến người bâng khuâng, xao xuyến đến lạ kỳ.
"Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng


Chị ấy năm nay cịn gánh thóc
Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang"
Nếu ở khổ thơ đầu là hình ảnh cỏ cây tươi xanh thì đây chính là hình ảnh đối lập khi
xn chín, xn đã khơng cịn thơ mộng như khi vừa sang nữa, nó mang màu của nỗi
tiếc nuối ngậm ngùi, mang màu của nắng gió thơn q: "Dọc bờ sông trắng nắng chang
chang". m "ang" cuối bài làm cho câu thơ mang tâm trạng mênh mang khó tả, như nỗi
lịng thì nhân đang băn khoăn, trĩu nặng xót xa về thân phận người con gái:
"Chị ấy năm nay cịn gánh thóc
Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang"

Nếu ngày xưa khi đang tuổi xuân thì, nhịp xuân sang cùng lịng bao cơ gái ngân nga lời
ca, tiếng hát chào mừng thì giờ đây khi xn chín, xa rời xuân xanh năm nào, "chị ấy"
giờ trở thành một người phụ nữ với bao nỗi lo toan. Trách nhiệm cuộc sống và công
việc của người mẹ, người vợ thêm nặng, song, dù vất vả, nhọc nhằn vẫn ánh lên nét đẹp
rạng ngời.
Bài thơ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ dù giản dị nhưng được nhà thơ chọn lọc rất tinh tế.
Mỗi tiếng thơ thốt lên là cả một bầu trời thương yêu vừa mang nỗi thương cảm vừa
mang nỗi nhớ mênh mang chốn quê nhà vất vả, gian nan. Với ngôn ngữ kết tinh cùng
tấm lòng hồn hậu của thi nhân, Hàn Mạc Tử đã viết nên một "mùa xuân chín" vẹn trịn,
đầy đặn, thiết tha.
Phân tích bài thơ Mùa xn chín (mẫu 4)
Khơng biết mùa xn có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra
đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu
thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hơm qua, hơm nay và
ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hơm qua đã
có Hàn Mặc Tử với "Mùa xuân chín" khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến
độ tràn đầy.
Nói đến mùa xuân, có ai khơng hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của
cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là "mùa xuân nho nhỏ", lúc là "mùa
xuân xanh"… và đây "Mùa xuân chín" nghe vừa mới, vừa sơi nổi, vừa có một sức sống
dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn
Hàn Mạc Tử.
Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa
xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:


"Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đơi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xn sang".

Đúng là nắng xn, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng mà là "làn
nắng". Chữ "làn" như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải
đều trong thơ và trong khơng gian. Làn nắng lại "ửng" lên trong "khói mơ tan". Cảnh
sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái "ửng" của
nắng được tơn lên trong làn khói mơ màng đang "tan" ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng đến
một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình chan chứa. Trân trọng
đón lấy cái nắng mới tinh khiết ấy là "Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng'!. Sự hô ứng
trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy thơ mộng. Vài
nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế gợi cảm, dung dị mà đáng u. Chỉ có "đơi mái nhà
tranh" hiện lên trong "làn nắng ửng" nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động,
dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên "đôi mái nhà
tranh" chút sắc xuân và hương xuân: "Sột soạt gió trêu tà áo biếc". Cái âm thanh của
gió "trêu" tà áo và cái gam màu "biếc" của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ "trêu" đáng
yêu quá, thân thương q, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao,
hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lịng ta… Gió cũng chọn áo mà "trêu",
phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, "chín" là như thế!
Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: "Trên giàn thiên lý.
Bóng xuân sang". Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng
khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang", cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình
vào dấu chấm giữa dịng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên
lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước… như có thể cầm được, có thể ngắm
được ngay trước mắt mỗi chúng ta.
Sau dấu chấm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà
thơ thì mùa xn ào đến:
"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi".
Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong khơng gian mênh mơng, bao la. Hình ảnh ẩn dụ "sóng
cỏ" và ba chữ "gợn tới trời" gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xn nhè nhẹ thổi.
Chẳng biết ngồi kia là sóng cỏ thật , hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành "sóng"
như thế ? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. "Cỏ xanh như khói bến xuân

tươi" (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). "Cỏ non xanh tận chân trời"
(Nguyễn Du)… Gam màu "xanh tươi" đầy sức sống yên bình ấy trong thơ Hàn Mặc Tử
cứ gợn tới trời", trải dài mãi như không dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân


ấy, tình cảm con người cũng đến độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu
thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội
mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói đến qua tiếng hát "vắt vẻo" và "thơ
ngây" của những nàng xuân, của bao cơ thơn nữ. Câu thơ gợi lên cái "chín" trong hồn
bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo", trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của
trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha
của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Mùa xn mới thực sự
"chín" khi có con người và có dư âm tiếng hát:
"Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây".
Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, "vắt vẻo" hòa nhịp với âm trầm
"hổn hển" thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã
hịa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy.
Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa "lưng chừng núi". Dư
âm tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo" gợi lên nhiều xao xuyến bâng
khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát "hổn hển" được so sánh "với lời của nước mây",
lời của thiên nhiên. Hai tiếng "hổn hển" như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương
xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cơ thơn nữ sao mà
đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả khơng gian, góp phần làm nên một
"mùa xn chín". Và cịn có tiếng thầm thì "thầm thì với ai…" dưới bóng trúc, hẳn là
tâm sự, là thân thương rồi. "Vắt vẻo”, "hổn hển", "thầm thì" là ba cung bậc của ba âm
thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa
thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say

mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: "Nghe ra ý vị và thơ
ngây…".
Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân
"đang chín" dần trong lịng thơn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:
"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi".
"Đám xuân xanh ấy" là các cô thôn nữ đang hát, đang "thầm thì với ai ngồi dưới trúc"
kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ "theo chồng bỏ cuộc chơi… Thiên nhiên và lịng người
như quyến luyến mùa xn dần trơi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử
như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lịng


khi mùa xuân đang chín… "Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non
nghĩa là xuân sẽ già" (Xuân Diệu).
Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân:
"Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…". Một nét bút truyền thống cổ điển "xuân hướng
lão" xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đậm đà hơn.
Gặp lúc mùa xn chín ấy mà thổn thức:
"Lịng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang".
Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà
thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ
đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: "gánh thóc" trong một khơng gian cụ
thể: "Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang". Chỉ có "chị ấy" là người đọc khơng thể
biết mà chỉ có tác giả mới biết để mà "sực nhớ", mà thầm hỏi. Mà man mác sợ "mùa
xn chín" ấy sẽ trơi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử
khao khát giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm cơ đơn, trống vắng, hẫng hụt như
thế.
"Mùa xuân chín" là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong

sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên
nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hịa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện
lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn
nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng,
yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên
"sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
"Mùa xn chín" lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có
lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bồi hồi, "sực
nhớ… " và "bâng khuâng". Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình
thương mến, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng
quê thân thuộc nơi miền Trung "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"…
Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (mẫu 5)
Hàn Mặc Tử: là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn và cũng là người tiên phong
của dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận
định: “Trước khơng có ai, sau khơng có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt
qua bầu trời Việt Nam với cái đi chói lịa rực rỡ của mình”.


Thật vậy, trong làng Thơ mới, Hàn Mặc Tử là thi sĩ có diện mạo thơ vơ cùng phong
phú, sáng tạo và đầy bí ẩn. Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực là một
giọng thơ trữ tình, đằm thắm, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, khao khát tình
người đến cháy bỏng. Bài thơ “Mùa xuân chín” là một trong những bài thơ tiêu biểu
cho giọng thơ ấy.
Hàn Mặc Tử, với cuộc đời ngắn ngủi, tâm hổn đa cảm, mong manh đã để lại cho đời
những bài thơ rất đặc sắc. “Mùa xuân chín” là một trong số đó. Trong khơng gian của
buổi giao mùạ, một góc tâm tình của tác giả: Nhớ làng, nhớ q… và một cái gì đó rất
mơ hồ, gợi trong lịng ta biết bao suy nghĩ. “Mùa xn chín” một khoảng trời riêng
của cảm xúc đang “chín” trong lịng nhà thơ, trong lòng người đọc.
Đọc tựa bài, ta hầu như đã cảm nhận được cái “ngon lành”, cái đỉnh cao tận cùng của
“Mùa xn chín”. Nếu có “xn chín” thì hẳn cũng có “xuân xanh” ; “xuân già”. Nằm

giữa ranh giới của cái “non trẻ”, cái “già nua”, “Mùa xuân chín” trở nên giá trị nhưng
cũng ngắn ngủi, mong manh vơ cùng. Để lịng say đắm trong giây phút hồn hảo nhất
của vũ trụ ấy thì cịn gì bằng!
Trong tan nắng ửng: khói mơ tan,
Đơi mái nhà tranh lẫm tấm vàng.
“Nắng ửng”. Từ “ửng” mang một ý nghĩa đặc biệt. Ta có thể liên tưởng đến ngay cái
“chín ửng” của quả đào, quả hồng, cái “ưng ửng” hây hây của đôi má các cô gái trong
tiết lạnh đầu xuân. Cũng như vậy, xuân đang “chín” lên trong cái “ửng” của nắng.
Dấu hai chấm sau đó nhắc nhở ta cái gì sẽ hiện nhiên xẩy ra như quả chín thì chuyển
từ xanh sang hồng. Những làn khói sương tan trong nắng, lượn lờ, bồng bềnh nâng
tâm hồn thi sĩ lên khỏi mặt đất, khỏi thực tại, bước vào cõi “mơ”. “Đôi mùi nhả tranh
lẫm tấm vàng”.
Những “lấm tấm vàng” đó là hạt nắng hay chính là những ảo ảnh trong đơi mắt của
người đang say Không phải cái say “quên trời, quên đất”, cái say của nhà thơ là những
phút giây đắm chìm, mê mải, chăm chú, cả âm thanh, cả hình ảnh, màu sắc cũng hịa
làm một: khói tan, mái nhà lấm tấm vàng, gió sột soạt tà áo, giàn thiên lí.
Đó là “bóng xn”. Chỉ là “bóng”, rất mơ hồ, huyền ảo, mùa xuân cô gái đẹp, đẹp như
trong mơ, đẹp như quả chín, đẹp hồn hảo lướt qua trong tâm hồn nhà thơ.


“Bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Tiếng hát của những cô gái đánh thức Hàn Mặc Tử,
đưa nhà thơ trở lại với thực tại. Toàn khổ thơ là tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi:
“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bị cuộc chơi…”
Nhà thơ nghĩ đến ngày mai đây, cảnh vật, con người sẽ đỗi khác, những cơ gái sẽ
khơng cịn những giây phút hồn nhiên, vô tư ca hát với mùa xuân, cũng như xn rồi
cũng sẻ qua, “xn chín” rồi thì xn sẽ tàn. Tâm hồn đa cảm ấy, không thể không
rung lên xúc động.
“Đám xuân xanh ấy” Mùa xuân tươi đẹp của đời người, cũng là mùa xuân tươi đẹp
của thiên nhiên mà thi sĩ vẽ ra trước mắt người đọc làm ta khơng khỏi suy tư. Thế thì
ta hãy tận hưởng cho hết những giờ khắc tuyệt vời ấy.

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi ,
Hổn hển như lời của nước máy…
Thầm thi với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Trí tưởng tượng của tác giả đã lên đến tột độ, tiếng hát thánh thót như đang “vắt vẻo
lưng chừng núi”, đang “hổn hển như lời của nước máy”. Những âm thanh không bay
cao, bay xa mà vẫn “thầm thì với ai ngồi dưới trúc”.
Từ “ai” rối rắm nghịch lý ấy cho ta thấy những cảm xúc vô cùng tinh tế trong tâm hồn
thi sĩ. Tiếng hát bay khắp không gian, thi sĩ “thu”lại chỉ riêng cho “ai”. Chính là mình
rồi tự thốt lên: “Nghe ra ý vị và thơ ngây” Có mấy ai cảm nhận hết cả đất trời như
vậy!
Nghĩ đến đất trời, về những cuộc đổi thay, về mùa xuân, tác giả lại nghĩ về mình Khác
xa gặp lúc mùa xn chín. Thì ra mình chỉ là một người tha phương, lẻ loi, cô độc gặp
“Mùa xn chín” mới có được giây phút ấm lịng. Hàn Mặc Tử nhớ về làng xưa trí
bâng khuâng sực nhớ làng”.
Cái “sực nhớ” bất ngờ, dồn dập, tên tác giả, cái têu mà cha mẹ anh em vẫn gọi đối với
Hàn Mặc Tử thân thương biết mấy, gần gũi biết mấy. Ngẫu nhiên, đó cũng là một từ
rất phú hợp với nỗi nhớ của tác giả. Nhớ về quê xưa, hình ảnh đầu tiên đến với cái
“sực nhớ” của tác giả là hình ảnh của người con gái. “Chị ấy” là chị ruột, chị họ hàng
hay chí là một người quen hay là…?
Ta không thể biết được. Nhưng ta hiểu được rằng tác giả đã dành sẵn một tình cảm rất
trân trọng, rất tha thiết cho người con gái ấy. Tại sao hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhớ


không phải là cha mẹ, anh em, mái nhà xưa? Bởi vì đây là cái “sực nhớ”, điều mà ý
thức khơng kiêm sốt được mà là của con tim đang dồn dập, nóng bỏng vì nỗi nhớ
điều khiển.
Những từ, tiếng vần liền “trắng, nắng”, “chang chang” tạo cho người đọc cảm giác rõ
rệt về một bờ sông cát trắng, nắng chói rất thật rất rõ ràng tạo thành hình ảnh con
người thật đẹp.

Chị ấy năm nay cịn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
Mùa xuân luôn là cảm hứng của bao nhiêu thi sĩ. Thế nhưng trong “Mùa xuân chín”
của Hàn Mặc Tử vẫn rất đặc sắc vẫn rất sâu đậm, khơng những chỉ có “Mùa xn
chín” mà cịn “chín” cả lịng người thi sỉ, “chín” cả nỗi nhớ làng, nhớ người xưa trong
thơ Hàn Mặc Tử.
Bài thơ dạt dào cảm xúc khiến lòng người bâng khuâng. Với tâm hồn lãng mạn cùng
những lời thơ trữ tình đặc sắc, Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời một bức tranh xuân, một
hình ảnh xuân một nét xuân đầm thắm dịu dàng. Người thì đã đi xa nhưng tình người
cịn vương vấn mãi. Bài thơ ấy cùng với cái tôi Hàn Mặc Tử vẫn tồn tại mn đời.
Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (mẫu 6)
Hàn Mặc Tử là một cây bút tiêu biểu cho “phong trào Thơ mới” Việt Nam, nhà phê
bình Hồi Thanh đã nhận xét về ơng là “Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng”. Một số tác
phẩm nổi tiếng của ơng có thể kể đến như: tập thơ “Gái quê”, “Thơ Điên”, “Chơi giữa
mùa trăng”,…
Đặc biệt, tác phẩm “Mùa xuân chín” đã đem lại cho người đọc những cảm nhận sâu
sắc về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp. Qua đó, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên
nhiên, con người và nỗi khát khao giao cảm với đời.
Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã khiến chúng ta hình dung ra khung cảnh mùa xuân
rực rỡ, căng tràn sức sống. Cách kết hợp động từ chỉ trạng thái “chín” với danh từ
“mùa xuân” cho ta cảm nhận không gian tràn đầy sức sống. Nhan đề bài thơ khơi gợi
về sự mềm mại, đằm thắm của mùa xuân.
Mạch cảm xúc của tác phẩm đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh. Trước khung cảnh mùa
xuân rực rỡ, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên, nỗi nhớ quê hương da diết. Giọng


điệu thơ có sự chuyển đổi theo tâm trạng của nhân vật trữ tình, khi thì tha thiết, vui
tươi, khi thì ngưng đọng, suy tư.
Mở đầu văn bản là bức tranh làng quê thanh bình, yên tĩnh. Thiên nhiên được gợi lên
dưới ngòi bút tài hoa của tác giả “làn nắng ửng”, “khói mơ tan”, “bóng xn sang”.

Hình ảnh “làn nắng ửng” khiến ta tưởng tượng đến màu vàng nhạt của nắng buổi bình
minh. Cịn hình ảnh “khói mơ tan” lại đem đến hai cách hiểu: khói bếp phát ra từ
những căn nhà trong buổi sớm hoặc có thể đó chính là làn sương khói tinh mơ của
ngày mới.
“Làn nắng ửng” kết hợp với “khói mơ tan” tạo cảm giác sương khói đang dần tan biến
khi mặt trời lên. Mùa xuân len lỏi qua mái nhà và giàn thiên lí. Câu thơ “Sột soạt gió
trêu tà áo biếc” với biện pháp đảo ngữ và từ láy “sột soạt” góp phần diễn tả âm thanh
và sự tình tứ, trêu đùa của gió với tà áo biếc nhẹ bay. Biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển
đổi cảm giác được nhà thơ sử dụng trong câu “Trên giàn thiên lí.
Bóng xn sang” khiến mùa xn được hữu hình hóa. Câu thơ được ngăn cách bởi
dấu chấm khiến nhịp thơ thay đổi từ 2/2/3 sang 4/3 nhằm nhấn mạnh dấu ấn của mùa
xuân. Tác giả gieo vần chân một cách tinh tế “vàng”, “sang”, “trời”, “chơi” khiến
người đọc tưởng tượng ra một không gian rộng lớn. Mùa xuân sang khiến cỏ cây, đất
trời và lịng người như hịa vào nhau: “Sóng cỏ xanh gợn tới trời”
Câu thơ không chỉ diễn tả mật độ của cỏ mà cịn gợi ra sự chuyển động của gió. Trên
nền bức tranh thiên nhiên tươi đẹp ấy là sự xuất hiện của con người:
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi – Ngày mai trong đám xuân xanh ấy Có kẻ theo chồng,
bỏ cuộc chơi”.
Và:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc.
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Nổi bật trong khung cảnh thiên nhiên là con người đang trong độ “tuổi xn”. Hình
ảnh “Bao cơ thơn nữ hát trên đồi” thể hiện sự hòa quyện của con người trước thiên
nhiên. Mùa xuân ấm áp, căng tràn sức sống khiến con người cảm thấy xuyến xao,
hạnh phúc.


Câu thơ “- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” giống

như một lời nói trực tiếp. Ý thơ bộc lộ chút gì đó tiếc nuối của người chứng kiến
khung cảnh “đám xuân xanh”, hoặc cũng có thể là nuối tiếc của vị “khách xa”.
Tiếng ca của các cô gái được khắc họa qua từ láy “hổn hển”, “thầm thĩ” khiến người
đọc cảm nhận được sự trầm bổng trong tiếng hát, lúc thì thiết tha, khi thì gấp gáp, dồn
dập. Tiếng hát như nhịp chuyển động của thời gian đầy ý vị.
“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
– Chị ấy, năm nay cịn gánh thóc
Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang?”
Khác với ba khổ thơ đầu, khổ thơ cuối có sự chùng xuống trong tâm trạng nhân vật
trữ tình. “Khách xa” có thể hiểu là khách từ phương xa đến thăm làng lúc “mùa xuân
chín”, hoặc “khách xa” ở đây có thể là nhân vật trữ tình. Điều này đúng với hồn cảnh
của Hàn Mặc Tử, ơng cho rằng bản thân giờ chỉ là một người “khách xa” với quê
hương.
Người khách gặp đúng lúc mùa xuân chín mà lòng nhớ về quê nhà. Câu thơ ” – Chị
ấy, năm nay cịn gánh thóc/ Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang” với sự thay đổi
trong cách ngắt nhịp, nhịp thơ từ 2/2/3/ sang 4/3 và dấu gạch ngang ở đầu khiến câu
thơ trở thành lời bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhân vật trữ tình.
Người khách xa tự hỏi lịng mình rằng liệu năm nay chị ấy cịn gánh thóc bên bờ sơng
khơng. Câu thơ vừa diễn tả hành động gánh thóc, vừa gợi ra khơng gian mùa hè “nắng
chang chang”.
Cách gieo vần chân “làng” – “chang” khiến dịng cảm xúc của nhân vật trữ tình như
được kéo dài ra. Khổ thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ, khát khao giao cảm mãnh liệt với
đời của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Bài thơ “Mùa xuân chín” đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống.
Bức tranh ấy được gợi lên với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên
và con người. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, ẩn dụ, nhân hóa cũng góp phần
tạo nên thành cơng cho tác phẩm. Bài thơ thể hiện nỗi khát khao giao cảm với đời của
một con người xa quê và đang bị bệnh tật giày vị.
Phân tích bài thơ Mùa xn chín (mẫu 7)



Tạo hóa đã cho chúng ta được chào đón bốn mùa của đất trời, mỗi mùa đều mang tới
một cảm xúc, một vẻ đẹp riêng biệt. Mùa hạ mang vẻ đẹp rực rỡ, sôi động. Mùa thu là
sự nên thơ, dịu dàng, khiến lịng người man mác buồn. Mùa đơng tuy lạnh lẽo nhưng
lại giúp chúng ta được quây quần gần nhau hơn bên bếp lửa ấm áp. Nhưng có lẽ mùa
xuân là mùa được mong chờ nhất trong một năm tuần hồn của thời gian vì nó mang
tới sự sinh sôi, tràn ngập sức sống cho sự vật và là mùa khởi đầu cho một năm mới đến.
Chính vì vậy, mùa xuân đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác bất tận cho văn chương.
Trong số những tác phẩm viết về mùa xn, thật thiếu sót lớn khi khơng nhắc tới bài
“Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử. Tác phẩm đã góp phần làm nên tên tuổi của Hàn
Mặc Tử, được xếp ở phần Hương thơm trong tập “Đau thương”, được sáng tác trước
năm 1937 của tác giả.
Ngay từ nhan đề, Mùa xuân chín đã mang tới cho người đọc sự tò mò về “mùa xuân”
mà Hàn Mặc Tử mang tới như thế nào? Chúng ta thường thấy từ chín để miêu tả về một
loại quả đang ở độ thơm ngon nhất. Mùa xuân Hàn Mặc Tử gửi gắm qua tác phẩm cũng
mang theo ý nghĩa như vậy. Đây là một mùa xuân đang ở khoảng thời gian đẹp nhất và
tràn ngập sức sống nhất. Vậy mùa xuân chín đẹp ra sao? Hàn Mặc Tử đã trả lời câu hỏi
này qua hai khổ thơ đầu của tác phẩm:
"Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đơi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xn sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cơ thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…”
Mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh mùa xn thật thanh bình nơi
làng q. Mùa xn tới, khơng cịn nắng gắt của mùa hạ mà thay vào đó là những “làn
nắng” nhẹ nhàng chỉ đủ để “ửng” lên. Trong làn nắng đó là những làn sương mờ ảo như

khói trong một giấc mơ đang hịa tan vào nắng. Cách sử dụng từ của Hàn Mặc Tử thật
độc đáo, khiến trước mắt người đọc hiện ra khung cảnh thật êm ả và thơ mộng. Cái
nắng tinh khiết của độ xn chín ấy đã chiếu lên “Đơi mái nhà tranh” quen thuộc của
làng quê Việt Nam một cách rất dịu dàng, chỉ “lấm tấm vàng”. Mùa xuân đẹp nhất ấy
còn thể hiện qua những cơn gió khẽ lướt “sột soạt” để trêu “tà áo biếc”.
Khi mùa xuân đến, cỏ cây đơm chồi nảy lộc, phủ khắp nơi một màu xanh biếc đã được
ví như “tà áo biếc”, khơng chỉ vậy, tác giả đã thật khéo léo sử dụng biện pháp đảo ngữ
để từ chỉ hoạt động “sột soạt” lên trên đầu câu thay vì tả gió sột soạt để nhấn mạnh hoạt
động của gió. Từ “trêu” cũng thật là đáng yêu, gió đang len lỏi vào từng chút quang


cảnh xanh biếc của màu xuân, như đang trêu đùa cây cỏ, khiến khơng khí thật sơi động,
vui tươi. Rồi từ cái nhìn bao qt khung cảnh mùa xn có nắng có gió, Hàn Mặc Tử
chuyển tầm mắt đến với những sự vật chi tiết hơn, đó là “giàn thiên lý”, để rồi chợt
nhận ra “bóng xuân sang”. Trong những câu thơ trên, tác giả không hề nhắc tới mùa
xuân mà chỉ mượn sự vật có trong mùa xuân để tả về xuân chín. Nhưng đến câu thơ
cuối của đoạn này, tác giả đã khẳng định “bóng xuân sang”, bởi vì sau khi ngắm nhìn
khung cảnh xung quanh từ bao quát đến chi tiết, mùa xuân đã hiện hữu ra ngay trước
mắt của tác giả, khơng cịn là thứ vơ hình nữa.
Đến đoạn thơ tiếp theo, mùa xn chín thật sự đã tới gần với Hàn Mặc Tử và chúng ta
hơn bao giờ hết với “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Câu thơ này làm gợi nhớ đến một
câu thơ trong tuyệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du tả cảnh mùa xuân đó là “Cỏ non
xanh tận chân trời”. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử cũng là hình ảnh cánh đồng cỏ
xanh bất tận “tới trời”, nhưng bên cạnh đó nhà thơ đã sử dụng từ một cách tài tình với
từ “Sóng cỏ”, khiến cho cánh đồng cỏ như những cơn sóng, đang dập dờn bởi làn gió
xuân. Mùa xn chín, khơng những được biểu hiện bởi cảnh vật mà cịn thể hiện ra bởi
con người. Đó là những “cô thôn nữ” đang hát trên đồi, bởi mùa xuân đến có các lễ hội
mùa xuân với những bài dân ca, ca dao được cất lên, đây là một nét đẹp trong văn hóa
bao đời nay của Việt Nam. Niềm vui rộn ràng chào xuân hòa cùng với hạnh phúc lứa
đơi, vì ngày mai trong “đám xn xanh” có người phải đi lấy chồng, “bỏ cuộc chơi”. Ở

đây, tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ cho “đám xuân xanh” chỉ những người con gái
đang ở tuổi xuân rực rỡ nhất. Vậy đấy, mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử không chỉ tô
điểm cho cuộc sống đẹp hơn mà cịn kết quả cho tình u lứa đơi.
Niềm hân hoan chào xuân chín của con người được thể hiện rõ hơn ở đoạn thơ thứ 3:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới gốc trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây.”
Những tiếng mừng xuân sang từ “trên đồi” đã bay bổng lên để rồi “vắt vẻo” ở lưng
chừng núi. Tiếng ca hòa vào thiên nhiên được tác giả so sánh “Hổn hển như lời của
nước mây”. Tiếng ca không cịn được miêu tả chỉ bằng thính giác nữa mà Hàn Mặc Tử
đã miêu tả chúng bằng cả thị giác, chúng “vắt vẻo” và “hổn hển”. Những tiếng ca đang
ở nhịp cao vút đến độ phải “hổn hển” đột nhiên lại “thì thầm” với “ai”. Từ “ai” khơng
chỉ rõ ràng một người nào, đây là nhân vật trữ tình bí ẩn trong thơ của Hàn Mặc Tử. Và
những tiếng ca đó thì thầm truyền vào “ai” những ý vị và thơ ngay. Đây là những câu
thơ thật lãng mạn, phù hợp với mùa xuân chín.
Cuối bài thơ, Hàn Mặc Tử đã tự mình hóa thành một vị “khách” để cảm nhận cái tình
của “mùa xn chín” rõ ràng nhất:


“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay cịn gánh thóc
Dọc bờ sông nắng trắng chang chang.”
Vị khách bất ngờ gặp “mùa xuân chín” mang theo cảm giác tiếc nuối, lưu luyến nhớ về
mùa xuân năm nào đó nơi quê nhà “Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng”. Và trong mùa
xuân chín xa xơi đó, vị khách nhớ cả người chị của mình. Khơng biết “chị ấy” năm nay
như thế nào? có cịn tiếp tục “gánh thóc khơng? Thực chất, ở đây Hàn Mặc Tử đã sử
dụng đai từ phiếm chỉ cho từ “chị ấy”. Chị ấy có thể là chị của vị khách xa, nhưng đây
cũng là những người dân lao động nơi làng quê, đang chăm chỉ lao động đầu năm cùng

mùa xuân tràn nhựa sống, với ánh nắng chang chang, dọc bờ sơng. Một khung cảnh thật
hữu tình, báo hiệu một năm mới bội thu và mùa xuân đó càng rực rỡ hơn bởi nó nằm
trong kí ức của người khách “xa quê”.
Tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử là một tác phẩm thể hiện sự tinh tế trong
cảm nhận của tác giả. Mùa xuân chín mà Hàn Mặc Tử mang tới cho người đọc là mùa
xuân đang ở độ đẹp nhất với đầy đủ các sắc thái khác nhau. Lúc thì nhẹ nhàng, dịu dàng,
khi thì nhiệt huyết, rực rỡ và lúc lại mang tới cảm xúc tình lặng, tiếc nuối. Qua tác
phẩm, tác giả cũng đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước qua từng nét bút tả cảnh
xuân vô cùng chân thật. Và cùng với đó là tình u thương và chân trọng con người,
những con người Việt Nam tràn ngập sức sống và chăm chỉ lao động vì Tổ quốc, giống
như “mùa xn chín” vậy. Chính vì vậy, tác phẩm “Mùa xn chín” của Hàn Mặc Tử
vẫn nguyên vẹn những giá trị cho tới hiện nay.
Phân tích bài thơ Mùa xuân chín (mẫu 8)
Khi nhắc đến Hàn Mặc Tử, nhà thơ Chế Lan Viên từng nói rằng: "Trước khơng có ai,
sau khơng có ai, Hàn Mặc Tử như một ngơi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với
cái đi chói lịa, rực rỡ của mình". Ơng đã để lại cho thơ ca Việt Nam rất nhiều bài
thơ hay và ý nghĩa. Hồn thơ Hàn Mặc Tử được coi là hồn thơ "điên" cất lên từ số phận
bất hạnh với những ám ảnh về "trăng" và "máu". Nhưng trong tác phẩm "Mùa xuân
chín", thi nhân đã đem đến cho người đọc những cảm nhận về bức tranh thiên nhiên
mùa xuân căng tràn sức sống. Từ đó, thể hiện tình u thiên nhiên, khát khao giao
cảm với đời, với người mãnh liệt của ông.
Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra vẻ đẹp mùa xuân rực rỡ, tròn đầy. Động từ trạng
thái "chín" kết hợp với danh từ "mùa xuân" gợi cho ta liên tưởng về một mùa xuân
đang vào giai đoạn đẹp nhất, căng tràn sức sống nhất. Đồng thời, bộc lộ sự tiếc nuối
của thi nhân trước cái đẹp không thể níu giữ, kéo dài vĩnh viễn. Mạch cảm xúc của
nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
Mạch thơ được triển khai thơng qua hệ thống hình ảnh, các biện pháp tu từ, sự phối
hợp nhịp và vần trong tồn bộ bài thơ. Có thể thấy, nhân vật trữ tình vừa hịa mình với
thiên nhiên, trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống, vừa có những




×