Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Những vấn đề lí luận về cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường vai trò điều tiết của nhà nước để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.84 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG.
CÁC YẾU TỐ TẠO THÀNH CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG.........................2
1.1.

Lý luận về cơ chế thị trường........................................................2

1.1.1.

Khái niệm cơ chế thị trường.....................................................2

1.1.1.

Hình thức..................................................................................2

1.2.

Kinh tế thị trường.........................................................................4

1.2.1.

Khái niệm nền kinh tế thị trường.............................................4

1.2.2. Kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước..........................5
1.3. Ưu, nhược điểm của thị trường và cơ chế thị trường...................6
1.2.1. Ưu điểm.......................................................................................6
1.2.2. Những khuyết tật của cơ chế kinh tế thị trường:.........................7
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ
NƯỚC ĐỂ KHẮC PHỤC NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA NỀN KINH


TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP...................9
2.1. Thực trạng vai trò điều tiết của nhà nước.....................................9
2.2. Một số giải pháp để khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị
trường.....................................................................................................14
2.2.1. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần.....................................................................................................14
2.2.2. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, tạo lập
đồng bộ các loại thị trường..................................................................15

i


2.2.3. Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà
nước.....................................................................................................16
2.2.4. Nhà nước thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng
kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội....................................17
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................19

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời gian vừa qua ở Việt Nam, cải cách các chính sách kinh tế đã
có ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng và cấu trúc lại nền kinh tế. Sự kết hợp
giữa các biện pháp ổn định hoá kinh tế và các biện pháp tự do hố, giảm bớt
sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ Trung ương đối với các hoạt động kinh
tế dựa trên thước đo của thị trường, thực hiện chính sách mở cửa trong quan
hệ kinh tế quốc tế đã tạo nên những chuyển biên rõ nét về tốc độ tăng trưởng
kinh tế và ổn định môi trường kinh tế vĩ mơ. Cùng với các chính sách cải cách

đó, hoạt động của nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi
đáng kể.
Tuy nhiên, triển vọng phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới ở
Việt Nam có lẽ sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết các vấn đề cơ bản
mà nội dung của chúng có liên quan đến chính sự tiếp tục q trình cơ cấu lại
nền kinh tế. Vấn đề nổi bật trong số đó là xác định vai trị hợp lý của nhà
nước trong nền kinh tế. Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang một nền kinh tế thị trường, Việt Nam đang mong muốn tìm
kiếm cho mình một nền kinh tế mà trong đó có sử dụng được các tác dụng
tích cực và hạn chế những khiếm khuyết của cả hai yếu tố thị trường và sự
can thiệp của nhà nước đối với hai mặt tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công
bằng xã hội. Do đó, sau một thời gian tìm hiểu tác giả đã lựa chọn đề tài “
Những vấn đề lí luận về cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường vai
trò điều tiết của nhà nước để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế
thị trường Việt Nam”.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG.
CÁC YẾU TỐ TẠO THÀNH CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.

Lý luận về cơ chế thị trường

1.1.1. Khái niệm cơ chế thị trường
Những năm gần đây khi nền kinh tế nước ta bước từ nền kinh tế quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế mở cửa. Thì cũng là lúc chúng ta làm quen và sử
dụng khái niệm về thị trường. Thị trường được hiểu theo nghĩa hẹp đó là nơi

gặp gỡ giữa người mua và người bán để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Nhưng
để hiểu theo nghĩa rộng hơn thì thị trường là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hoá
và dịch vụ theo yêu cầu của quy luật sản xuất và lưu thơng hàng hố và tổng
hợp các quan hệ lưu thơng hàng hố và lưu thông tiền tệ.
Cơ chế thị trường là guồng máy hoạt động của nền kinh tế hàng hoá, cơ
chế thị trường tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thơng hàng hố theo
những u cầu khách quan của các quy luật của kinh tế vốn có của nó như:
quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quyluật lưu thơng tiền
tệ. Có thể nói cơ chế thị trường là tổng thể hữu cơ giữa các nhân tố kinh tế:
cung cầu, giá cả trong đó người sản xuất và người tiêu dùng tác động lẫn nhau
thông qua thị trường để xác định được ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì ?
như thế nào? và cho ai ?
1.1.1. Hình thức
Cơ chế chỉ huy tập trung
Thực chất là cơ chế mệnh lệnh, là một xã hội Chính phủ đề ra mọi
quyết định về sản xuất và tiêu dùng. Cơ quan quản lý nhà nước sẽ quyết định
sẽ sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Sau đó các hướng
dẫn cụ thể sẽ được phổ biến tới các hộ sản xuất gia đình, các doanh nghiệp.

2


Quá trình như vậy là một nhiệm vụ rất phức tạp và không tồn tại một
nền kinh tế mệnh lệnh hồn chỉnh, trong đó tất cả các quyết định về phân bổ
nguồn lực được tiến hành theo phương pháp này. Tất nhiên việc xây dựng
một kế hoạch như vậy, trong đó khơng chỉ xác định chính xác số lượng từng
loại sản phẩm phải sản xuất mà còn ấn định cả giá cả, theo đó các sản phẩm
này được bán cho người tiêu dùng là một công việc khổng lồ. Chỉ cần nhà
quản lý phạm sai lầm là có thể dẫn đến tình trạng dư thừa hay thiếu hụt to lớn
một loại sản phẩm nào đó. Trước năm 1986, Chính phủ Việt Nam đã áp dụng

cơ chế này.
Cơ chế thị trường tự do
Cơ chế thị trường tự do, các đơn vị cá biệt được tự do tác động lẫn
nhau trên thị trường. Nó có thể mua sản phẩm từ các đơn vị kinh tế này hoặc
bán sản phẩm cho các đơn vị kinh tế khác. Trong một thị trường, các giao
dịch có thể thơng qua trao đổi bằng tiền hay trao đổi bằng hiện vật (hàng đổi
hàng). Việc hàng đổi hàng gặp khơng ít phức tạp, đơi khi khơng có hàng cần
để trao đổi lẫn cho nhau; ví dụ, có khi khó tìm ra người đổi xe máy lấy một
cây đàn. Do đó việc đưa tiền tệ vào làm vật trung gian cho sự trao đổi đã làm
thuận lợi rất nhiều cho những cuộc giao dịch. Trong một nền kinh tế thị
trường hiện đại, người ta mua hoặc bán các sản phẩm và dịch vụ thông qua
tiền tệ.
Trong cơ chế thị trường, vấn đề giá cả đã quyết định việc mua cái và
bán cái gì. Việc phân bổ nguồn lực thơng qua hệ thống giá cả. Quá trình điều
chỉnh giá cả sẽ khuyến khích xã hội phân bố lại các nguồn lực để phản ánh
được sự khan hiếm đã tăng lên của một loại hàng hóa nào đó.
Thị trường mà nhà nước không can thiệp vào gọi là thị trường tự do.
Các cá nhân trên thị trường tự do theo đuổi quyền lợi của riêng mình bằng
cách cố gắng làm càng nhiều cho mình càng tốt tùy theo khả năng của mình,
3


khơng có ai trợ giúp hoặc can thiệp của Chính phủ. Với những động cơ cá
nhân như vậy, nhưng chính điều đó đã làm cho xã hội khá giả lên bằng cách
tạo ra những việc làm và những cơ hội mới. Chính vì vậy, mà đường giới hạn
khả năng sản xuất dịch ra xa hơn.
Cơ chế hỗn hợp
Thị trường tự do cho phép các cá nhân theo đuổi lợi ích riêng của mình
mà khơng có sự can thiệp khống chế nào của Chính phủ. Kinh tế mệnh lệnh
để cho tự do cá nhân về kinh tế một phạm vi rất hẹp, vì hầu hết các quyết định

đều do Chính phủ đưa ra. Giữa hai thái cực đó là khu vực kinh tế hỗn hợp.
Trong một nền kinh tế hỗn hợp, khu vực nhà nước và khu vực tư nhân
tương tác với nhau trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế.
Chính phủ kiểm sốt một phần đáng kể của sản lượng thông qua việc đánh
thuế, thanh tốn chuyển giao cung cấp các hàng hóa và dịch vụ như lực lượng
vũ trang, cảnh sát. Chính phủ cũng điều tiết mức độ theo đuổi lợi ích cá nhân.
Trong cơ chế hỗn hợp, Chính phủ cũng có thể đóng vai trị là nhà sản
xuất các hàng hóa tư nhân thơng qua các doanh nghiệp có vốn chi phối của
nhà nước

1.2.

Kinh tế thị trường

1.2.1. Khái niệm nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế - xã hội mà ở đó các
quan hệ kinh tế, sự trao đổi, sự mua bán các sản phẩm và nhất là sự phân chia
lợi ích, tìm kiếm lợi nhuận,... đều do các quy luật của thị trường điều tiết và
chi phối. Khơng thu được lợi nhuận thì người sản xuất, kinh doanh khơng cịn
động lực để tiếp tục, nhất là để thúc đẩy công việc sản xuất và kinh doanh của
họ, do đó sự trì trệ của xã hội là khó tránh khỏi. Cho nên có thể nói kinh tế thị
trường là thành quả quan trọng của sự phát triển lâu dài trong nền văn minh
4


của tồn thể nhân loại từ khi nó xuất hiện chứ không phải là của riêng hoặc là
độc quyền của một hình thái kinh tế - xã hội nào. Đặc biệt, như C. Mác viết,
trong nền kinh tế thị trường của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì
việc tìm kiếm “lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất
này”(1). Trong nền kinh tế thị trường, rõ nhất là trong phương thức sản xuất

tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực tuyệt đối thúc đẩy
phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả của hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Kinh tế thị trường là thành quả, là sản phẩm của sự phát
triển của kinh tế toàn thế giới trải qua nhiều thế kỷ và được chủ nghĩa tư bản
hiện đại nâng lên một tầm cao mới chứ không phải chỉ là sản phẩm của riêng
chủ nghĩa tư bản.
1.2.2. Kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Đây là mơ hình Kinh tế thị trường có sự kết hợp Kinh tế thị trường tự
do cạnh tranh với sự quản lý của nhà nước.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929_1933 đã chứng tỏ rằng
khi tính chất xã hội hố sản xuất đã phát triển tới một trình độ nhất định thì
kinh tế thị trường tự do cạnh tranh không thể phát triển một cách hài hồ,ổn
định được,bởi vậy cần phải có sự điều tiết của Nhà nước để hạn chế tác hại
của tính tự phát vơ chính phủ của nền kinh tế thị trường. Nhưng sự can thiệp
thái quá của Nhà nước đến mức gần như triệt tiêu tính năng hoạt động của
kinh tế thị trường đã dẫn đến sự ra đời mơ hình kinh tế chỉ huy,mà điển hình
là nền kinh tế hành hố, tập trung, bao cấp, ở Liên Xơ và Đơng Âu trước đây.
Trong mơ hình kinh tế chỉ huy, Nhà nước quyết định việc phân bổ nguồn lực,
phương hướng đầu tư…hầu như khơng tính đến nhu cầu thị trường.
Cơ sở lý luận của nó là lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của
Paul_Sammuel nhà kinh tế học người Mỹ. Trong cuốn kinh tế học ông
viết:”Điều hành một nền kinh tế khơng có chính phủ hoặc thị trường thì cũng
5


như vỗ tay bằng một bàn tay” và “cả thị trường và chính phủ đều cần thiết cho
một nền kinh tế vận hành lành mạnh”.
Mơ hình này có ưu điểm là tập trung được nguồn lực vào những mục
tiêu chủ yếu, nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm hãm tiến bộ khoa
học kỹ thuật và khi chuyển từ phát triển kinh tế theo chiều rộng sang phát

triển kinh tế theo chiều sâu là chủ yếu thì nó cản trở lực lượng sản xuất, dẫn
đến trì trệ.

1.3. Ưu, nhược điểm của thị trường và cơ chế thị trường
1.2.1. Ưu điểm
- Thừa nhận công dụng xã hội của sản phẩm và lao động chi phí sản xuất
ra nó. Do đó nó kích thích những người sản xuất trao đổi hàng hố giảm chi
phí sản xuất và lưu thơng cải tiến chất lượng, quy cách, mẫu mã, hình thức
cho phù hợp nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Sản xuất hàng hố là việc
riêng của từng người có tính độc lập đối với người sản xuất khác. Nhưng hàng
hoá của họ có đáp ứng nhu cầu xã hội về chất lượng, hình thức thị hiếu người
tiêu dùng khơng? Chỉ trên thị trường và thông qua thị trường các vấn đề trên
mới được khẳng định và có lời giải đáp. Ngồi chức năng là nơi kiểm nghiệm
sự chấp nhận của người tiêu dùng, thì thị trường cịn có chức năng là đóng vai
trị như một địn bẩy, nó kích thích và hạn chế sản xuất và tiêu dùng. Trên thị
trường mọi hàng hoá đều mua bán theo giá cả thị trường. Cho nên người sản
xuất ln tìm cách hạ giá thành sản xuất ít hơn giá cả thị trường, khơng những
khơng giảm mà còn tăng chất lượng sản phẩm. Điều này tạo điều kiện cho
người sản xuất có một thế mạnh trên thị trường và làm ăn có lãi. Dẫn đến làm
phát triển sự tiến bộ xã hội. Cạnh tranh cung - cầu làm cho giá cả thị trường
biến đổi thông qua sự biến đổi đó thị trường có tác dụng kích thích hoặc hạn
chế sản xuất đối với người sản xuất, kích thích hoặc hạn chế tiêu dùng đối với
6


người tiêu dùng. Ngồi ra thị trường cịn cung cấp thông tin cho người sản
xuất và người tiêu dùng. Thị trường cho biết những biến động về nhu cầu xã
hội, số lượng giá cả, cơ cấu và xu hướng thay đổi của nhu cầu các loại hàng
hố dịch vụ. đó là những thông tin cực kỳ quan trọng đối với người sản xuất
hàng hoá, giúp họ điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với thông tin của thị

trường.
Cơ chế thị trường hoạt đồng theo các quy luật của nền kinh tế thị trường.
Đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông
tiền tệ.... Thông qua các hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá cơ chế thị trường
với sự dẫn dắt của giá cả đã có tác dụng trực tiếp điều tiết sản xuất, tiêu dùng và
đầu tư. Chính bàn tay vơ hình này làm cho cơ cấu sản xuất, cơ cấu hàng hoá phù
hợp với khối lượng và chất lượng nhu cầu. Samelson đã nói rằng “cơ chế thị
trường khơng phải là sự hỗn độn mà là trật tự kinh tế. Một nền kinh tế thị trường
là một cơ chế tinh vi phối hợp một cách, không tự giác, nhân dân và doanh
nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện giao tiếp
để tập hợp tri thức và hành động của Đảng trên các cá nhân khác nhau. Khơng
có bộ não trung tâm mà nó vẫn giải quyết được bài tốn mà máy vi tính lớn nhất
ngày nay không thể giải nổi”. Cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển
sản xuất với người tiêu dùng. Cơ chế thị trường đã đặt người tiêu dùng lên hàng
đầu “khách hàng là thượng đế”.
Như vậy nền kinh tế thị trường có khả năng tập hợp tự động được hành
động trí tuệ và tài lực của hàng triệu con người và hướng tới lợi ích chung của
xã hội đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng năng suất lao động,
tăng hiệu quả sản xuất. Các nhà kinh tế đã khẳng định rằng: cơ chế thị trường
là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá cho hiệu quả cao nhất, cơ chế
thị trường đã tạo ra những thành tựu to lớn nhất mà từ trước đến nay chưa một
nền kinh tế nào đạt tới được.

7


Cơ chế thị trường giải quyết tốt ba vấn đề cơ bản của nền sản xuất đó là
sản xuất ra cái gì ? Như thế nào? Cho ai? thơng qua lợi nhuận. Đây là điều mà
các cơ chế kinh tế trước đây không thể giải quyết nổi hoặc giải quyết được
nhưng còn nhiều vướng mắc.

1.2.2. Những khuyết tật của cơ chế kinh tế thị trường:
Bên cạnh những vấn đề ưu điểm thì nền kinh tế thị trường khơng tránh
khỏi những hạn chế của nó. Nhà kinh tế học nổi tiếng Samelson đã nói rằng
“sau khi tìm hiểu về bàn tay vơ hình chúng ta khơng nên q say mê vẻ đẹp
của cơ chế thị trường coi đó là hiện thân của sự hoàn hảo là tinh tuý của sự
hài hoà, của đấng cao siêu, nằm ngoài tầm tay con người”. Cũng như báo cáo
của ban chấp hành Trung ương tại Đại hội VII nêu rõ “sẽ sai lầm nếu cho rằng
nền kinh tế thị trường sẽ là liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích của
sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi làm nảy
sinh và phát triển nhiều loại tiêu cực của xã hội. Thị trường cũng như hiện
tượng thai nghén, chưa biết sẽ ra sao. Điều đó có nghĩa là bao hàm cả khả
năng thất bại”. Mặt khác cơ chế thị trường không bảo đảm được việc tạo ra
một cơ cấu sản phẩm tối ưu phù hợp với yêu cầu xã hội. Do chạy theo lợi
nhuận nên nhà sản xuất có thể gây nên những tác động tiêu cực cho xã hội
như ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, phân hố giàu nghèo mà tồn xã
hội phải gánh chịu.
Thị trường và cơ chế thị trường có những khuyết tật nhất định và cụ thể.
Do tính tự phát dẫn tới sự hỗn độn trong nền kinh tế. Mặt khác nó kích thích
lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ, nhưng lại xem nhẹ lợi ích xã hội, lợi ích tập
thể. Nó chỉ phản ánh những nhu cầu trước mắt mà không vạch ra nhu cầu
tương lai. Những chỉ số kinh tế như giá cả lợi nhuận thường xuyên biến động
làm cho người sản xuất và lưu thơng hàng hố khó định hướng, thường bị
động đối phó, nhiều lúc gây ra sự lãng phí lao động xã hội.

8


Nhận thức được những đặc điểm đó Nhà nước có thể sử dụng lực lượng
dự trữ về kinh tế và những chính sách phù hợp như kế hoạch, thuế, hợp đồng
kinh tế để cùng với thị trường điều khiển sự hoạt động của nền kinh tế theo

định hướng và mục tiêu xác định.
Trước đây ta đã phân tích những mặt tích cực những chức năng to lớn
của nền kinh tế thị trường đem lại. Nước là một nước đang yếu kém về mặt
quản lý cũng như nền kinh tế nên chúng ta không thể không áp dụng nền kinh
tế thị trường được. Tuy rằng chúng ta đi lên theo hướng tiến lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản, nhưng chúng ta khơng phải bỏ đi tồn bộ mọi
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mà chúng ta bỏ qua kinh tế hàng hoá hay
kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải áp dụng như thế nào để
khơng hạn chế những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường và khai thác triệt
để nó. Mà phải loại trừ những mặt trái, mặt tiêu cực của nó. Để loại bỏ được
những khuyết tật của nền kinh tế thị trường thì khơng có cách nào khác đó là
phải có sự quản lý điều tiết của Nhà nước. Sự quản lý của Nhà nước đối với
nền kinh tế thị trường không phải chỉ là để loại bỏ những khuyết tật của nó,
mà cịn là sự định hướng phát triển của nó đi đúng với đường lối mà Nhà
nước ta đề ra.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ
NƯỚC ĐỂ KHẮC PHỤC NHỮNG KHUYẾT TẬT CỦA NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng vai trò điều tiết của nhà nước
Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, sự dao động thường
xuyên của các nhân tố tự nhiên, xã hội, kinh tế, chính trị làm cho các quan hệ
tỷ lệ đó ln ln biến động. Theo quan hệ tỷ lệ đó, cơ chế phù hợp với yêu
cầu khách quan của các quy luật và tính quy luật vận động phát triển kinh tế,
xã hội và tạo điều kiện cho nền kinh tế đó có thể tăng trưởng và ngược lại các
9


quan hệ tỷ lệ đó có thể khơng hợp và làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trì
trệ, yếu kém. Đặc biệt là khi các quan hệ kinh tế quốc tế được hình thành và

phát triển thì các hoạt động kinh tế trong và ngoài nước tác động lẫn nhau, các
nguồn lực bên trong và bên ngồi có thể di chuyển phù hợp hay không phù
hợp với nhu cầu phát triển kinh tế trong nước, quy mô và cơ cấu kinh tế có
thể dịch chuyển theo hướng tiến bộ hợp lý tối ưu hay lạc hậu, què quặt, mất
cân đối và nền kinh tế của mỗi quốc gia ở vào vị trí phụ thuộc hay là một
khâu cần thiết của hệ thống phân cơng lao động quốc tế.
Có thể nói vận mệnh của nền kinh tế của từng quốc gia không chỉ phụ
thuộc vào các quan hệ bên trong mà cịn phụ thuộc vào các quan hệ bên
ngồi, vào thị trường khu vực, thị trường quốc tế. Tình hình đó đặt lên vai các
Nhà nước, các dân tộc nhiệm vụ không chỉ là người bảo vệ trật tự xã hội và an
ninh quốc gia mà còn là người hiểu biết quy luật vận động và phát triển của
nền sản xuất xã hội, nắm vững và dự báo được các biến đổi trong và ngồi
nước, có khả năng sử dụng các địn bảy kinh tế, thể chế hố các chủ trương,
chính sách kinh tế thành hệ thống các luật lệ, các quy chế đồng bộ để trực tiếp
tác động, khống chế, điều tiết các hoạt động kinh tế đối ngoại, định hướng sự
phát triển của các ngành, các vùng, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế để
đảm bảo yêu cầu thăng bằng, cân đối trong sự phát triển do chính các quy luật
và tính quy luật khách quan của đời sống kinh tế, xã hội quy định. Có thể
khẳng định rằng thăng bằng cân đối trong sự phát triển của nền kinh tế là cơ
sở khách quan sâu xa của vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước.
Trong nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, cơ sở khách
quan sâu xa này được thể hiện thông qua những mặt sau đây:
Một là: Trong nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, mỗi
người, mỗi cơ sở, mỗi ngành... đều có lợi ích riêng của mình, đều tìm mỗi cách
để tối đa hố lợi ích đó mỗi người, mỗi cơ sở, mỗi ngành... có thể thấy hoặc
khơng thấy sự vi phạm đến lợi ích của người khác, cơ sở khác, ngành khác... Và
10


do đó, tất yếu nảy sinh lợi ích cá nhân của bộ phận này tăng lên làm thiệt hại đến

lợi ích cá nhân của bộ phận khác trong xã hội xét theo tổng thể nền kinh tế quốc
dân. Biện luận và mặt xã hội của xu hướng này là các hoạt động kinh tế bị đảo
lộn, các vấn đề xã hội, chính trị phát sinh và chỉ sau những biến động lớn về kinh
tế - xã hội thì mọi quan hệ đời sống xã hội, kinh tế mới dần dần lặp lại được thế
cân bằng ổn định.
Sự phát triển kinh tế có tính chu kỳ hoặc theo kiểu “làn sóng” của nền
kinh tế thị trường ở các nước TBCN nói lên nhược điểm của cơ chế thị trường.
Muốn khắc phcụ được nhược điểm này cần có một bộ phận điều hành vĩ mơ
bằng các hoạch định, các chương trình, chiến lược và kế hoạch phát triển với
các mục tiêu về quy mô, về cơ cấu... trong từng ngành, từng vùng cũng như các
mục tiêu kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế quốc dân. Các mục tiêu vĩ mô này
là những định hướng không thể thiếu được cho các hoạt động kinh tế của cá
nhân, cơ sở và các ngành, vùng trong cả nước. Bộ phận điều hành vĩ mơ ở đây
khơng ai khác ngồi vai trị của Nhà nước - chủ thể kinh tế của nền kinh tế
quốc gia.
Hai là: Trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, các hoạt động
sản xuất kinh doanh, các hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường
và tuân theo các quy luật của thị trường. Bên cạnh những hàng hố, dịch vụ,
chi phí bỏ ra và lợi nhuận thu về của từng cá nhân thường khác với chi phí và
lợi ích thực tế của tồn xã hội với tư cách là một tổng thể như các loại hàng
hố, dịch vụ cơng cộng mà chi phí sản xuất phải bỏ ra nhiều nhưng lợi nhuận
thu về rất thấp, chỉ đem lại lợi ích cho xã hội. Mặt khác, những hàng hố, dịch
vụ cơng cộng quan trọng như quốc phịng, an ninh thì khơng thể giao cho tư
nhân được mà Nhà nước cần đứng ra sản xuất.
Ba là: Nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường khơng thể
tách khỏi mơi trường chính trị, kinh tế và xã hội. Nếu mơi trường chính trị,
kinh tế và xã hội khơng ổn định, thường xun có sự đụng độ và xung đột
11



giữa các giai cấp trong xã hội thì gân nên những hiện tượng tiêu cực làm cho
nền kinh tế không phát triển. Cơ chế thị trường - cơ chế điều chỉnh hành vi
của người sản xuất lẫn người tiêu dùng theo mệnh lệnh giá cả, khi đó sẽ bị
méo mó. Những nhược điểm của cơ chế thị trường sẽ lan rộng và đẩy mơi
trường kinh tế, chính trị và xã hội vào tình trạng rối loạn và khủng hoảng.
Cơ chế thị trường rất cần có mơi trường ổn định và lành mạnh để hoạt
động song những nhược điểm và khuyết tật của nó lại để ra những xu hướng
phủ định chính những điều kiện hoạt động của bản thân nó như: do chạy theo
lợi nhận đã đưa đến sự phân bố và sử dụng các nguồn lực không hợp lý, vì lợi
ích kinh tế cá nhân, cục bộ mà chà đạp lợi ích chung, phá hoại mơi sinh, làm
ơ nhiễm mơi trường, do mỗi người đều tìm cách tối đa hố lợi ích của mình
nên tất yếu dẫn đến sự phân hoá giầu nghèo, bất đồng trong xã hội, cạnh
tranh tất yếu dẫn đến độc quyền... Trong những biểu hiện trên, biểu hiện có
tác động sâu sắc nhất là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp và tầng
lớp trong xã hội.
Cơ chế thị trường - bàn tay vơ hình khắc phục được những mâu thuẫn
địi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước - bàn tay hữu hình vào q trình
kinh tế. Chính từ nhu cầu này của nền kinh tế nói chung và nền kinh tế thị
trường nói riêng mà Nhà nước của quốc gia đều có chức năng bảo đảm về mặt
chính trị và xã hội, bảo hiểm về mặt kinh tế nhằm duy trì các quan hệ lợi ích
giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội trong khuôn khổ quan hệ sản xuất thống
trị và bảo vệ được quyền lợi và địa vị của giai cấp thống trị.
Theo quá trình phát triển của nhân loại khi trình độ xã hội hố ngày càng
cao, quan hệ lợi ích giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội ngày càng đan
chéo phức tạp thì vai trị của Nhà nước ngày càng có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Đó là lý do tại sao Nhà nước phải can thiệp vào quá trình sản xuất xã
hội.

12



Bốn là: Ngày nay xu hướng hoà nhập nền kinh tế dân tộc của mỗi nước
vào thị trường thế giới ngày càng tăng. Những diễn biến kinh tế trong từng
nước và giữa các nước gây ảnh hưởng rõ rệt đến lợi ích của nhau. Việc ngăn
ngừa hay khắc phục những ảnh hưởng bất lợi địi hỏi phải có vai trị của Nhà
nước. Thông qua sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ đối ngoại để
khống chế những hoạt động bất lợi và phát huy những hoạt động có lợi cho sự
phát triển kinh tế trong nước.
Năm là: Vai trị của Nhà nước trong nền kinh tế khơng chỉ ở sự điều tiết,
khống chế, định hướng bằng pháp luật, các địn bẩy kinh tế và các chính sách,
biện pháp kích thích mà cịn bằng thực lực kinh tế của Nhà nước - tức sức
mạnh của hệ thống kinh tế quốc doanh. Có thể khẳng định rằng: trên thế giới
ngày nay khơng có nước nào từ các nước chậm phát triển, đang phát triển cho
đến các nước có nền kinh tế phát triển cao đều khơng vắng bóng các cơ sở
quốc doanh. Kinh nghiệm thực tế của các nước đã chỉ ra, việccủng cố tăng
cường sức mạnh kinh tế của các cơ sở kinh tế quốc doanh trong những ngành
và lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân vừa là công cụ quản lý vừa là
lực lượng kinh tế trực tiếp để tham gia hình thành, mở rộng quan hệ thị
trường:
Sự ra đời và tồn tại của kinh tế quốc doanh là cần thiết và có tính chất phổ
biến với tất cả các nước không phân biệt chế độ kinh tế xã hội và trình độ phát
triển. Sự khác nhau giữa các nước chỉ là phạm vi, mức độ của kinh tế quốc
doanh trong nền kinh tế và sự có mặt của các cơ sở kinh tế quốc doanh trong
ngành này hay ngành khác tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước trong
từng thời kỳ nhất định.
Sáu là: Đối với các nước bước vào giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá
vận động theo cơ chế thị trường từ một trình độ kinh tế chưa phát triển, sản
xuất nhỏ, tự túc tự cấp là phổ biến lại chịu ảnh hưởng nhiều năm của cơ chế
hành chính bao cấp như nước ta thì Nhà nước giữ vai trò cực kỳ quan trọng
13



trong cơng việc hình thành và phát triển các quan hệ thị trường và việc sử
dụng cơ chế thị trường. Ở các nước này, Nhà nước phải gánh vác các mục tiêu
kinh tế vĩ mô và thực hiện nhiều mục tiêu xã hội vừa có tính cơ bản, vừa có
tính cấp bách như phân bố sản xuất, lao động vào các ngành, các vùng mới,
huy động mọi tiềm năng vào phát triển và lưu thơng hàng hố, tổ chức phân
cơng lại lao động... và giải quyết các nhu cầu khác của đời sống kinh tế xã
hội. Chúng ta tiến hành mở rộng các quan hệ thị trường, cơ chế thị trường
trong điều kiện luật pháp, chính sách chưa đầy đủ và kế thừa những thành tựu
của các nước đi trước.
Đối với những nước đang phát triển, việc hoàn thiện và thường xuyên
tăng cường các biện pháp hành chính - pháp lý và hành chính kinh tế cùng với
việc phát triển hệ thống các cơ sở kinh tế của Nhà nước trong các ngành và
lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân là những công cụ vĩ mô vô cùng
quan trọng trong việc hình thành và mở rộng, định hướng các quan hệ thị
trường và sử dụng cơ chế thị trường theo phương hướng mục tiêu đã định.
Trong việc quản lý, Nhà nước không được xem nhẹ hay coi nặng bất cứ một
công cụ nào mà phải sử dụng nhịp nhàng một cách đồng bộ bởi vì mỗi loại
cơng cụ đều có một tác dụng riêng của nó tuỳ theo từng điều kiện, hồn cảnh
mà mỗi cơng cụ phát huy thế mạnh của nó.
Từ sự phân tích trên ta thấy rằng việc Nhà nước can thiệp vào kinh tế là
một tất yếu khách quan để sửa chữa những khuyết tật, hạn chế của cơ chế thị
trường, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế là nhu cầu khách quan,
nội tại của nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường. Còn việc
điều tiết, khống chế và định hướng các hoạt động kinh tế của các cơ sở thuộc
các thành phần kinh tế theo phương hướng và mục tiêu như thế nào phụ thuộc
vào bản chất các hình thức Nhà nước và con đường của mỗi quốc gia lựa
chọn. Đất nước Việt Nam ta muốn đạt tới mục tiêu XHCN cần phải chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế, song cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của

14


Nhà nước là một tất yếu khách quan. Nhà nước ta, một cơ quan quyền lực có
chức năng quản lý kinh tế với tư cách là người đại diện cho sở hữu toàn dân
cần phải nhân danh xã hội điều phối những hoạt động chung có tính chất xã
hội, đó chính là vai trị của nhạc trưởng.
2.2. Một số giải pháp để khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị
trường
2.2.1. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần
Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, tạo điều
kiện để các thành phần kinh tế phát triển với tư cách là những bộ phận cấu
thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất.
- Một là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu và sử dụng tư
liệu sản xuất của tồn dân bằng cách lựa chọn các hình thức kinh tế phù hợp.
- Hai là, tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp
với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong điều kiện mới. Phương hướng chủ yếu
hiện nay là thành lập một số tổng cơng ty, tập đồn kinh doanh lớn, có uy tín
tầm vóc quốc gia và quốc tế, tạo thế và lực để phát triển, đủ sức cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong quan hệ kinh tế với nước ngồi.
Đối với các doanh nghiệp nhận thấy khơng cần thiết hoặc thua lỗ kéo dài,
khơng có khả năng vươn lên, thì chuyển sang hình thức sở hữu khác, cho
thuê, bán, khoán hoặc giải thể.
- Ba là, tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế Nhà nước trong nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực quan trọng mà các thành phần kinh tế khác không đủ
điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh như: kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất thương
mại, dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh… Nhà nước chỉ nên nắm một số không nhiều các doanh
nghiệp trong nền kinh tế, tức là những vị trí kinh tế then chốt, u cầu, thơng
15



qua đó mà điều tiết, chi phối, hướng dẫn hoạt động của các thành phần kinh tế
khác, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng XHCN.
2.2.2. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, tạo lập đồng bộ
các loại thị trường.
Xúc tiến việc hình thành đồng bộ các loại thị trường đi đơi với việc tạo
lập khung pháp luật bảo đảm sự quản lý và giám sát của Nhà nước. Coi trọng
công tác tiếp thị và tổ chức thị trường. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp và cá nhân tiếp cận thị trường, ký kết hợp đồng, tự chủ và tự chịu trách
nhiệm kinh doanh, giảm đến mức tối đa sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện công khai, minh bạch trong
kinh doanh, phát triển mạnh thị trường hàng hoá, dịch vụ, khắc phục tình
trạng kinh doanh trái phép, trốn thuế, tổ chức và quản lý tốt việc thuê mướn
và sử dung lao động. Quản lý chặt chẽ việc sử dung ruộng đất và thị trường
bất động sản, hoàn thiện thị trường tiền tệ, xây dựng thị trường vốn và thị
trường chứng khoán.
2.2.3. Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Nhà nước thực hiện tốt chức năng định hướng sự phát triển kinh tế,
kiểm kê và kiểm soát mọi hoạt động kinh tế - xã hội , tạo lập khuôn khổ và hệ
thống nhất quán, trực tiếp đầu tư vào một lĩnh vực thiết yếu, nhất là kết cấu hạ
tầng tạo ra môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phat
đạt, hạn chế các hiện tượng tiêu cực…
Để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta thì Nhà nước cần:
Tiêu chuẩn hố hệ thống cán bộ, cơng chức trong bộ máy Nhà nước từ
trung ương đến địa phương, thực hiện nghiêm túc công tác phê và tự phê
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có trình độ, năng lực
và phẩm chất đạo đức mới.
16



Tiếp tục hoàn thiện bộ máy Nhà nước theo cơ chế mới, khẩn trương
xố bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, nhiều tầng, nhiều cửa, vịng vèo…
vì chính chúng tạo điều kiện cho tham nhũng, cửa quyền, ách nhiễu dân.
Công khai và dân chủ trong phân bố ngân sách, kinh phí duyệt các
chương trình dự án đầu tư, tăng cường lực lượng thanh tra, kiểm tra, bảo đảm
làm việc theo pháp luật, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý vốn trong doanh
nghiệp Nhà nước, chấn chỉnh chế độ thơng kê, kiểm tốn, kế tốn.
Kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời các vụ tham nhũng, loại bỏ kẻ
tham nhũng ra khỏi bộ máy Nhà nước, nâng cao khung hình phạt tội tham
nhũng, giải quyết kịp thời có hiệu quả các vụ khiếu kiện của dân.
Tiếp tục cải tiến chế độ tiền lương, bảo đảm cho công chức Nhà nước
có thể sống bằng lương, đảm bảo cơng bằng xã hội.
2.2.4. Nhà nước thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế
đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.
Thực hiện thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp.Thực
hiện chương trình xố đói giảm nghèo, nhất là tín dụng cho người nghèo và
các chính sách xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội ở nước
ta, chính sách xã hội cố gắng đạt tới tính đạo đức cao, tạo cơng ăn việc làm
cho mọi người.Chống thất nghiệp, tạo điều kiện và môi trường cho hoạt động
kinh doanh.Xây dựng hệ thống luật kinh tế đảm bảo tốt nhất cho nhân dân
phát huy hết tài năng, vốn liếng để làm giàu, mở rộng hệ thống bảo hiểm và
an sinh xã hội. Thực hiện công khai minh bạch về thu nhập, điều tiết thu nhập
cao. Tăng cường sự giúp đỡ của Nhà nước cùng với phát triển các quỹ đền ơn
đáp nghĩa, các quỹ xã hội, chăm sóc người già, người có cơng, các đối tượng
chính sách. Cải cách và nâng cao chi ngân sách Nhà nước đối với bảo hiểm xã
hội gắn đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động này. Tăng cường công tác quản lý
môi trường ở các vùng kinh tế trọng điểm, vùng dân cư tập trung. Lồng ghép
17



kế hoạch bảo vệ môi trường với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Tăng khả
năng dự báo các thiệt hại do thiên nhiên tạo ra, thiên tai, hạn hán, lũ lụt để
giảm thiểu các thiệt hại do thiên nhiên gây ra.Hình thành khung pháp luật,
chính sách về boả vệ và cải thiện môi trường theo hướng gắn chính sách kinh
tế với chính sách bảo vệ mơi trường, huy động sự tham gia tích cực của mọi
tầng lớp dân cư, doanh nghiệp vá các tổ chức xã hội.

18



×