Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần hàng hải việt nam – chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.06 KB, 97 trang )

Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
RRTD

: Rủi ro tín dụng

NHTM

: Ngân hàng thương mại

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước

TSĐB

: Tài sản đảm bảo

Maritime Bank

: Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam

Maritime Bank Hà Nội

: Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam –
Chi nhánh Hà Nội

XHTD

: Xếp hạng tín dụng



Học viên: Phạm Thanh Nga

1


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Sự cần thiết của đề tài
Hiện nay ở Việt Nam, các Ngân hàng thương mại đang phải chịu áp dụng lực

từ cuộc khủng hoảng tín dụng tồn cầu. Sự sụp đổ của hệ thống tài chính Mỹ và
Châu Âu là bài học cảnh báo về chất lượng kiểm sốt rủi ro tín dụng trong hệ thống
các ngân hàng thương mại. Đứng trước tình hình đó, địi hỏi các ngân hàng thương
mại Việt Nam trong đó có Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam
càng phải nâng cao cơng tác kiểm sốt rủi ro tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất
những nguy cơ tiềm ẩn gây nên rủi ro.
Bên cạnh đó, trước những thời cơ và thách thức của tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại
trong nước với các ngân hàng thương mại nước ngoài, mà cụ thể là nâng cao chất
lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro đã trở nên cấp thiết. Mặt khác hoạt động tín dụng
cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, bởi vậy các ngân hàng muốn tồn tại, phát triển thì cần
phải có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sốt rủi ro tín
dụng thích hợp.
Xuất phát từ thực tế đó, việc nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng cơng tác kiểm sốt rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết. Do vậy, đề tài “Quản
lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam – Chi

nhánh Hà Nội” được lựa chọn để nghiên cứu.
2.

Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết cơ bản về rủi ro tín dụng và quản lý

rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng cơng tác quản lý rủi ro tín dụng của Ngân
hàng Thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương
mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội.

Học viên: Phạm Thanh Nga

2


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của ngân

hàng thương mại.
- Phạm vi: Nghiên cứu hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội từ năm 2007 đến
năm 2009.
4.


Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn

bao gồm:
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thống kê.
5.

Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận văn

được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng
- Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại
cổ phần Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2007 – 2009.
- Chương 3: Giải pháp quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Hàng Hải Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới.

Học viên: Phạm Thanh Nga

3


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO

TÍN DỤNG
1.1. Tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một hoạt động quan trọng của ngân hàng thương mại, theo đó
ngân hàng chuyển một lượng tiền cho khách hàng với điều kiện khách hàng hoàn
trả cả gốc và lãi đúng hạn theo cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân
hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín
dụng ngân hàng khơng những chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp và cá nhân mà còn tham gia cấp tín dụng trung, dài
hạn cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, cải tiến đổi mới kỹ thuật góp phần mở
rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn; ngồi ra tín dụng ngân
hàng còn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
Như vậy, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế
thị trường, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho mọi thành phần kinh tế một cách linh
hoạt và kịp thời. Đối với ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh truyền thống
bên cạnh hoạt động huy động vốn, chiếm tỷ trọng lớn nhất trên bảng tổng kết tài sản
và đem lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng.

1.1.2. Phân loại tín dụng
Các khoản vay của ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân loại tín
dụng ngân hàng theo hình thức cấp tín dụng, theo thời hạn trong quan hệ tín dụng,
theo tính chất bảo đảm hoặc theo thành phần kinh tế, cụ thể như sau:

1.1.2.1. Phân loại theo thời gian
Căn cứ vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể chia thành:

Học viên: Phạm Thanh Nga


4


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

- Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn đến 12 tháng để bù
đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá
nhân.
- Tín dụng trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến
60 tháng. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố
định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây
dựng các dự án mới có quy mơ nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh…
- Tín dụng dài hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ trên 60 tháng. Tín
dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở,
các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mơ lớn, xây dựng các xí nghiệp mới...

1.1.2.2. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
- Cho vay: Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định, gồm các hình
thức cho vay chủ yếu như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân
chuyển, cho vay trả góp, cho vay thấu chi.
- Chiết khấu thương phiếu: Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để
sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Về mặt đpháp lý, ngân
han không phải đã cho chủ thương phiếu vay, đây chỉ là hình thức trao đổi trái
quyền. Tuy nhiên, đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản
lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín
dụng. Ngân hàng tuy ứng trước tiền cho người bán, song thực chất là thay thế người
mua trả tiền trước cho người bán.
- Cho thuê tài sản: Trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ điều kiện

vay để mua tài sản, ngân hàng đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để
cho khách hàng thuê. Tài sản vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng có thể
thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả được nợ.
- Bảo lãnh: Là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng

Học viên: Phạm Thanh Nga

5


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh có các hình thức sau: Bão
lãnh đảm bảo tham gia dự thầu, Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, Bảo lãnh đảm bảo
hoàn trả tiền ứng trước, Bão lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay, Bảo lãnh đảm bảo
thanh tốn…

1.1.2.3. Phân loại theo hình thức bảo đảm
Tài sản đảm bảo của khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu
nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ q trình sản
xuất kinh doanh) khơng có hoặc khơng đủ.
Tín dụng có thể chia thành tín dụng có bảo đảm bằng uy tín của chính khách
hàng (hay tín dụng khơng có TSĐB) và tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố
tài sản.
- Tín dụng khơng có TSĐB có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín,
thường là khách hàng có quan hệ thường xun có lãi, tình hình tài chính vững
mạnh, ln trả nợ đầy đủ, đúng hạn; hoặc đối với các khoản cho vay theo chỉ định
của Chính phủ cũng thường khơng có TSĐB.
- Tín dụng dựa trên cam kết bảo đảm yêu cầu ngân hàng và khách hàng

phải ký hợp đồng bảo đảm. Theo đó, ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình
trạng của TSĐB (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng thanh khoản, khả
năng tài chính của người thứ ba…), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả
năng bảo quản TSĐB.

1.1.2.4. Phân loại theo rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các
căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các
dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội bảng và
ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân loại này giúp ngân hàng
thường xun đánh giá lại tính an tồn của các khoản tín dụng, trích lập dự phịng
tổn thất kịp thời.
- Nợ đủ tiêu chuẩn: bao gồm các khoản nợ được đánh giá là có khả năng thu
hồi nợ gốc và lãi đúng hạn.

Học viên: Phạm Thanh Nga

6


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

- Nợ cần chú ý: bao gồm các khoản nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi
nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
- Nợ dưới tiêu chuẩn: bao gồm các khoản nợ được đánh giá là khơng có khả
năng thu hồi nợ gốc và lãi đúng hạn.
- Nợ nghi ngờ: bao gồm các khoản nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất
cao.
- Nợ có khả năng mất vốn: bao gồm các khoản nợ được đánh giá là khơng
có khả năng thu hồi, mất vốn.


1.2. Rủi ro tín dụng
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của NHTM - hoạt
động tín dụng. Các khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản
có của NHTM, mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng, song cũng tiềm ẩn rủi ro
lớn.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến mà ngân
hàng phải gánh chịu do khách hàng vay không trả đầy đủ vốn và lãi hoặc trả không
đúng hạn hoặc không trả.
Như vậy, RRTD là khả năng khách hàng không trả, hoặc không trả đầy đủ,
hoặc không trả đúng hạn gốc và lãi cho ngân hàng. Nói một cách khác, RRTD là rủi
ro mà bên vay trong một giao dịch không thực hiện được đúng các cam kết của hợp
đồng tín dụng làm cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính. RRTD là rủi
ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa khó khăn nhất, nó địi hỏi ngân hàng phải
có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro,
giảm tối thiểu những thiệt hại có thể xảy ra.
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động
ngân hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh
chủ yếu của các ngân hàng; do vậy, RRTD luôn là vấn đề được đặc biệt quan tâm
trong hoạt động của các ngân hàng. Các ngân hàng ln tìm cực đại lợi nhuận qua
việc tìm kiếm lợi tức cao nhất có thể ở các món vay và chứng khoán, đồng thời cố

Học viên: Phạm Thanh Nga

7


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế


gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay, như sàng lọc và giám sát
khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, quy định các mức tín
dụng, TSĐB và hạn chế tín dụng.

1.2.2. Đặc trưng của rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Rủi ro tín dụng là tất yếu, khách quan
Trước khi cho vay, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay
sao cho độ an toàn là cao nhất. Nhìn chung, ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi
thấy rằng RRTD sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, khơng phải bao giờ ngân hàng cũng
dự tính chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng
có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Nhiều trường hợp cán bộ tín dụng ngân
hàng khơng có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Mặt khác do
khơng thể có được thông tin cân xứng về việc sử dụng vốn vay cho hoạt động kinh
doanh của khách hàng đi vay (người trực tiếp sử dụng tiền vay trong một khoảng
thời gian dài), bất cứ một khoản cho vay nào cũng tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro đối
với ngân hàng (không thu hồi vốn, thu hồi không đúng hạn, không đầy đủ…). Do
vậy trên quan điểm quản lý, RRTD là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều
quan điểm nhất trí rằng, RRTD là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phịng,
hạn chế, chứ khơng thể loại trừ.

1.2.2.2. Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng, phức tạp
Tính chất đa dạng, phức tạp của RRTD biểu hiện rõ nhất ở các hình thức
phân chia của RRTD. RRTD bao gồm rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục.
Rủi ro giao dịch là rủi ro phát sinh trong quá trình ngân hàng xét duyệt và
cho vay, nó bao gồm rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ. Rủi ro lựa
chọn là rủi ro liên quan đến hoạt động thẩm định và phân tích tín dụng. Rủi ro bảo
đảm là rủi ro xuất phát từ các tiêu chuẩn bảo đảm của khoản tín dụng như các điều
khoản trong hợp đồng tín dụng, các loại TSĐB và mức độ an toàn của TSĐB. Rủi
ro nghiệp vụ là những rủi ro liên quan tới các quá trình thao thác nghiệp vụ tín dụng
từ việc xây dựng và thực hiện các chính sách tín dụng, xem xét và quản lý danh

mục cho vay đến việc xếp hạng tín dụng và xử lý các khoản vay có vấn đề.

Học viên: Phạm Thanh Nga

8


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

Rủi ro danh mục bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. Rủi ro nội tại chi
xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của chủ thể đi vay hay cua ngành kinh tế.
Rủi ro tập trung là rủi ro xảy ra khi mức dư nợ của ngân hàng tập trung vào một số
khách hàng, một số ngành kinh tế, một khu vực địa lý hoặc một số hình thức cho
vay.
Như vậy, có thể thấy RRTD có thể phát sinh từ rất nhiều khâu trong q
trình cấp tín dụng với tính chất đa dạng và phức tạp.

1.2.2.3. Rủi ro tín dụng có khả năng tạo phản ứng dây chuyền
Không chỉ là vấn đề quan trọng của hệ thống ngân hàng trong nước, RRTD
còn là mối quan tâm lớn của các hệ thống ngân hàng thế giới bởi một đặc tính quan
trọng của RRTD là nó có tính lan truyền nhanh. Hoạt động ngân hàng khơng chỉ
giới hạn trong một nước mà nó cịn có mối liên kết ra ngồi lãnh thổ. Như vậy, khi
có RRTD xảy ra thì khơng những các ngân hàng trong nước bị ảnh hưởng mà các
ngân hàng nước ngoài cũng bị ảnh hưởng theo, mức độ ảnh hưởng thấp hơn hoặc có
thể cao hơn.
Điển hình vừa qua là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 bắt đầu ở
Thái Lan không những làm tê liệt hệ thống ngân hàng của các nước trong khu vực
và còn ảnh hưởng tới các cường quốc có nền kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật Bản…
Năm 2007, cuộc khủng hoảng trên thị trường cho vay nhà đất dưới tiêu chuẩn ở Mỹ
đã tác động tiêu cực đến thị trường tài chính thế giới. Hàng loạt các định chế tài

chính ở Mỹ đã công bố những tổn thất nặng nề mà họ phải gánh chịu xuất phát từ
hậu quả của cuộc khủng hoảng này gây nên. Hơn thế nữa, cuộc khủng hoảng này đã
lan rộng sang một số nước khu vực Châu Âu và Châu Á… Một số ngân hàng lớn ở
các quốc gia này cũng lâm vào tình trạng khủng hoảng tương tự.

Học viên: Phạm Thanh Nga

9


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

1.2.3 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.3.1. Nguyên nhân khách quan
Trong các nguyên nhân gây ra RRTD cho ngân hàng thì nhóm ngun nhân
khách quan là những ngun nhân khó phịng tránh nhất thậm chí là bất khả kháng.
Những nguyên nhân này thường không trực tiếp ảnh hưởng tới hoạt động kinh
doanh của ngân hàng nhưng nó lại có ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh
nghiệp, các khách hàng của ngân hàng, từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến ngân hàng.
Các nguyên nhân khách quan bao gồm:
- Môi trường tự nhiên
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động sản
xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên là yếu
tố khó dự đốn, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn nằm ngồi tầm kiểm sốt
của con người. Vì vậy khi có thiên tai, địch hoạ xảy ra khách hàng cùng ngân hàng
sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án kinh doanh khơng có nguồn thu… điều đó
đồng nghĩa với việc ngân hàng phải cùng chia sẻ rủi ro với khách hàng của mình.
- Mơi trường kinh tế
Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng cũng
như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường kinh tế. Sự biến động

của nền kinh tế tốt hay xấu sẽ tác động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng và
doanh nghiệp biến động theo chiều hướng tương tự. Những tác động do mơi trường
kinh tế gây ra có thể là trực tiếp với ngân hàng (ví dụ: những rủi do thay đổi tỷ giá,
lãi suất, lạm phát làm cho ngân hang bị thiệt về thu nhập) hoặc gián tiếp tác động
xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đều có thể là nguyên nhân dẫn đến
RRTD. Trong giai đoạn kinh tế phát triển, người vay hoạt động hiệu quả nhưng
trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, khả năng trả nợ của người vay sẽ bị giảm sút,
làm gia tăng RRTD cho ngân hàng.
- Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước

Học viên: Phạm Thanh Nga

10


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

Mỗi một sự thay đổi về cơ chế chính sách của Nhà nước đều có thể tác động
tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và ngân hàng. Chính sách kinh tế vĩ mơ
ổn định sẽ giúp cho hoạt động của doanh nghiệp ít bị biến động, do vậy mà việc dự
báo về tình hình tài chính, kinh doanh của khách hàng cũng thuận lợi hơn cho ngân
hàng. Ngược lại, chính sách kinh tế vĩ mơ khơng ổn định thì ngân hàng rất khó có
thể phân tích, dự báo chính xác hoạt động kinh doanh, tài chính của khách hàng
trong tương lai cũng như khó có thể lường trước được những rủi ro khách hàng phải
đối mặt, do vậy ngân hàng không thể đánh giá đúng khả năng trả nợ của khách hàng
trong tương lai, và sẽ tiềm ẩn rủi ro khi cấp tín dụng cho khách hàng.
- Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn
Nguyên nhân từ phía khách hàng là một trong những nguyên nhân chính và
cổ điển nhất gây ra RRTD, bao gồm những nguyên nhân sau:
Khách hàng yếu kém trong quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính: Trường

hợp người vay có trình độ yếu kém về quản lý, khơng tính tốn kỹ lưỡng hoặc
khơng có khả năng tính tốn kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, khơng có khả
năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh sẽ dẫn tới vốn vay không
được sử dụng hiệu quả. Ngoài ra, việc yếu kém trong quản lý tài chính có thể dẫn
tới trường hợp dù dự án hay q trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả song nguồn
trả nợ ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Như vậy, doanh nghiệp khơng có khả
năng hồn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng.
Khách hàng gặp rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Khi người vay
gặp những rủi ro từ thị trường (ví dụ nhu cầu về loại sản phẩm của doanh nghiệp bất
ngờ giảm sút do một số thông tin bất lợi), từ bạn hàng (ví dụ doanh nghiệp bị bạn
hàng chiếm dụng vốn và khơng hồn trả đúng thời hạn quy định) hoặc từ những rủi
ro không dự kiến được tác động đến nguồn thu của doanh nghiệp và khả năng trả nợ
ngân hàng.

Học viên: Phạm Thanh Nga

11


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

Khách hàng chủ định lừa đảo ngân hàng: Trường hợp này người vay kinh
doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn hoặc khơng muốn trả
nợ ngân hàng. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu
càng tốt.

1.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Quan điểm của lãnh đạo điều hành: Nếu NHTM có quan điểm đặt mục
tiêu lợi nhuận lên trên nhất thì cơ chế quản lý sẽ khuyến khích và tạo điều kiện để
bộ phận có liên quan tìm kiếm, quyết định những khoản cho vay, đầu tư có thu nhập

kỳ vọng cao nhưng tiềm ẩn rủi ro lớn; đồng thời các quy định về kiểm tra, kiểm
soát, đặc biệt là tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá khi quyết định cho vay cũng sẽ
thấp hơn trong khi tiêu chí về khả năng sinh lời rất được coi trọng. Trường hợp
ngược lại nếu quan điểm kinh doanh lấy an tồn làm chính thì các quy định về cơ
chế quản lý tài sản trong việc thẩm định, xem xét trước khi ra quyết định cho vay,
đầu tư sẽ chặt chẽ hơn, cụ thể hơn, các tiêu chuẩn để phục vụ cho việc ra quyết
định, việc kiểm tra, giám sát cũng được đặt ở mức cao hơn, và vì thế RRTD của
ngân hàng sẽ ở mức thấp hơn.
- Sự yếu kém về công nghệ của ngân hàng: Ngày nay trình độ cơng nghệ là
yếu tố quan trọng trong tổ chức kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là đối với quản lý
RRTD. Vì trình độ cơng nghệ càng cao càng trợ giúp cho ngân hàng sàng lọc những
khách hàng, ngành nghề đang có mức độ rủi ro cao cũng như các cơ sở dữ liệu
thông tin về từng khách hàng. Ở các nước phát triển, công nghệ ngân hàng cũng rất
phát triển, đặc biệt là trong điều kiện có sự hỗ trợ hết sức hiệu quả của công nghệ
thông tin như ngày nay. Công nghệ ngân hàng yếu kém sẽ ảnh hưởng đến mức độ
tập trung thơng tin, khả năng phân tích, xử lý thơng tin để từ đó rút các kết luận,
nhận định phục vụ cho quản trị ngân hàng như các nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng, tình hình phân bổ tài sản, mức độ tập trung rủi ro....
- Trình độ của cán bộ ngân hàng: Nguyên nhân của RRTD có thể xuất phát
từ sự hạn chế về khả năng phân tích của cán bộ tín dụng. Nếu yếu kém về chun
mơn, các cán bộ ngân hàng khơng thể đánh giá chính xác về khách hàng và dự án

Học viên: Phạm Thanh Nga

12


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

vay vốn, từ đó sẽ làm phát sinh những hợp đồng tín dụng kém an toàn. Ngoài ra,

gắn liền với sự hạn chế về khả năng phân tích là vấn đề phẩm chất đạo đức của cán
bộ. Đánh giá rủi ro tín dụng là một công việc hết sức phức tạp. Đặc thù nghề nghiệp
buộc một cán bộ tín dụng vừa phải có trình độ và phẩm chất đạo đức tốt. Trước sự
cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ tín dụng đã sa ngã. Họ có thể hành động vơ
ngun tắc, vơ tổ chức, làm trái quy định, gây những tổn thất to lớn cho ngân hàng.

1.2.4 Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Để quản lý nhằm hạn chế RRTD, ngân hàng cần nắm bắt được thực trạng rủi
ro của hoạt động tín dụng. Xét dưới giác độ ngân hàng, RRTD được phán ánh qua
các chỉ tiêu sau đây:

1.2.4.1. Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn cho vay với tổng dư nợ
cho vay. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn cho vay được xác định theo công thức sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn

=

Nợ quá hạn cho vay
Tổng dư nợ cho vay

(Công thức 1)

Trong đó chỉ tiêu Nợ quá hạn cho vay được xác định là những khoản nợ mà
một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã đến hạn thanh tốn mà khách hàng
khơng trả được nợ. Khi đáo hạn, người vay khơng trả được nợ cho ngân hàng thì
ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ này từ nợ trong hạn sang nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh lượng đơn vị tiền tệ ngân hàng không thể thu hồi
đúng hạn trong 100 đơn vị tiền tệ ngân hàng đã cho vay tại thời điểm xác định. Việc
phân tích chỉ tiêu này sẽ giúp các ngân hàng đánh giá được RRTD, cụ thể tỷ lệ nợ

quá hạn cao thể hiện RRTD cao.
Nợ quá hạn có thể chia ra thành nhiều loại tuỳ theo tiêu thức đã chọn. Việc
phân loại nợ quá hạn có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ RRTD theo các khía
cạnh khác nhau. Đồng thời, phân loại nợ quá hạn cũng giúp tìm ra các giải pháp
trong phòng ngừa và hạn chế RRTD.
Theo khả năng thu hồi, có thể chia nợ quá hạn thành các loại cụ thể sau:
- Nợ quá hạn thông thường: là các khoản nợ đến ngày đáo hạn người vay

Học viên: Phạm Thanh Nga

13


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

chưa trả được nợ cho ngân hàng nhưng khả năng hoàn trả là khá cao, sự chậm trễ
trong việc trả nợ là ngắn.
- Nợ quá hạn khó địi (nợ khó địi): là những khoản nợ đã quá hạn một thời
gian dài mà con nợ không có khả năng thanh tốn đầy đủ nợ gốc và lãi cho ngân
hàng, khả năng thu hồi khoản nợ này là thấp và q trình thu nợ thường gặp khó
khăn, phức tạp.
- Nợ q hạn khơng có khả năng thu hồi (mất vốn): là những khoản nợ quá
hạn mà ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp để thu nợ nhưng khơng thể thu đựoc
tồn bộ hoặc một phần nợ gốc. Con nợ khơng cịn nguồn để trả nợ cho ngân hàng cả
hiện tại và trong tương lai, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là bằng không và
ngân hàng xác định khoản nợ này là không thu hồi được.
Việc phân loại các khoản nợ quá hạn theo khả năng thu hồi phản ánh rõ nhất
về mức độ RRTD của ngân hàng. Nợ q hạn khơng có khả năng thu hồi càng cao
thì nguy cơ mất vốn của ngân hàng càng lớn.
Theo thời gian quá hạn, có thể chia nợ quá hạn thành các loại cụ thể sau:

- Nợ quá hạn dưới 6 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê, thời
gian quá hạn thanh toán là dưới 6 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ
nợ gốc cho ngân hàng.
- Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm
thống kê, thời gian quá hạn thanh toán là từ 6 tháng đến 12 tháng và người vay vẫn
chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho ngân hàng.
- Nợ quá hạn trên 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê, thời
gian quá hạn thanh toán là trên 12 tháng và người vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ
nợ gốc cho ngân hàng.
Những khoản nợ quá hạn dưới 6 tháng được coi là có độ rủi ro thấp, nợ quá
hạn từ 6 - 12 tháng được coi là có độ rủi ro trung bình cịn nợ q hạn trên 12 tháng
được coi là có độ rủi ro cao, có khả năng gây mất vốn cho ngân hàng.

Học viên: Phạm Thanh Nga

14


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

1.2.4.2. Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu với tổng dư nợ cho vay. Chỉ tiêu
nợ xấu được xác định theo công thức:
Tỷ lệ nợ xấu =

Nợ xấu
Tổng dư nợ cho vay

x


(Công thức 2)

Đây là chỉ tiêu phản ánh RRTD tiếp cận với thông lệ quốc tế. So với chỉ tiêu
nợ quá hạn, chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu phản ánh chính xác hơn RRTD của NHTM bởi lẽ:
do dư nợ quá hạn và tổng dư nợ được đo tại một thời điểm nhất định nên tỷ lệ nợ
quá hạn không phản ánh đúng thực chất RRTD của ngân hàng. Tỷ lệ này chỉ phản
ánh các khoản nợ đã quá thời hạn thanh toán chứ chưa phản ánh được mức độ rủi ro
của các khoản nợ chưa đến thời hạn thanh toán. Một số các khoản nợ loại này có thể
cịn chứa đựng nhiều rủi ro hơn các khoản nợ đã được xác định là nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ xấu được xác định là tỷ lệ những khoản nợ khó có khả năng thu hồi
hoặc có dấu hiệu khó thu. Nợ xấu bao gồm các khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5, cụ
thể:
- Nhóm 3 - Nợ dưới tiêu chuẩn: Bao gồm các khoản nợ được đánh giá là
khơng có khả năng thu hồi nợ góc và lãi đúng hạn.
- Nhóm 4 - Nợ nghi ngờ: Bao gồm các khoản nợ được đánh giá là có khả
năng tổn thất cao.
- Nhóm 5 - Nợ có khả năng mất vốn: bao gồm các khoản nợ được đánh giá
là khơng có khả năng thu hồi, mất vốn.

Học viên: Phạm Thanh Nga

15


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

Hiện nay tỷ lệ nợ xấu được xem là một trong những dấu hiệu chính để đánh
giá RRTD của tổ chức tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu cũng có thể được tính cho từng loại
cho vay theo thành phần kinh tế hoặc theo thời hạn, tuỳ theo mục đích và giác độ
tiếp cận của người nghiên cứu. Nếu một NHTM có nhiều khoản nợ xấu thì ngân

hàng đó sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ mất vốn, dễ dẫn đến
mất khả năng thanh tốn, thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Nếu NHTM nào có tỷ lệ
nợ xấu cao thì sẽ bị đánh giá RRTD cao, việc phân tích chỉ tiêu này sẽ giúp các tổ
chức tín dụng đánh giá một cách đầy đủ và chính xác hơn RRTD cũng như chất
luợng của hoạt động tín dụng.

1.2.4.3. Tỷ lệ dư nợ có tài sản đảm bảo
Tỷ lệ dư nợ có TSĐB là tỷ lệ phần trăm giữa dư nợ có TSĐB với tổng dư nợ cho
vay, được xác định theo cơng thức:

Tỷ lệ dư nợ có TSĐB

=

Dư nợ có TSĐB
Tổng dư nợ

(Công thức 3)

Tài sản đảm bảo là nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng. Khi khách hàng
kinh doanh thua lỗ, dự án đầu tư không hiệu quả, khách hàng khơng cịn khả năng
trả nợ thì nếu khoản vay có TSĐB, ngân hàng có thể phát mại tài sản để thu hồi nợ,
giảm thiểu RRTD cho ngân hàng. Vì vậy tỷ lệ dư nợ có TSBĐ lớn thì rủi ro mất
vốn của ngân hàng sẽ giảm.
Theo thông lệ quốc tế, các ngân hàng cần tính tốn mức tổn thất dự kiến
trong hoạt động tín dụng để trích lập quỹ dự phòng rủi ro nhằm bù đắp tổn thất khi
xảy ra RRTD. Do ngân hàng có thể phát mại TSĐB để thu hồi vốn nên giá trị
TSBĐ được khấu trừ khi tính tốn mức trích lập dự phịng rủi ro tín dụng, trong đó
TSĐB có tính lỏng càng cao thì tỷ lệ khấu trừ càng lớn.
Như vậy để đánh giá chính xác RRTD của ngân hàng thì ngồi chỉ tiêu tỷ lệ

dư nợ có TSBĐ, cần quan tâm đến chất lượng TSĐB thông qua việc đánh giá về
chủng loại TSĐB, giá trị và khả năng phát mại tài sản.

Học viên: Phạm Thanh Nga

16


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

1.2.5 Hậu quả của rủi ro tín dụng
1.2.5.1. Đối với ngân hàng
- Rủi ro tín dụng ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng xảy ra làm cho ngân hàng không thu được gốc và lãi theo
đúng thời hạn trong hợp đồng tín dụng, thậm chí cịn làm mất vốn của ngân hàng.
Từ đó, RRTD sẽ làm giảm tốc độ quay vòng vốn của ngân hàng dẫn tới làm giảm
hiệu quả sử dụng vốn, giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Mặt khác hoạt động chủ yếu của ngân hàng là nhận tiền gửi và cho vay, nếu
các khoản tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp nhiều khó khăn trong
khi đó các khoản tiền gửi vẫn phải thanh tốn đúng hạn. Trong lúc khơng huy động
được vốn do mất uy tín, người rút tiền ngày càng tăng lên kết quả là ngân hàng gặp
khó khăn trong khâu thanh tốn.
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Như đã biết, hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và thường xuyên nhất
của NHTM, phần lớn thu nhập của ngân hàng có được là từ hoạt động tín dụng. Vì
vậy, khi xảy ra RRTD sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của ngân hàng. Khi phát
sinh các khoản nợ quá hạn, ngân hàng sẽ phải có các khoản chi phí để quản lý, giám
sát, thu nợ, chi phí thanh lý phát mại tài sản trong tương lai nếu không thu được nợ.
Đồng thời, khoản nợ này đóng băng, khơng cịn đem lại thu nhập cho ngân hàng
hoặc rất ít, khơng đáng kể, trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền

huy động được, điều này làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Mặt khác, khi xảy ra
RRTD thì khơng chỉ làm giảm thu nhập từ hoạt động tín dụng mà cịn có tác động
lớn làm giảm thu nhập từ các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng, bởi lẽ hoạt
động tín dụng có tác động rất lớn tới các hoạt động khác của ngân hàng. Nếu hoạt
động tín dụng được mở rộng, chất lượng tín dụng được nâng cao thì sẽ thúc đẩy các
hoạt động khác phát triển, ngược lại, sẽ kìm hãm các hoạt động khác làm giảm lợi
nhuận và gây ảnh hưởng xấu tới tình hình tài chính của ngân hàng.

Học viên: Phạm Thanh Nga

17


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng.
Khi xảy ra RRTD, ngồi những tổn thất về tài chính, những thiệt hại về uy
tín của ngân hàng, mất lịng tin xã hội là những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều.
Một ngân hàng có mức độ RRTD cao, cụ thể là tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu vượt
quá mức cho phép, có chất lượng tín dụng khơng tốt và gây ra nhiều vụ thất thoát lớn
thường đứng trước nguy cơ mất uy tín trên thị trường. Thơng tin về việc một ngân hàng
có mức độ rủi ro cao thường được báo chí thơng báo và lan truyền trong dân chúng,
điều này sẽ khiến cho việc huy động vốn của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn. Bên
cạnh đó, việc giảm uy tín cịn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng, càng
làm cho hoạt động của ngân hàng gặp nhiều khó khăn hơn.
Mặt khác khi ngân hàng xảy ra nhiều rủi ro trong hoạt động tín dụng sẽ gây
mất lòng tin của các đối tác trong kinh doanh cũng như của những người gửi tiền tại
NH. Khi đã mất lòng tin của đối tác kinh doanh cũng như của những người gửi tiền
thì hậu quả là thị phần của ngân hàng đó sẽ bị giảm, nguồn huy động cũng giảm và
do đó ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn. Đặc biệt nguy hiểm hơn khi những

người gửi tiền tại NH có xu hướng rút tiền ra, nếu trong trường hợp đó ngân hàng
khơng có những biện pháp để xử lý tốt thì rất có thể ngân hàng sẽ bị phá sản và sẽ
gây ảnh hưởng xấu lan ra trong toàn hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.

1.2.5.2. Đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng có vai trị rất quan trọng trong việc điều hồ vốn trong
nền kinh tế và trong sự thành công của chính sách tiền tệ quốc gia. RRTD xảy ra
làm ngân hàng chậm hoặc khơng có khả năng thu hồi được vốn để tiếp tục cho vay,
do đó RRTD làm giảm vòng quay sử dụng vốn của ngân hàng, giảm khả năng cung
cấp vốn cho nền kinh tế.

Học viên: Phạm Thanh Nga

18


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

Bên cạnh đó NHTM hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng với
tư cách là một trung tâm của đời sống kinh tế, nó có quan hệ trực tiếp và thường
xuyên với các tổ chức kinh tế, do đó khi RRTD xảy ra có thể gây tổn thất lan truyền
đến mọi tổ chức kinh tế và cá nhân khác. Người gửi tiền bị mất tiền, người vay tiền
gặp khó khăn trong việc huy động vốn dẫn tới tăng chi phí huy động vốn hoặc thiếu
vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, khó
có thể thanh toán nợ vay sẽ ảnh hưởng tới cả nền kinh tế cũng như đối với các
NHTM khác mà doanh nghiệp đó vay vốn.
Mặt khác, hoạt động ngân hàng có tính chất xã hội hố cao, hoạt động của
một ngân hàng có ảnh hưởng đến các ngân hàng khác. Khi một ngân hàng đối mặt
với tình trạng RRTD cao, sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của ngân hàng, dẫn
đến mất lòng tin của đối tác kinh doanh và của cơng chúng. Lúc đó rất có thể ngân

hàng sẽ mất khả năng thanh toán và điều này sẽ gây ra phản ứng lan truyền trong
toàn hệ thống ngân hàng, tác động xấu tới nền kinh tế trong nước.
Nhìn chung rủi ro được xem như một yếu tố không thể tách rời với quá trình
hoạt động của NHTM. Rủi ro trong cho vay cịn được nhân lên gấp đơi, bởi ngân
hàng không những phải hứng chịu rủi ro do những ngun nhân chủ quan của mình
mà cịn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Chính vì vậy cơng tác hạn chế
RRTD để bảo đảm an tồn trong hoạt động, nâng cao hiệu quả và chất lượng tín
dụng của NHTM là rất cần thiết và là một nhu cầu tất yếu khách quan.

1.3 Quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Rủi ro tín dụng ln là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng trên tồn
thế giới. Hiệu quả và chất lượng tín dụng là cơ sở chủ yếu để đánh giá chất lượng
hoạt động ngân hàng. Hoạt động tín dụng giữ vai trị quan trọng đối với bất kỳ một
ngân hàng nào. Nó luôn nhận được sự chú ý đặc biệt trong quản trị ngân hàng cũng
như trong công tác giám sát, điều chỉnh hoạt động ngân hàng của Ngân hàng trung
ương. Việc quản lý tín dụng nhằm hạn chế RRTD có ảnh hưởng rất lớn đến sự
thành công hay thất bại của ngân hàng. Trong hầu hết các trường hợp, một danh
mục cho vay được quản lý kém là tác nhân chủ yếu gây nên sự thất bại của ngân

Học viên: Phạm Thanh Nga

19


Luận văn Thạc sỹ Kinh tế

hàng và do tính chất nhạy cảm đặc biệt của loại hình doanh nghiệp này, ảnh hưởng
đến cả hệ thống tài chính và đơi khi là mở đầu một cuộc khủng hoảng kinh tế.

1.3.1. Nội dung hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của NHTM

Quản lý RRTD là sự ngăn ngừa khả năng xảy ra những tổn thất do hoạt động
tín dụng đưa lại và nếu xảy ra thì giảm thiểu tổn thất cho ngân hàng. Quản lý RRTD
nhằm hạn chế RRTD luôn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng. Hoạt động
quản lý RRTD của NHTM gồm các bước sau:

Xây dựng cơ chế, chính sách quản lý RRTD

Tổ chức bộ máy, xây dựng các quy trình, quy định
để triển khai thực hiện chính sách quản lý RRTD
Giám sát, kiểm tra việc thực hiện và tn thủ quy
trình, chính sách về quản lý RRTD

Đánh giá hiệu quả, tác động của chính sách và các
biện
pháp
quản
lýroRRTD
Sơ đồ 1.1: Các
bước
quản
lý rủi
tín dụng của NHTM
1.3.1.1. Xây dựng cơ chế, chính sách quản lý rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trong ngân hàng địi hỏi phải
có sự kết hợp và chỉ đạo chung thơng qua chính sách, quy tắc và sự kiểm soát chung
để đảm bảo kiểm soát và hạn chế được RRTD.

Học viên: Phạm Thanh Nga

20




×