Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Thực trạng công tác quản lý thu thuế trên địa bàn quận hai bà trưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.04 KB, 117 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, mức độ thu
ngân sách thường được ấn định bằng tỷ lệ % trên GDP, do đó, hệ thống thuế
được thiết kế khơng hiệu quả và khơng phát huy được vai trị khuyến khích
kinh tế phát triển. Chính vì vậy, cũng như nhiều nền kinh tế chuyển đổi khác,
hệ thống thuế của Việt Nam đã được thiết lập lại qua cải cách thuế đợt I và
đợt II trên các nội dung về cơ cấu thuế, quản lý thu thuế và quan hệ giữa
Ngân sách trung ương với Ngân sách đại phương. Việc cải cách hệ thống thuế
đã làm thay đổi cơ cấu nguồn thu, đối tượng thu thuế và chế độ thu thuế. Do
vậy, u cầu hồn thiện cơng tác quản lý thu thuế khơng chỉ là nội dung chính
của cải cách hệ thơng thuế, mà cịn là nhiệm vụ quan trọng nhằm xác lập một
hệ thống thuế mới thực sự có hiệu quả trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường.
Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta, bên cạnh yêu cầu đẩy mạnh cải cách
khu vực kinh tế Nhà nước là yêu cầu thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát
triển. Thực tế, khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã được phát triển khá
mạnh mẽ, nhất là từ khi Nhà nước ban hành Luật Doanh nghiệp vào năm
2000. Theo số liệu ước tính, đến hết năm 2002, Việt Nam có khoảng 100.000
cơng ty TNHH, công ty cổ phần và DNTN, 16.000 HTX sản xuất, kinh doanh
dịch vụ và khoảng 1,5 triệu hộ sản xuất kinh doanh cá thể. Khu vực kinh tế tư
nhân (bao gồm các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp tư nhân, công ty
TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp doanh) năm 2002 đã thu hút khoảng 4,5
triệu lao động, đóng góp hơn 42% GDP và nộp Ngân sách chiếm 7 – 8%
trong tổng số thu, hay 12 – 13% trong tổng số thu không kể thu từ dầu mỏ (số

1


thu này chưa bao gồm các thuế XNK, thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử


dụng đất, tiền thuê đất, phí, lệ phí,…)
Tuy nhiên, trong thực tế quản lý thu thuế, bên cạnh sự gia tăng với tốc
độ nhanh, các đối tượng nộp thuế (dân cư và doanh nghiệp) vẫn còn tâm lý ỷ
lại, chưa tự nguyện thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, địi hỏi Nhà nước
phải có các giải pháp phù hợp. Do đó, việc quản lý thu thuế hiện nay phổ biến
trong tình trạng “ép thu” và “thương lượng thu”. Mặt khác, các cơ quan quản
lý vẫn huy động nhiều khoản thu khơng chính thức từ dân cư và doanh nghiệp
để phục vụ cho chi tiêu riêng của cơ quan làm cho mức huy động thực tế từ
các đối tượng nộp thuế cao, nhưng thuế vẫn thất thu. Điều này không chỉ làm
tổn hại đến khoản thu Ngân sách từ thuế, tính hiệu quả và hiệu lực của chính
sách thuế, mà cịn tạo ra sự mất cơng bằng giữa các đối tượng nộp thuế trong
việc thực hiện nghĩa vụ thuế, gây cản trở đến quá trình cải cách hành chính
đối với việc quản lý thu thuế.
Quận Hai Bà Trưng là một trong những quận lớn của TP Hà nội. Trong
những năm vừa qua, cùng với xu hướng phát triển chung của cả nước, khu
vực kinh tế tư nhân trên địa bàn Quận đã phát triển khá nhanh gồm nhiều đối
tượng thuộc diện nộp thuế khác nhau. Công tác quản lý thu thuế trên địa bàn
Quận hiện cũng nằm trong tình trạng chung của cả nước hiện nay với mức độ
phức tạp hơn. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng công tác quản lý thu thuế
trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng sẽ là một cơ sở thực tiễn tốt để đề ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế
tư nhân trên địa bàn Quận, cũng như trên phạm vi của Thành phố và cả nước
nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu:
* Mục tiêu cơ bản của đề tài nghiên cứu là trên cơ sở đánh giá thực
trạng công tác thu thuế đối với khu vực kinh tế tư nhân của quận Hai Bà

2



Trưng, bước đầu đề xuất một số giải pháp góp phần hồn thiện cơng tác quản
lý thu thuế trong q trình cải cách hệ thống thuế hiện nay để góp phần nâng
cao tính hiệu quả và hiệu lực của chính sách thuế được áp dụng trong điều
kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
* Các mục tiêu cụ thể:
 Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác quản lý thu thuế trong điều
kiện chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường.
 Phân tích những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn của công tác quản lý
thu thuế trên một địa bàn cụ thể (Quận Hai Bà Trưng, Hà nội).
 Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện
quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế tư nhân của quận Hai Bà Trưng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách thuế đang được áp
dụng trong nền kinh tế nước ta hiện nay, chủ yếu là trên phương diện quản lý
thu thuế, được áp dụng cụ thể trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Xem xét tổng quan việc quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế tư
nhân ở Việt Nam.
+ Nghiên cứu cụ thể việc quản lý thu thuế trên địa bàn một địa bàn cụ
thể (Quận Hai Bà Trưng, Hà nội).
4. Phương pháp nghiên cứu:
* Về phương pháp luận nghiên cứu: Đề tài dựa vào những cơ sở luận
được phát triển trong lý thuyết kinh tế vĩ mơ và vai trị của Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường, từ đó trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu, Đề tài xây dựng
các nội dung nghiên cứu cụ thể từ thực tiễn kinh tế Việt Nam và thực tiễn
quản lý thu thuế trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng, Hà nội.

3



* Về phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng kết hợp các phương
pháp phân tích, tổng hợp và các phương pháp nghiên cứu thực chứng, điều ta
khảo sát thực tế.
5. Những đóng góp mới của đề tài:
- Xác định những yêu cầu cơ bản cần đặt ra trong việc quản lý thu thuế
gắn với điều kiện cụ thể của nền kinh tế Việt nam hiện nay.
- Làm rõ những mặt được, chưa được và những nguyên nhân tồn tại
trong công tác quản lý thu thuế hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp hồn thiện cơng tác quản lý thu thuế đối với
khu vực kinh tế tư nhân qua khảo sát thực tế ở quận Hai Bà Trưng, Hà nội
phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế Việt Nam trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế.
6. Kết cấu của đề tài:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản trong công tác quản lý thu thuế đối
với khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh
tế tư nhân trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng, Hà nội
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn
thiện việc quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế tư nhân

4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ
THU THUẾ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. THUẾ VÀ VAI TRỊ CỦA CƠNG CỤ THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ


1.1.1. Khái niệm
Sự xuất hiện Nhà nước đòi hỏi cơ sở vật chất để đảm bảo điều kiện cho
Nhà nước tồn tại và thực hiện chức năng của mình. Vì vậy, Nhà nước dùng
quyền lực chính trị để ban hành những quy định pháp luật cần thiết làm công
cụ phân phối lại một phần của cải của xã hội và hình thành quỹ tiền tệ tập
trung của Nhà nước. Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở tạo
khả năng và nguồn thu của Nhà nước. Từ đó, các sắc thuế được hình thành và
trở thành một trong những nguồn thu chủ yếu của Nhà nước.
Thuế (Taxes) là một khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức và mọi
thành viên trong xã hội, khoản thu đó mang tính bắt buộc, khơng hồn trả trực
tiếp, được pháp luật quy định.
Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu khách quan
xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước. Thuế phát sinh, tồn tại
và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Thuế được Nhà nước sử dụng như một công cụ kinh tế quan trọng nhằm huy động
nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, góp phần điều chỉnh kinh tế và điều hịa
thu nhập xã hội.
Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến vai trị, nội dung và đặc điểm của
thuế khóa, bao gồm: nhiệm vụ chính trị của mỗi Nhà nước trong từng giai
đoạn lịch sử, đặc điểm của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp.

5


Do đó, cơ cấu và nội dung của hệ thống và từng sắc thuế phải được
nghiên cứu, sửa đổi bổ sung, cải tiến và đổi mới kịp thời thích hợp với tình
hình, nhiệm vụ của từng giai đoạn. Đồng thời, phải giải quyết tổ chức phù
hợp, đủ sức đảm bảo thực hiện các quy định pháp luật về thuế đã được Nhà
nước ban hành trong từng thời kỳ.
Hệ thống thuế được coi là phù hợp khơng thể chỉ nhìn vào số lượng các
sắc thuế nhiều hay ít, vào mục tiêu đơn thuần về động viên tài chính mà được

phân tích một cách toàn diện mối quan hệ chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh
tế lành mạnh, với đời sống xã hội không đối lập với quyền lợi và khả năng
đóng góp của nhân dân. Mặc dù, thuế mang tính bắt buộc theo pháp luật
khơng hồn trả trực tiếp, ngang giá, nhưng một phần số thuế đã nộp cho ngân
sách Nhà nước được trả về người dân một cách gián tiếp dưới các hình thức
trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và quỹ tiêu dùng xã hội khác.
1.1.2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế
Trong hệ thống nền kinh tế quốc dân, thuế là một trong những công cụ
quan trọng thuộc hệ thống các đòn bẩy kinh tế và khuyến khích kinh tế được
Nhà nước sử dụng nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế,
tạo cơng ăn việc làm, ổn định giá cả, kìm chế lạm phát, giảm bội chi Ngân
sách,… Nhiều nhà kinh tế học theo trường phái kinh tế vĩ mô của Keynes
xem cơng cụ thuế như một vũ khí lý tưởng trong chính sách tài khố quốc
gia. Trong các nền kinh tế thị trường, hệ thống thuế được thiết lập hết sức
hiệu quả và được Nhà nước sử dụng như một núm điều chỉnh quan trọng hoạt
động của nền kinh tế. Một sự thay đổi thuế sẽ làm tăng hay giảm nguồn thu
Ngân sách, do đó sẽ ảnh hưởng đến mức độ chi tiêu của Chính phủ vào các
chương trình đầu tư và cung cấp các hàng hố cơng cộng, các dự án về việc
làm,… Mặt khác, một khi thuế thay đổi sẽ tác động trực tiếp đến lợi ích của
dân chúng và doanh nghiệp. Một sự giảm thuế sẽ lan truyền trong toàn bộ hệ

6


thống kinh tế, khuyến khích chi tiêu của dân cư, tăng tích luỹ, mở rộng đầu tư
cho các doanh nghiệp, thu hút lao động,…
Cụ thể, trong nền kinh tế nước ta, thuế có vai trị chủ yếu sau đây:
- Thuế là khoản thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước
Trong hệ thống đòn bẩy của cơ chế mới, thuế là công cụ quan trọng nhất
để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay, nguồn thu nước ngồi dưới
hình thức viện trợ đã giảm nhiều, các nguồn vốn vay đều phải trả. Như vậy,
thuế sẽ trở thành một công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội,
chuẩn bị điều kiện và tiền đề vật chất cho việc phát triển lâu dài. Rõ ràng, một
nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ nền
kinh tế quốc dân.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, hệ thống thuế mới được áp
dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Hầu hết các hoạt động sản xuất
kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội đều trở thành đối tượng
chịu thuế.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang trong quá trình thực hiện CNH,
HĐH, muốn đảm bảo yêu cầu vốn cho đầu tư để thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế cao và ổn định thì tỷ lệ động viên từ thuế, phí vào ngân sách
Nhà nước cần giữ mức ổn định 20 - 22% GDP như hiện nay. Mức động viên
trên đây vừa phù hợp với khả năng của nền kinh tế, vừa phù hợp với mức
đóng góp của nhân dân.
- Thuế góp phần điều chỉnh nền kinh tế
Ngồi việc huy động thu cho ngân sách Nhà nước, thuế còn có vai trị
quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến
giá cả và thu nhập. Vì vậy, căn cứ vào tình huống kinh tế cụ thể, Nhà nước có
thể sử dụng cơng cụ này để chủ động điều hành về kinh tế. Lúc hoàn cảnh

7


kinh tế quá thịnh thì việc gia tăng thuế sẽ có tác động ức chế sự tăng trưởng
của tổng cầu làm giảm bớt sự phát triển kinh tế. Lúc hoàn cảnh sa sút, sản
xuất suy thối thì việc hạ thấp thuế có tác dụng làm tăng tổng cầu, qua đó
kích thích sản xuất và phục hưng nền kinh tế. Như vậy, qua việc xây dựng cơ
chế thuế Nhà nước có thể chủ động phát huy vai trò điều hòa nền kinh tế. Dựa

vào cơng cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư.
Khi ban hành một sắc thuế do những yêu cầu về mặt kinh tế chính trị, xã
hội, Nhà nước đều có những quy định về đối tượng, phạm vi đánh thuế, thuế
suất, điều kiện miễn giảm thuế... Các quy định này xét về bề ngoài là một sự
cưỡng chế, nhưng bên trong là nhằm mục đích điều chỉnh những quan hệ kinh
tế - xã hội nhất định. Việc phân biệt thuế suất đối với các sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ, những quy định về ưu đãi thuế đối với một số ngành, vùng lãnh thổ,
tự nó đã điều chỉnh việc bỏ vốn kinh doanh vào ngành nghề này hay ngành
nghề khác, sản phẩm này hay sản phẩm khác, khu vực này hay khu vực khác
của các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần hơ hào vận động. Bởi vì, người nộp thuế tự họ sẽ phải tính tốn nên đầu tư vốn vào đâu có lợi và ngược lại.
Tóm lại, thơng qua chính sách thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong
việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý mọi
nguồn nhân tài, vật lực của đất nước, trong việc điều chỉnh quan hệ cung cầu
và cơ chế kinh tế.
- Thuế góp phần đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công
bằng xã hội
Hệ thống thuế mới được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các
thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư để đảm bảo sự bình đẳng và công
bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ với mọi cơng dân, khơng có những đặc
quyền, đặc lợi bất hợp lý cho đối tượng nào.

8


Sự bình đẳng và cơng bằng được thể hiện thơng qua chính sách động
viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có
những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và cơng bằng.
Cơng bằng xã hội khơng có nghĩa là bình qn chủ nghĩa, địi hỏi mọi
người trong xã hội có thu nhập ngang nhau. Người có thu nhập cao phải đóng
thuế cao hơn người có thu nhập thấp, nhưng phải để cho người làm ăn hiệu

quả cao có thu nhập cao, thậm chí rất cao so với người làm ăn lười biếng, kém
hiệu quả, khuyến khích cải tiến quản lý, cái tiến kỹ thuật, đầu tư vốn, đầu tư
chất xám, làm ăn giỏi để có thu nhập cao một cách chính đáng.
Bình đẳng, cơng bằng xã hội khơng chỉ là đạo lý, lý thuyết mà phải được
biểu hiện bằng luật pháp, chế độ, quy định rõ ràng của Nhà nước. Phải có
những biện pháp chống thất thu có hiệu quả về số cơ sở thuộc đối tượng nộp
thuế, về căn cứ tính thuế, về tổ chức quản lý thu thuế, về chế độ miễn giảm
thuế, về kiểm tra, xử lý nghiêm minh với các vụ vi phạm, khắc phục trường
hợp xử lý “nhẹ với trên nặng với dưới".
Nhận thức đúng đắn và ý thức tự nguyện, tự giác chấp nhận các nghĩa vụ
khai báo, chế độ giữ sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn, thu nộp thuế theo
đúng pháp luật cũng có yếu tố quan trọng để chính sách thuế đảm bảo bình
đẳng và cơng bằng xã hội.
- Thuế là công cụ điều chỉnh quan hệ cung - cầu của xã hội
Thơng thường, Nhà nước có thể dùng các loại thuế để điều chỉnh cung
cầu. Khi cầu quá cao, có thể sử dụng thuế thu nhập để hạn chế cầu. Ngồi ra,
có thể dùng các loại thuế giá trị gia tăng hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
một số mặt hàng không thiết yếu hoặc hàng cao cấp dành cho một số người có
thu nhập cao để tăng cung.
Quan hệ cung cầu không những biểu hiện trên tổng thể mà đòi hỏi phải
cân đối từng loại mặt hàng và trên từng địa bàn khác nhau. Nhà nước có thể

9


dùng công cụ thuế với biểu thuế suất thấp hoặc miễn thuế có thời hạn, khuyến
khích người sản xuất tăng cường đầu tư để tăng cung. Từ đó tạo ra mối quan
hệ hợp lý giữa cung cấu của xã hội.
- Thuế là công cụ để Nhà nước kiểm tra và giám sát về mặt tài chính đối
với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.

Để xác định đúng mức thuế và thực hiện đầy đủ các chức năng của thuế,
Nhà nước ban hành các pháp chế về kế toán – thống kê, qui định chế độ tài
chính cho tất cả các tổ chức kinh doanh thống nhất thực hiện. Ngoài ra, Nhà
nước giúp đỡ các tổ chức kinh tế đào tạo cán bộ kế toán, thống kê, định kỳ
giúp các tổ chức kinh tế phân tích hoạt động kinh tế nhằm thúc đẩy các đơn vị
khắc phục những thiếu sót để thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh của
mình và trên cơ sở đó thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước.
1.1.3. Phân loại thuế
Tùy mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn mà cơ cấu và nội dung các
chính sách thuế có khác nhau. Cũng tuỳ thuộc vào yêu cầu của việc xem xét,
đánh giá, phân tích và phân loại các sắc thuế, thông thường người ta phân loại
thuế theo những cách sau đây:
+ Căn cứ vào tính chất có thể chuyển dịch về thuế giữa người nộp thuế
và người chịu thuế, người ta phân chia làm hai loại: thuế gián thu và thuế
trực thu.
Thuế gián thu (Indirect Taxes)
Thuế gián thu là loại thuế được cộng vào giá, là một bộ phận cấu thành
của giá cả hàng hóa như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia
tăng (VAT), thuế xuất, nhập khẩu, thuế sát sinh. .
Trong thực tế, thuế gián thu là thuế đánh vào người tiêu dùng, thuế này
do người hoạt động sản xuất kinh doanh nộp cho Nhà nước, nhưng người tiêu
dùng lại là người phải chịu thuế (tức mang tính chất gián thu). Thuế này tránh

10


được quan hệ trực tiếp giữa người chịu thuế (người tiêu dùng) với cơ quan
thuế nên dễ thu hơn thuế trực thu. Thuế gián thu dễ điều chỉnh tăng hơn thuế
trực thu và những người chịu thuế thường không cảm nhận được đầy đủ gánh
nặng của loại thuế này. Hiện nay trên thế giới có xu hướng coi trọng thuế gián

thu hơn thuế trực thu vì nó có phạm vi thu rất rộng, đem lại số thu lớn cho
ngân sách, dễ thu, dễ quản lý, đồng thời chi phí phải bỏ ra để thu được thuế
cũng thấp.
Thuế trực thu (Direct Taxes)
Thuế trực thu là loại thuế trực tiếp đánh vào thu nhập của các tổ chức
kinh tế hoặc cá nhân như thuế lợi tức, thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế thu nhập cá
nhân, thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài, thuế tài sản, thuế thừa kế, thuế quà
biếu, quà tặng...
Đối với loại thuế này thì người chịu thuế đồng thời là người nộp thuế cho
Nhà nước (nên nó mang tính chất trực thu), thuế này có tính chất cơng bằng
hơn thuế gián thu vì phần đóng góp về thuế thường phù hợp với khả năng của
từng đối tượng, thu nhập cao thì nộp thuế nhiều, thu nhập thấp thì thuế ít...
Tuy nhiên, thuế trực thu cũng có nhược điểm, đó là phần nào hạn chế cố
gắng tăng thu nhập của các đối tượng vì thu nhập càng cao thì phải nộp thuế
càng nhiều. Ngồi ra, thuế trực thu do người có thu nhập phải nộp trực tiếp và
có ý thức cho Nhà nước nên họ cảm nhận được gánh nặng về thuế và có thể
dẫn tới những phản ứng từ chối hoặc trốn, lậu thuế. Việc quản lý thuế này
phức tạp và chi phí quản lý thường cao hơn thuế gián thu.
Gần đây rất nhiều nước có xu hướng bàn đến hoặc đã tăng cường vai trò
của thuế gián thu trước hết là thuế giá trị gia tăng.
+Phân loại thuế theo chế độ quản lý, điều hành ngân sách

11


Dựa vào tiêu thức này thuế được phân loại thành: Thuế trung ương, thuế
địa phương.
Thuế trung ương là loại thuế được huy động bởi trung ương trên cơ sở
luật pháp và được tập trung vào ngân sách trung ương. Ở các nước phát triển

thông thường thuế thu nhập cá nhân, thu nhập cơng ty, thuế quan... thuộc
nhóm này.
Thuế địa phương là loại thuế được chính quyền địa phương thu trên
phạm vi lãnh thổ được phân công và nộp vào ngân sách địa phương. Ở các
nước phát triển, thường thì thuế tài sản, thuế tiêu dùng cá nhân thuộc loại này
+ Phân loại thuế theo đối tượng đánh thuế
Theo cách phân loại này thuế được chia thành:
Thuế đánh vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ như: thuế doanh
thu, thuế giá trị gia tăng (VAT)...
Thuế đánh vào hàng hóa như: thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt...
Thuế đánh vào thu nhập như: thuế lợi tức, thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao...
Thuế đánh vào tài sản như: thuế nhà đất...
Tóm lại, thuế là một bộ phận rất quan trọng của chính sách tài chính
quốc gia. Mỗi loại thuế có tác dụng khác nhau, nhưng được cấu thành thành
một hệ thống thống nhất, có liên quan với nhau, tác động lẫn nhau, cùng nhau
hỗ trợ thì mới thực hiện đầy đủ chức năng vốn có của thuế là động viên thu
nhập quốc dân và là công cụ rất quan trọng để quản lý nền kinh tế vĩ mô trong
điều kiện sản xuất hàng hoá phát triển với nhiều thành phần kinh tế.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THU THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ
NƯỚC TA

1.2.1. Thực trạng cải cách hệ thống thuế của Việt Nam

12


Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước chuyển từ nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hệ thống

thuế của Việt Nam đang từng bước được đổi mới, hoàn thiện và bước đầu đã
đạt được những thành tựu quan trọng. Về tổng thể, hệ thống thuế của nước ta
đã chuyển hẳn từ cơ chế thu ngân sách không dựa trên nền tảng thuế sang thu
ngân sách chủ yếu dựa vào luật thuế.
Cho tới khi tiến hành cải cách thuế lần đầu vào năm 1988 – 2000, nguồn
thu chủ yếu của Nhà nước dựa vào việc đóng góp ngân sách của các doanh
nghiệp Nhà nước. Năm 1988, Thuế Hải quan được áp dụng và năm 1999,
Thuế doanh thu và Thuế Lợi tức được áp dụng là một bước tiến tỏng việc gắn
nguồn thu trong nước với một thước đo thu nhập của cuả doanh nghiệp và
tiêu dùng trong nước một cách tương đối khách quan. Những cải cách mang
tính cơ cấu, cùng với những thay đổi lớn về thể chế cũng như việc thành lập
Cục Thuế Quốc gia (sau này là Tổng Cục Thuế) thuộc Bộ Tài Chính đã mang
lại cho hệ thống thuế những thay đổi căn bản. Nguồn thu Ngân sách đã dựa
chủ yếu vào thuế gián thu.
Tuy nhiên, hệ thống thuế sau đợt cải cách 1988 – 1990 vẫn cong một số
hạn chế sau:
+ Ngân sách Nhà nước vẫn còn dựa vào khoản thu của khu vực doanh
nghiệp Nhà nước.
+ Các loại thuế vẫn còn phức tạp do có nhiều ưu đãi, miễn thuế và nhiều
mức thuế suất.
+ Công tác quản lý và thu thuế chưa thực sự vận hành một cách có hiệu
lực, hiệu quả và cùng với tính chất phức tạp về các thủ tục hành chính dẫn tới
cơng việc thanh tốn thuế mang tính “cống nộp được đàm phán”.
Hệ thống thuế của Việt Nam đã được cải cách một cách mạnh mẽ và toàn
diện vào các năm 1998 – 2000, với việc áp dụng Thuế VAT để thay thế Thuế

13


Doanh thu. Với quyết định áp dụng Thuế Tiêu thụ đặc biệt mới, từ 1/1/1999,

hệ thống thuế gián thu đã được hình thành tương đối thống nhất.
Trong kết cấu định tính của hệ thống thuế, đã hình thành tương đối đầy
đủ các sắc thuế cần thiết của một hệ thống thuế hiện đại. Trong đó, các sắc
thuế gián thu, đánh vào tiêu dùng đã được chú trọng hoàn chỉnh hơn các sắc
thuế trực thu.
Về thuế gián thu: Năm 1999, Nhà nước ban hành Luật thuế giá trị gia
tăng (GTGT) thay thế Luật thuế doanh thu do Luật này có nhiều nhược điểm
và khơng cịn phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Sau đó,
để phù hợp hơn nữa với với sự phát triển của thực tiễn và đáp ứng yêu cầu
của lộ trình hội nhập, nhiều nội dung của Luật thuế GTGT lại được sửa đổi bổ
sung. Thuế GTGT khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu nên có tác
dụng kích thích sản xuất kinh doanh, khuyến khích đầu tư và xuất khẩu, tăng
cường quản lý và hạch toán kinh doanh.
Để đảm bảo thực hiện đồng bộ với Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế
tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) cũng có nhiều bổ sung và sửa đổi quan trọng. Thuế
TTĐB thay thế cho thuế hàng hoá trước đây, áp dụng cho một số hàng hoá ở
khâu sản xuất của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Nội dung
của Luật thuế TTĐB sửa đổi tập trung vào việc mở rộng đối tượng chịu thuế
và áp dụng thống nhất đối với hàng hoá nhập khẩu và hàng hố sản xuất trong
nước, khơng thu thuế TTĐB đối với hàng hoá xuất khẩu … Đây là bước tiến
của hệ thống thuế nước ta trong việc thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia đã
cam kết khi tham gia vào các tổ chức quốc tế.
Về thuế trực thu: Năm 1997, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã được
ban hành thay thế Luật thuế lợi tức và có hiệu lực thi hành năm 1999. Luật
thuế TNDN có phạm vi áp dụng rộng hơn, bao quát hơn, khắc phục được

14


những nhược điểm của thuế lợi tức trước đây là phân biệt đối xử giữa các

thành phần kinh tế…
Hệ thống thuế hiện hành cũng đã bước đầu cải thiện sự cơng bằng về
thuế giữa các tầng lớp xã hội. Xố bỏ sự phân biệt về nghĩa vụ đối với ngân
sách Nhà nước, tạo ra sự bình đẳng trước pháp luật thuế giữa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khi thay thế chế độ thu quốc doanh, thuế
công thương nghiệp bằng thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập
doanh nghiệp…
Trong điều tiết vĩ mô, cải cách đã đưa thuế trở thành một trong các công
cụ điều tiết sắc bén đối với nền kinh tế – xã hội, được Bộ tài chính và Nhà
nước tích cực sử dụng nhằm góp phần kích thích xuất khẩu, bảo vệ sản xuất
trong nước, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách tạo
nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ quốc phòng, an ninh.
Dưới góc độ hội nhập quốc tế, cải cách thuế đã tính đến yếu tố hội nhập
khi xây dựng chính sách bảo hộ qua thuế, có bước tiến hồ nhập với môi
trường thuế quốc tế: ký kết các hiệp định tránh đánh thuế trùng với đa số các
nước có quan hệ ngoại giao và kinh tế với nước ta; xây dựng và cơng bố lộ
trình hội nhập quốc tế về thuế khi gia nhập AFTA, chuẩn bị gia nhập WTO….
Về tổ chức bộ máy thu thuế và công tác hành chính thuế, cải cách thuế
đã đổi mới một bước cơ cấu tổ chức hệ thống thuế. Bộ máy thu thuế đã được
củng cố, kiện toàn. Trên cơ sở sáp nhập các Cục Thu quốc doanh, Thuế Nông
nghiệp, Thuế Công nghiệp, Cục Thuế Quốc gia và sau này là Tổng cục Thuế
Nhà nước đã được thành lập thống nhất từ trung ương đến các địa phương
theo chế độ song trùng lãnh đạo.

15


Bảng 1.1:
Loại thuế


Tổng quan các loại thuế sau năm 1998
Cũ (trước 1998)

Mới (sau 1998)

Thuế thu nhập cá áp dụng cho các cá nhân có Mở rộng mức khởi điểm
nhân

thu nhập cao. đánh vào thu chịu thuế cho hầu hết các
nhập theo diện hẹp, loại trừ loại thu nhập cá nhân hiện
hầu hết thu nhập doanh nay đang chịu thuế lợi tức.
nghiệp, lãi suất,… Đặt mức Có giảm số bậc thuế trong
thuế riêng biệt đối với người thang thuế.
nước ngồi.

Thuế

Doanh Có 11 thuế suất. Thuế đánh Thay bằng thuế GTGT

nghiệp

chồng lên cả giá trị đã chịu

Thuế Doanh thu

thuế. Hàng nhập khẩu chịu
thuế trên mức lãi tại điểm bán
đầu tiên.

Thuế Lợi tức


Đánh trên ba mức thuế suất Bãi bỏ và thay bằng một
khác nhau và có sự phân biệt thuế suất duy nhất cho
đối xử đối với lợi nhuận nước doanh nghiệp và cơng ty
ngồi, áp dụng phụ thuế lợi khơng
tức

phải



doanh

nghiệp cá thể và hộ gia
đình – loại đối tượng này
sẽ chịu thuế thu nhập cá
nhân

Cácloại thuế khác (khơng tính thuế xuất khẩu và nhập khẩu)
Các loại thuế tài

Tiếp tục du trì

nguyên
Thuế

Sử

dụng Đánh váo các DNNN thay Tiếp tục duy trì


16


vốn

cho lợi tức vốn của Nhà nước

Các

loại

thuế

Tiếp tục duy trì

nơng nghiệp và
sử dụng đất nơng
nghiệp
Thuế Trước bạ

Tiếp tục duy trì

bất động sản
1.2.2. Những vấn đề tiếp tục đặt ra đối với tiến trình cải cách hệ thống
thuế của nước ta
Nhìn chung, qua hai đợt cải cách thuế, về cơ bản, Việt Nam đã xây dựng
được một hệ thống thuế thống nhất, được luật hố và áp dụng bình đẳng đối
với các thành phần kinh tế. Ngay sau cải cách lần thứ nhất, tất cả các sắc thuế
đều được ban hành dưới hình thức luật hoặc pháp lệnh nên tính pháp lý của
thuế đã được nâng cao, phù hợp với yêu cầu phát triển thể chế thị trường.

Tuy nhiên, cụ thể từng lĩnh vực cả về chính sách thuế cũng như cơng tác quản
lý thu thuế, có thể thấy những hạn chế cần được tiếp tục chấn chỉnh trong tiến
trình cải cách thuế của chúng ta như sau:
- Về kết cấu hệ thống sắc thuế: Hệ thống thu NSNN hiện bao gồm 10 sắc
thuế, các loại phí, lệ phí và các khoản thu ngoài thuế phát sinh chủ yếu từ
quyền sở hữu của Nhà nước. Hệ thống thuế nước ta đã bắt đầu hình thành
theo các nhóm chính: thuế thu nhập (trực thu), thuế tài sản (thuế nhà, đất…),
thuế tiêu dùng (gián thu) và các loại thuế, phí khác, tương đương với cách
phân loại của IMF. Tuy nhiên, do công tác phân loại thuế ở nước ta chưa
được chú trọng nên chưa có bước đi chiến lược rõ nét để khai thác thế mạnh
của từng loại thuế trong từng thời kỳ. Chưa xác định rõ được ở thời kỳ nào thì
ưu tiên phát triển thuế gián thu, thời kỳ nào thì ưu tiên phát triển thuế trực

17


thu. Các hình thức thuế trực thu cịn chưa được chú trọng hoàn thiện, nhất là
thuế thu nhập cá nhân.
Cải cách thuế đã mang đến nhiều phương pháp đánh thuế hiện đại như
thuế giá trị gia tăng nhưng vẫn chưa có sự phối hợp tích cực giữa phương
pháp đánh thuế theo thuế suất với kỹ thuật đánh thuế cố định tính theo từng
đơn vị hiện vật của đối tượng chịu thuế.
So với thế giới, hệ thống thuế của nước ta cịn có điểm chưa hiện đại,
tính hội nhập cịn thấp. Cần phải sửa đổi, bổ sung một số sắc thuế cũng như
kỹ thuật đánh thuế thì mới có thể đáp ứng các yêu cầu ổn định nguồn thu
NSNN, phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế.
- Về tính cơng bằng, bình đẳng của thuế: cịn có sự ưu đãi giữa doanh
nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Doanh nghiệp nhà nước được Nhà nước cấp vốn nhưng lại được miễn khoản

phân chia lợi nhuận với Nhà nước sau quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp
Nhà nước khơng phải trích nộp “phí sử dụng vốn” trong khi các doanh nghiệp
khác phải chia lãi cổ phần, hoặc phải trả lãi tiền vay vốn đề kinh doanh. Hoặc
còn có sự phân biệt về thuế suất giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Điều này tạo ra mơi trường cạnh tranh
khơng lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
Trong chính sách thuế cịn qui định q nhiều đối tượng khơng chịu thuế,
nhiều trường hợp miễn giảm thuế khác nhau do chính sách thuế vừa nhằm
mục tiêu đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa thực hiện các
chính sách khuyến khích phát triển kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ, vừa thực
hiện chính sách xã hội, làm cho hệ thống thuế trở nên phức tạp, mất tính tập
trung của thuế.

18


Chính sách thuế cịn phân biệt về thuế suất giữa các ngành nghề khác
nhau dẫn tới khó khăn trong phân bổ chi phí, tạo khe hở cho hành vi tránh
thuế và đem đến sự bất bình đẳng trong kinh doanh giữa các ngành nghề.
- Về cơ chế thu nộp thuế: Thực hiện qui trình thu thuế theo kiểu cũ, chú
trọng thơng báo khai thuế. Qui trình tự kê khai, nộp thuế chưa được triển khai
mạnh mẽ nên chưa phát huy được trách nhiệm nộp thuế của các pháp nhân
kinh doanh. Theo cơ chế quản lý thuế hiện nay, sau khi các đối tượng nộp
thuế nộp tờ khai thuế, cơ quan thuế sẽ kiểm tra các tờ khai của đối tượng nộp
thuế và căn cứ vào kết quả kiểm tra để thông báo mức thuế phải nộp cho các
đối tượng nộp thuế. Sau đó, các đối tượng nộp thuế sẽ căn cứ theo thông báo
thuế của cơ quan thuế để nộp thuế vào NSNN.
Thực hiện cơ chế này gặp rất nhiều hạn chế như việc nộp thuế thường bị
chậm trễ, các đối tượng nộp thuế thường có thái độ trơng chờ, ỷ lại làm tốn
nhiều thời gian, công sức của các cơ quan quản lý thuế. Theo số liệu ước tính

hiện nay, hàng năm cơ quan thuế phải thơng báo ít nhất 2 lần cho gần 23 triệu
hộ nộp thuế ổn định. Hàng tháng, cơ quan thuế phải phát hành thông báo nộp
thuế giá trị gia tăng cho khoảng 137.000 tổ chức, cá nhân sản xuất kinh
doanh. Với đà gia tăng của số lượng các đối tượng nộp thuế hiện nay thì cơ
chế quản lý nộp thuế này sẽ trở thành gánh nặng rất lớn đối với cơ quan thuế.
Trong khi đó, cơ sở hạ tầng cho ngành thuế là hệ thống kế toán, kiểm toán và
hệ thống thanh toán trong nền kinh tế cịn rất lạc hậu, khơng nghiêm, thiếu
chuẩn mực.
- Về tổ chức bộ máy quản lý thuế: trình độ tổ chức bộ máy quản lý thuế
và chất lượng đội ngũ cán bộ thuế là một trong những yếu tố quyết định sự
vận dụng thành công hay thất bại chính sách thuế. Cơ chế phân cấp để quản
lý, khai thác nguồn thu giữa trung ương và địa phương hiện nay còn nhiều
lúng túng, chưa thực sự đổi mới theo hướng tăng cường quyền chủ động khai

19


thác nguồn thu cho địa phương. Việc phân cấp nguồn thu trong thời gian qua
chủ yếu dựa vào số thu của các sắc thuế (sắc thuế nào có số thu ít thường
được giao cho địa phương). Các sắc thuế được phân cấp chưa gắn với quyền
lợi của địa phương, gắn với tăng trưởng và phát triển kinh tế trên địa bàn
đồng thời đảm bảo tính thống nhất và cân bằng giữa giữa các vùng trong phân
cấp nguồn thu. Thực tế là chưa triển khai nghiên cứu phân cấp các nguồn thu
có độ đàn hồi lớn theo tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương để khuyên
khích địa phương tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách.
Như vậy, hệ thống chính sách thuế nội địa của Việt Nam đã nhiều lần
được sửa đổi, bổ sung và ngày càng đáp ứng được với sự phát triển kinh tế
của Việt Nam trong điều kiện mới. Tuy nhiên, vấn đề tiếp tục hoàn thiện hệ
thống thuế cũng như công tác quản lý thu thuế vẫn cần phải được quan tâm
trong tiến trình phát triển kinh tế nước ta trong những năm tới.

1.2.3. Những yêu cầu đặt ra đối với việc quản lý thu thuế hiện nay
1.2.3.1. Yêu cầu đảm bảo nguồn thu cho ngân sách qua thuế
Thuế là nguồn thu chủ yếu, thường xuyên từ nội bộ nền kinh tế quốc dân
cho ngân sách Nhà nước. Việc thu đúng và đủ thuế có vai trò quan trọng để
tạo điệu điều kiện cho Nhà nước sử dụng thuế như một công cụ hiệu quả để
điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực
hiện công bằng xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nước ta đặt ra
những mục tiêu lớn về nâng cao mức tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng xã hội. Để đảm bảo mức tăng trưởng bình quân mỗi năm 7,5%, trong
những năm tới cần xây dựng mức động viên vào ngân sách nhà nước bình
quân hàng năm khoảng 20-22% GDP, trong đó động viên qua thuế và phí
chiếm từ 18-19% GDP.
Việc quản lý thu thuế khoa học và chặt chẽ là tiền đề quan trọng cho việc
sử dụng thành cơng của chính sách thuế. Tuy nhiên, trong thực tế tình hình

20



×