Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN Môn KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.99 KB, 14 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
----------

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn:
KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ
KHI THAM GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

Mã số hồ sơ số:

: 01 (Tạ Văn Trường – Chứa mại
dâm)

Diễn lần

: 01

Ngày diễn

: 24/09/2022

Giáo viên hướng dẫn

: ..............................................................

Họ và tên

: TRỊNH VŨ NHẬT MAI

Ngày sinh



: 19/12/1999

Lớp

: LUẬT SƯ 24.1M (THỨ 7, CN TẠI HÀ NỘI)

Số báo danh

: 195

Nhóm

: 01

Hà Nội, ngày 24 tháng 09 năm 2022


MỤC LỤC
PHẦN CHUẨN BỊ..........................................................................................................................2
I.

TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN................................................................................................2

II.

KẾ HOẠCH XÉT HỎI ĐỂ BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TẠ VĂN TRƯỜNG......................2

III.


BÀI BÀO CHỮA BẢO VỆ BỊ CÁO TẠ VĂN TRƯỜNG....................................................6

1.

QUAN ĐIỂM BÀO CHỮA......................................................................................................6

2.

BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TRƯỜNG........................................................7

PHẦN NHẬN XÉT TẠI LỚP.......................................................................................................12

1


PHẦN CHUẨN BỊ
I.

TĨM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngơ Văn Thành (sinh năm 1984 – HKTT: Khu phố Nguyễn Giáo – phường
Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) là chủ Cơ sở kinh doanh Tẩm quất thư
giãn Ha Na. Cuối tháng 06/2018 Thành thuê Tạ Văn Trường (sinh năm 1988 – HKTT:
thôn Phú Đa, xã Công Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) làm quản lý với mức lương
là 4.000.000 đồng/một tháng. Thành giao cho Trường trách nhiệm quản lý, điều hành
cơ sở kinh doanh vào buổi tối hàng ngày. Thành và Trường không giao kết hợp đồng
lao động bằng văn bản.
Vào khoảng 20 giờ 45 phút ngày 05/07/2018, có ba khách tự khai là Nguyễn
Văn Thọ (sinh năm 1986), Nguyễn Trần Trung (sinh năm 1987) và Nguyễn Văn Tuấn
(sinh năm 1990) đều ở tại thị trấn Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh đến quán Ha Na gặp

Trường đặt vấn đề mua dâm, Trường đồng ý và thu tiền phòng của ba người là
450.000 đồng. Trường gọi Phùng Kim Liên (sinh năm 1990 – HKTT: Khu 1, Hương
Xạ, Hạ Hòa, Phú Thọ) là nhân viên tại quán bán dâm cho Trung tại phòng 203.
Trường tiếp tục gọi cho một người tên Bắc (số điện thoại 0974. 061.663) bảo cho hai
nhân viên đến quán tẩm quất Ha Na để bán dâm. Sau đó, Lê Thị Thanh Tâm (sinh năm
1995 – HKTT: Đội 6, Ninh Thắng, Hoa Lư, Ninh Bình) đến bán dâm cho Thọ tại
phòng 202. Lúc này, Tuấn vẫn ở phòng 201 để đợi gái bán dâm đến.
Khi Trung với Liên, Thọ với Tâm đang thực hiện hành vi mua bán dâm thị bị
Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang thu giữ 02 bao cao su
đã qua sử dụng; tiền VNĐ: 1.500.000 đồng và 02 điện thoại di động (BL 44-47).
Quá trình điều tra Tạ Văn Trường đã thành khẩn khai nhận hành vi như đã nêu
trên. Ngồi ra, Trường cịn khai: Trường thực hiện việc chứa mại dâm theo chỉ đạo của
Thành và số điện thoại của người tên Bắc là do Thành đưa cho Trường (BL 137 –
158).
Tạ Văn Trường bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/07/2018. Ngày 11/7/2018, Cơ
quan CSĐT ra quyết định khởi tố bị can và lệnh tạm giam đối với Tạ Văn Trường.
Hiện bị can đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Ngày
18/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã ra quyết định truy tố Tạ Văn
Trường về tội "Chứa mại dâm" áp dụng theo điểm d Khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình
sự.

2


II.
KẾ HOẠCH XÉT HỎI ĐỂ BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TẠ VĂN
TRƯỜNG
STT
Câu hỏi
Mục đích hỏi

I.
1.

2.

Anh Trường cho biết trước khi đến Làm rõ hồn cảnh gia đình của bị
làm tại qn của ơng Thành, anh có cáo, mục đích làm việc tại qn của
làm cơng việc gì khơng?
Thành để chứng tỏ bị cáo chỉ đi làm
tạm vì khơng xin được việc đúng
Anh Trường cho biết hoàn cảnh gia chuyên ngành, khẳng định khơng
đình? Ai là người lao động chính muốn làm việc lâu dài hay trục lợi cá
nhân từ công việc này
trong gia đình

3.

Anh Trường cho biết lý do tại sao
đang làm ở phịng khám X-quang lại
chuyển đến làm cơng việc không liên
quan đến chuyên môn?

4.

Anh Trường cho biết bản thân đã từng Làm rõ bị cáo là người có nhân thân
có tiền án, tiền sự, xử phạt hành chính tốt, phạm tội lần đầu
hay xử lý kỷ luật bao giờ chưa?

5.


Anh Trường cho biết anh và anh
Thành có ký hợp đồng lao động hay
có văn bản quy định cụ thể về các
công việc phụ trách và tiền lương tại
quán Ha Na khơng?

6.

Anh Trường cho biết anh có được ơng Làm rõ sự dẫn dắt, yêu cầu của
Thành hướng dẫn cụ thể các công việc Thành với cương vị người làm chủ
tại quán hay không?
ra lệnh cho người làm thuê (là bị
cáo) thực hiện công việc chứ bị cáo
không thể tự làm khi chưa quen.

7.

Anh Trường được trả lương như thế Làm rõ ngồi khoản lương được
nào cho cơng việc nêu trên
thỏa thuận, bị cáo không được
hưởng bất kỳ khoản lợi ích nào từ
Anh Trường cho biết số tiền việc chứa mại dâm, do đó khơng có

8.
3

Hỏi bị cáo Tạ Văn Trường

Làm rõ việc bị cáo chỉ là người làm
thuê cho Thành, chỉ thực hiện các

công việc theo lời dặn chứ khơng có
quyền tự quản lý hay điều hành cơng
việc kinh doanh theo ủy quyền của
chủ quán.


STT

Câu hỏi

Mục đích hỏi

150k/phịng sau khi thu được sẽ nộp lí do gì để tự thực hiện hành vi phạm
cho ai? Anh Trường có được phân tội mà khơng phải do thực hiện
chia gì từ số tiền này hay khơng?
nhiệm vụ của chủ quán hướng dẫn.
9.

Anh Trường cho biết anh Thành có
dặn anh về việc cho nhân viên bán
dâm hay khơng? Tại sao anh Trường
lại biết về quy trình gọi người đến bán
dâm và thu tiền như khi bị bắt quả
tang?

Làm rõ việc ơng Thành có đề cập
trực tiếp hay gián tiếp đến việc cho
nhân viên bán dâm cho khách theo
cách thức mà bị cáo khai nhận hay
không.


10.

Anh Trường cho biết tại sao khi có
khách hàng đến mua dâm anh Trường
lại gọi cho bà Bắc dù không quen
biết?

Làm rõ việc bị cáo làm theo hướng
dẫn của Thành, không tự bàn bạc với
người khác vì khơng quen biết với
người mơi giới mại dâm.

11.

Anh Trường cho biết trong ngày Khẳng định số lượng người bán dâm
5/7/2018, trong ca làm của mình có để xác định lại khung hình phạt.
bao nhiêu người đến mua dâm, bao
nhiêu người đến bán dâm?

II.

4

Hỏi ông Ngô Văn Thành

12.

Ơng Thành có biết cơ sở cơ sở kinh
doanh dịch vụ xoa bóp có trách nhiệm

bố trí phịng nam riêng và nữ riêng khi
thực hiện dịch vụ xoa bóp khơng?

Làm rõ trách nhiệm của ông Thành
trong việc quản lý quán. Nếu khơng
biết thì vi phạm quy định về kinh
doanh, nếu biết mà vẫn để tình trạng
tiếp tục diễn ra thì thể hiện hàm ý
thực hiện hành vi chứa mại dâm.

13.

Ông Thành cho biết ông trả lương cho
anh Trường thế nào? Ngồi khoản tiền
lương có thêm bất kỳ thu nhập nào
khơng?

Làm rõ ngồi khoản lương được
thỏa thuận, bị cáo khơng được
hưởng bất kỳ khoản lợi ích nào từ
việc chứa mại dâm, do đó khơng có
lí do gì để tự thực hiện hành vi phạm
tội mà không phải do thực hiện
nhiệm vụ của chủ quán hướng dẫn.


STT

Câu hỏi


Mục đích hỏi

14.

Ơng Thành cho biết cách thức quản lý Làm rõ việc ông Thành bắt buộc
số lượng khách và thu tiền phòng từ phải nắm rõ hoạt động kinh doanh
anh Trường?
tại qn chứ khơng thể giao tồn bộ
cho Trường, do đó phải biết đến việc
quán có chứa mại dâm.

15.

Ơng Thành cho biết nếu qn có nhiều
khách một lúc thì sẽ xử lý như thế nào
do chỉ có 1 nhân viên là Liên? Ơng
Thành có dặn anh Trường cách xử lý
khi có nhiều khách đến một lúc
khơng?

16.

Ơng Thành cho biết ai là người dán số Làm rõ mối quan hệ với bà Bắc.
điện thoại 0974. 061.663 tại quầy lễ Trường làm ở đây chưa đủ lâu để có
tân?
thể biết số điện thoại của một người
lạ.
Ơng Thành cho biết ơng có quen biết Làm rõ mối quan hệ với Nguyên –
với vợ chồng bà Nguyên ông Tùng Tùng và Tâm xem có mối quan hệ
hay khơng?

móc nối cung cấp người bán dâm
hay khơng.

17.

Làm rõ việc ơng Thành có ý định gọi
nhân viên từ nơi khác đến hành nghề
tại quán mình, từ đó làm rõ được là
quán nhất định phải có móc nối
nguồn nhân viên ở nơi khác chứ
khơng phải chỉ sử dụng nhân viên tại
quán.

III. Hỏi chị Phùng Thị Kim Liên
18.

Chị Liên cho biết chị làm việc tại quán Làm rõ thời gian Liên có thể quen
Ha Na từ bao giờ?
biết và nghe theo sự sắp xếp của bị
cáo Trường. Nếu là người mới quen
và khơng có sự hướng dẫn/cho phép
của chủ qn thì 2 người này khơng
thể trao đổi về việc để Liên bán dâm
cho khách đến quán.

19.

Ông Thành có ký hợp đồng lao động, Làm rõ thu nhập của Liên khi làm
nêu rõ các công việc cần thực hiện và việc tại quán, có phải phân chia thu
tiền lương cho chị Liên hay không?

nhập từ việc bán dâm cho ông Thành
không.
Chị Liên cho biết việc chị Liên thực Làm rõ sự hướng dẫn, chỉ đạo của

20.
5


STT

Câu hỏi

Mục đích hỏi

hiện bán dâm tại cơ sở kinh doanh của ơng Thành.
ơng Thành có thơng báo cho ơng
Thành biết không?
21.

Chị Liên cho biết số tiền chị Liên Làm rõ sự tham gia, hưởng lợi của
nhận được từ khách mua dâm có phải ơng Thành và bị cáo trong hoạt động
chia lại cho anh Trường hay ông này
Thành không?

22.

Vào ngày bị bắt quả tang, chị Liên có Khẳng định số lượng người bán dâm
biết người bán dâm nào khác khơng?
để xác định khung hình phạt


IV. Hỏi chị Phùng Thị Kim Liên
23.

Chị Tâm cho biết chị có làm việc cho Làm rõ mối quan hệ với bị cáo
ai hay hành nghề tự do?

24.

Chị Tâm cho biết chị có được bà Làm rõ vai trị của Ngun, nếu có
Ngun u cầu bán dâm cho khách thì có cơ sở khẳng định Ngun là
khơng?
Bắc và có móc nối với ơng Thành.

25.

Chị Tâm cho biết số tiền bán dâm có Làm rõ sự tham gia, hưởng lợi của
phải chia cho bị cáo và ai khác không? ông Thành và bị cáo trong hoạt động
này
Chị Tâm cho biết chị Tâm có quen Làm rõ mối quan hệ giữa người bán
biết anh Trường và ông Thành từ dâm và bị cáo, nếu không quen biết
trước hay khơng?
thì có cơ sở khẳng định bị cáo khơng
thể tự biết gọi người khác đưa Tâm
đến quán.

26.

III.

BÀI BÀO CHỮA BẢO VỆ BỊ CÁO TẠ VĂN TRƯỜNG


1.

Quan điểm bào chữa
Căn cứ hồ sơ vụ án, cịn có rất nhiều tình tiết cũng như dấu hiệu phạm
tội của người khác chưa được làm rõ, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Ngoài ra,
Cáo trạng của VKS chưa làm rõ được nguyên nhân, mục đích phạm tội của bị
cáo Trường, xác định chưa đúng tình tiết định khung hình phạt dành cho hành

6


vi của bị cáo. Do đó, tơi đề nghị HĐXX cân nhắc và ra quyết định trả hồ sơ để
VKS tiến hành điều tra bổ sung.
2.

Bản luận cứ bào chữa cho bị cáo Trường
Kính thưa Hội đồng xét xử! Kính thưa vị đại diện Viện kiểm sát! Thưa
các Luật sư đồng nghiệp cùng tồn thể q vị có mặt tại phiên tịa hơm nay!
Tơi là Luật sư Trịnh Vũ Nhật Mai, hiện đang công tác tại Công ty luật
TNHH X, Đồn Luật sư thành phố Hà Nội. Hơm nay, tơi có mặt tại phiên tịa
này với tư cách là người bào chữa cho bị cáo là ông Tạ Văn Trường trong vụ án
“Chứa mại dâm”.
Lời đầu tiên, tôi trân trọng cảm ơn Hội đồng xét xử vì đã tạo điều kiện
cho tôi được tiếp cận, nghiên cứu hồ sơ vụ án và tham dự phiên tịa hơm nay để
bào chữa cho ơng Tạ Văn Trường.
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, các lời khai và chứng cứ đã được
thẩm định tại phiên tòa, sau khi nghe quan điểm của vị đại diện VKS, tơi xin
được trình bày quan điểm của mình như sau:
Theo Cáo trạng số 118/CT-VKS-P1 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc

Ninh (“VKSND tỉnh Bắc Ninh”), bị cáo Tạ Văn Trường bị truy tố về tội
“Chứa mại dâm” theo điểm d khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017 (“BLHS”).
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ, lời khai có trong hồ sơ vụ án, qua q
trình xét hỏi cơng khai tại phiên tịa ngày hơm nay, tơi nhận thấy có các vấn đề
ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xác định sự thật khách quan và tính tồn diện
của vụ án trong q trình điều tra, truy tố của các cơ quan có thẩm quyền, cụ
thể như sau:

1.

Vi phạm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong hoạt động
điều tra, truy tố

1.1.

Điều tra viên vi phạm quy định về đối chất

Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
(“BLTTHS”), biên bản đối chất được xem là nguồn chứng cứ giải quyết vụ án. Theo
khoản 1 Điều 189 BLTTHS, trước khi tiến hành đối chất, Điều tra viên phải thông báo

7


VKSND cùng cấp để cử Kiểm sát viên đến kiểm sát việc đối chất, nếu Kiểm sát viên
vắng mặt thì phải ghi rõ vào biên bản đối chất.
Tuy nhiên, tại Biên bản đối chất giữa bị cáo Trường và ông Thành ngày
10/08/2018 (BL 48-52), trong số những người tiến hành đối chất khơng có Kiểm sát
viên và Điều tra viên cũng không ghi nhận sự vắng mặt của Kiểm sát viên tại Biên bản

này. Từ đó dẫn đến biên bản đối chất khơng có sự kiểm sốt của kiểm sát viên. Do dó,
Biên bản đối chất này đã vi phạm nghiêm trọng quy định của BLTTHS về thủ tục,
trình tự đối chất và không thể coi là nguồn chứng cứ để giải quyết vụ án.
Trên đây là quan điểm bào chữa của luật sư, một lần nữa, tơi kính đề
nghị HĐXX xem xét các đề nghị của tôi để từ đó đưa ra một bản án thấu tình
đạt lý, thể hiện sự cơng minh của các cơ quan có thẩm quyền xét xử, đồng thời
thể hiện được tính nhân đạo cao, giúp cho bị cáo Tạ Văn Trường có điều kiện
thay đổi nhận thức, sửa chữa lỗi lầm của mình, trở thành người con tốt của gia
đình, cơng dân tốt của xã hội.
1.2.

Cơ quan cảnh sát điều tra vi phạm quy định về lấy lời khai của anh
Nguyễn Văn Huy
Cụ thể, có 02 Biên bản lấy lời khai của anh Nguyễn Văn Huy cùng được
lập vào lúc 09h00 ngày 15/09/2018 nhưng bởi hai cán bộ điều tra và điều tra
viên khác nhau (BL 35-40). Tại Biên bản ghi lời khai thứ nhất được thực hiện
bởi cán bộ điều tra Ngô Đức Hạnh (BL 35-37) ghi nhận địa điểm lấy lời khai là
tại quán Karaoke – mát xa Thống Nhất, không ghi nhận giờ kết thúc việc lấy lời
khai. Tại Biên bản ghi lời khai thứ 2 được thực hiện bởi Điều tra viên Vương
Đức Hoàng và cán bộ điều tra Nguyễn Việt Hưng (BL 38-40), không ghi nhận
địa điểm lấy lời khai và thời gian kết thúc việc lấy lời khai.
Điều 187 BLTTHS quy định “Biên bản ghi lời khai của người làm
chứng được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này.”
Điều 178 BLTTHS quy định “Khi tiến hành hoạt động điều tra, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản theo quy định tại Điều 133
của Bộ luật này.”
Khoản 1 Điều 133 BLTTHS quy định “Biên bản ghi rõ địa điểm, giờ,
ngày, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, nội
dung của hoạt động tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người


8


tham gia tố tụng hoặc người liên quan đến hoạt động tố tụng, khiếu nại, yêu
cầu hoặc đề nghị của họ.”
Theo đó, cơ quan cảnh sát điều tra đã vi phạm quy định về tố tụng,
không đủ điều kiện là nguồn chứng cứ để giải quyết vụ án, do đó ảnh hưởng
đến việc xác định sự thật khách quan trong quá trình điều tra và truy tố.
1.3.

Vi phạm của VKSND tỉnh Bắc Ninh trong việc phân công thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử
Theo Quyết định phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự ngày 07/07/2018, VKSND tỉnh Bắc Ninh
là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát giải quyết (sau đây gọi tắt là
“thực hành quyền công tố”).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 239 BLTTHS, trường hợp vụ án do
VKS cấp trên thực hành quyền công tố, chậm nhất là 02 tháng trước khi kết
thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới
cùng cấp với Tịa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án để cử Kiểm sát viên
tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra vụ án,
VKSND tỉnh Bắc Ninh khơng có thơng báo cho VKSND thị xã Từ Sơn để xử
KSV tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án, cũng như khơng có quyết định cử KSV
thực hành quyền công tố, dẫn đến việc KSV của VKSND thị xã Từ Sơn không
tham gia nghiên cứu, khơng tiếp xúc tồn diện với hồ sơ vụ án, ảnh hưởng đến
việc xem xét, đánh giá các tài liệu, hồ sơ, tình tiết khách quan trong quá trình
giải quyết vụ án.

2.


Cơ quan tiến hành tố tụng chưa điều tra, làm rõ được nội dung vụ án, cịn
có những tình tiết chưa rõ ràng, đánh giá chưa đúng sự thật khách quan
trong quá trình lấy lời khai

2.1.

Chưa làm rõ được chính xác thời điểm vào làm việc của Liên và Trường
Theo các Biên bản ghi lời khai, ông Thành khai bị cáo Trường đến làm
việc vào giữa tháng 6 năm 2018, Liên đến làm việc vào cuối tháng 6 năm 2018
(BL 42-44). Tuy nhiên, tại BL 88- 90, Liên lại khai khi đang làm thì Trường xin
vào làm quản lý. Từ đó, có sự mâu thuẫn giữa lời khai Liên và Thành về mốc
thời gian vào làm việc. Cơ quan tiến hành tố tụng chưa làm rõ được tình tiết này
để xác định Liên hay Trường vào làm trước. Ngồi ra, Liên cịn khai mình là
gái bán dâm tự do (BL 89).

9


Từ đó, việc khơng xác định được việc được chính xác thời điểm bắt đầu
làm việc của bị cáo Trường và Liên tại quán Ha Na gây ảnh hưởng đến việc xác
định liệu có hành vi mại dâm diễn ra tại quán Ha Na trước khi Trường vào làm
việc tại đây hay khơng.
2.2.

Chưa làm rõ vai trị của người phụ nữ tên Bắc và mối liên hệ của Bắc với
bị cáo Trường
Theo biên bản lấy lời khai, ông Thành khai khơng biết Bắc là ai và
khơng có số điện thoại của Bắc, cũng không dán số điện thoại tại quầy của quán
Ha Na. Tuy nhiên, bị cáo Trường khai số điện thoại của Bắc là do bị cáo thấy
được dán trên quầy lễ tân và được ông Thành hướng dẫn là nếu có khách vào

mua dâm thì gọi vào số điện thoại này (BL 94-96). Cơ quan điều tra đã tiến
hành việc đối chất giữa ông Thành và bị cáo, tuy nhiên các bên vẫn giữ nguyên
lời khai, không giải quyết được sự mâu thuẫn liên quan đến vai trò và xuất xứ
của người tên Bắc. Tuy nhiên, cơ quan điều tra lại không tiếp tục điều tra, xác
minh về người này để tìm kiếm thêm các tình tiết quan trọng của vụ án.
Do cơ quan điều tra không tiến hành xác minh về thân phận của người
tên Bắc, do đó khơng làm rõ được lý do tại sao Trường lại có được số điện thoại
của người này, tại sao bị cáo lại biết phải gọi cho người này khi có khách tới
mua dâm khi mới vào làm tại đây chưa đầy 1 tháng, chưa từng gặp trực tiếp hay
biết người này là ai, ở đâu.

3.

Cáo trạng của Viện Kiểm Sát có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, chưa làm rõ
được nguyên nhân, động cơ và mục đích phạm tội của bị cáo Tạ Văn
Trường về tội chứa mại dâm theo quy định Điểm d Khoản 2, Điều 327
BLHS

3.1.

Có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm đối với ông Ngô Văn Thành
Tội phạm chứa mại dâm được thể hiện ở hành vi chứa mại dâm với biểu
hiện của hành vi là cho thuê, cho mượn địa điểm như nơi ở, nơi làm việc, nhà
hàng, quán trọ để thực hiện hành vi mại dâm.Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3
Nghị định số 178/2004/NĐ-CP, "cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện để
hoạt động mại dâm" là hành vi của tổ chức, cá nhân có quyền quản lý, chiếm
hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản cho thuê, cho mượn để hoạt động mại dâm.
Người đứng tên chủ hộ kinh doanh quán Ha Na là ơng Thành, bị cáo Trường
hồn tồn khơng có quyền chiếm hữu, sử dụng hay định đoạt địa điểm trên để


10


chứa mại dâm mà chỉ là người làm thuê. Ngoài ra, việc bị cáo Trường thực hiện
các công việc hàng ngày tại qn Ha Na khơng có văn bản nào ghi nhận cụ thể,
do đó khơng có căn cứ để xác nhận lời khai của ông Thành về việc dặn Trường
không được buôn bán, sử dụng ma tuý và hoạt động mại dâm là chính xác (BL
118-122).
Ngồi ra, theo lời khai của Thọ tại BL 77, Thọ khai thỉnh thoảng có đến
quán Hana mua dâm. Trong khi đó Liên lại khai Liên bán dâm lần đầu tại quán
Ha Na. Tình tiết này có ý nghĩa quan trọng để xác định xem quán Hana có hoạt
động chứa mại dâm trước khi bị cáo Trường đến làm việc hay không. Tuy
nhiên, cơ quan điều tra không xác minh lời khai này của Thọ, không làm rõ
được hoạt động mại dâm tại quán Ha Na trước thời điểm Trường vào làm,
không xác định được vai trị của ơng Thành trong việc quản lý quán trước khi
thuê Trường làm việc. Nếu có hoạt động mại dâm xảy ra tại quán Ha Na dưới
sự quản lý của ông Thành trước thời điểm Trường đến làm việc, ông Thành
cũng phải bị truy tố về tội “chứa mại dâm” theo Điều 327 BLHS.
3.2.

Chưa làm rõ được nguyên nhân, mục đích phạm tội của bị cáo
Trong tất cả các lời khai của Trường đã nêu rõ việc bị cáo gọi điện cho
Bắc và gọi Liên ra tiếp khách đều được thực hiện dưới sự hướng dẫn từ trước
của ơng Thành. Ngồi ra, bị cáo chỉ thu phí phịng mát xa là 150.000đ/phịng
theo lời dặn của ơng Thành và tiền này sẽ được nộp lại tồn bộ cho ơng Thành.
Bị cáo cũng không hề tham gia vào việc thỏa thuận mua bán dâm giữa Trung
với Liên và Thọ với Tâm. Việc thỏa thuận mua bán dâm giữa 04 người trên là
giữa bên mua dâm và bên bán dâm, bị cáo không được phân chia lợi nhuận.
Mặt khác, công việc này Trường mới nhận khoảng 02 tuần, (từ ngày
20/06/2018 đến 05/07/2018), có thể hiểu rằng tồn bộ q trình hoạt động tại

quán đều phải dựa vào sự chỉ đạo của chủ quán, bản thân Trường rất khó có thể
tự làm một cách nhuần nhuyễn, đúng quy trình hoạt động nếu khơng có sự
hướng dẫn, chỉ đạo từ trước của ơng Thành, nhất là khi bị cáo vào chị Liên, chị
Tâm đều khơng quen biết nhau từ trước và khơng có phương thức liên lạc trực
tiếp với nhau mà phải thông qua trung gian. Theo lẽ thông thường, chủ quán
phải biết và kiểm soát được hoạt động thường ngày của quán và nhân viên (ở
đây chỉ có 02 nhân viên là Trường và Liên). Vì vậy, lời khai của ơng Thành với
vai trị là chủ qn về việc khơng chỉ đạo cho Trường, không biết việc Liên
hành nghề bán dâm tại quán, có đến quán tại lúc các đối tượng thực hiện mua
bán dâm nhưng khơng biết gì là khơng hợp lý.

11


Như vậy, mặc dù bị cáo đã có hành vi vi phạm pháp luật, tuy nhiên, vụ
án xảy ra không hồn tồn xuất phát trực tiếp từ ý chí chủ quan của bị cáo. Bị
cáo không được hưởng bất cứ lợi ích nào từ việc chứa mại dâm nói trên, do đó
khơng có lý do gì để tự thực hiện hành vi phạm tội mà khơng có sự hướng dẫn
từ trước của ơng Thành.
3.3.

Tình tiết định khung “chứa mại dâm từ 04 người trở lên” là chưa phù hợp
với tình tiết khách quan của vụ án
Điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS quy định như sau:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
05 năm đến 10 năm:

d. Chứa mại dâm 04 người trở lên.”
Theo từ điển Tiếng Việt thì “mại” có ý nghĩa là “bán”, cịn “mãi” có ý
nghĩa là “mua”, do vậy, “chứa mại dâm” phải được hiểu là “chứa bán dâm”.

Theo đó, tình tiết định khung “chứa mại dâm 04 người trở lên” được quy định
tại điểm d khoản 2 Điều 327 của BLHS được hiểu là áp dụng đối với người bán
dâm. Tức là chỉ áp dụng tình tiết định khung này đối với hành vi chứa 04 người
bán dâm trở lên.
Tuy nhiên, căn cứ vào bản Kết luận điều tra số 54/KLĐT-PC02 ngày
17/09/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Bắc Ninh; bản Cáo
trạng số 118/CT-VKS-P1 ngày 18/10/2018 của VKSND tỉnh Bắc Ninh cũng
như căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thì tại Biên bản bắt
người phạm tội quả tang ngày 05/07/2018 (BL 28-33) và quá trình tham gia xét
hỏi tại phiên tịa ngày hơm nay, tất cả hồ sơ, tài liệu và lời khai của bị cáo và
những người có liên quan đều thể hiện rằng số lượng người bán dâm là 02
người (bao gồm Phùng Thị Kim Liên và Lê Thị Thanh Tâm).
Như vậy, VKS truy tố bị cáo về tội chứa mại dâm từ 04 người trở lên
theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS là khơng phù hợp với các
tình tiết khách quan của vụ án.

4.

Kiến nghị
Từ những nhận định nêu trên, tơi nhận thấy q trình điều tra, truy tố vụ
án có nhiều vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; không cung cấp được nguồn

12


chứng cứ về nguyên nhân, mục đích và điều kiện phạm tội tại phiên tồ; có căn
cứ cho rằng việc thực hiện hành vi chứa mại dâm cịn có sự tham gia của chủ
quán Ha Na là ông Thành. Từ đó, tơi đề nghị Hội đồng xét xử xem xét ra quyết
định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung theo quy định tại điểm a, c, d khoản
1 Điều 280 BLTTHS.

Một lần nữa, tơi kính đề nghị HĐXX xem xét các đề nghị của tơi, từ đó
đưa ra một thực hiện việc điều tra, truy tố đúng người, đúng tội, không bỏ lọt
tội phạm, thể hiện sự cơng minh của các cơ quan có thẩm quyền xét xử.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
PHẦN NHẬN XÉT TẠI LỚP

13



×