Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Phát triển các khu công nghiệp trong quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.9 KB, 101 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nghệ An là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, có diện tích tự nhiên
16.487 km
2
, dân số 3,03 triệu người, chiếm 5,1% diện tích tự nhiên và 3,64%
dân số cả nước (số liệu năm 2006). Về mặt hành chính, có 17 huyện (gồm 7
huyện đồng bằng ven biển và 10 huyện miền núi), thành phố Vinh và thị xã
Cửa Lò.
Trong Kết luận số 20/2003/KL-TW ngày 02/6/2003 của Bộ Chính trị
đã khẳng định Nghệ An là một trung tâm kinh tế, văn hoá của vùng Bắc
Trung Bộ, điều này được thể hiện tiếp tại Quyết định số 147/2005/QĐ-TTg và
Quyết định số 239/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Dề
án phát triển kinh tế xã hội miền Tây Nghệ An và thành phố Vinh đến năm
2020.
Để trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá của khu vực Bắc Trung Bộ
trong thời kỳ CNH, HĐH, Nghệ An đã đề ra mục tiêu là phát huy mọi tiềm
năng, lợi thế của tỉnh, huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp và dịch vụ, trong đó đặc biệt chú trọng đến quy hoạch phát triển các
KCN tập trung.
Việc xây dựng đề tài để nghiên cứu về quá trình phát triển các KCN
trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Nghệ An có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận
và thực tiễn: Về lý luận sẽ làm rõ sự hình thành và phát triển các mô hình
KCN trong quá trình CNH, HĐH. Còn về thực tiễn, việc xây dựng và phát
triển các KCN ở Nghệ An sẽ hiện đại hoá nền sản xuất công nghiệp ở địa
1
phương, đồng thời sẽ đóng góp vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và góp phần
lớn cho nguồn thu ngân sách của Tỉnh, đưa Nghệ An trở thành trung tâm kinh
tế, văn hoá của khu vực Bắc Trung Bộ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.


Phát triển KCN ở Việt Nam nói chung và phát triển các KCN ở từng
địa phương nói riêng trong quá trình CNH, HĐH là nội dung mà đã có nhiều
Đề tài, công trình nghiên cứu (Đề án, Luận án, Luận văn...) đề cập đến. Các
công trình nghiên cứu đều đã phân tích, đánh giá tổng quát về thực trạng phát
triển các KCN và giải pháp để tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của từng địa phương cũng
như của cả nước.
Mặc dù vậy các công trình nghiên cứu đó chưa đi sâu phân tích về
chiến lược phát triển KCN trong quá trình CNH, HĐH, chưa đưa ra được
những nội dung hình thành và nhân tố ảnh hưởng đến phát triển KCN mang
tính hiện đại trong quá trình CNH, HĐH, vì vậy chưa đưa ra những giải pháp
phát triển các KCN có hiệu quả và tính bền vững cao.
Do đó, đề tài này ngoài việc đánh giá thực trạng phát triển các KCN ở
Việt Nam nói chung và các KCN ở Nghệ An nói riêng, còn đưa ra các nội
dung và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển các KCN hoàn thiện
và bền vững, từ đó đề ra các giải pháp trước mắt và những giải pháp mang
tầm chiến lược để phát triển các KCN ở Nghệ An trong quá trình CNH, HĐH.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Cùng với việc làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự hình
thành và phát triển các KCN trong quá trình CNH, HĐH. Đề tài còn tập trung
nghiên cứu phát triển các KCN trong quá trình CNH, HĐH; phân tích quá
2
trình hình thành và phát triển các KCN ở tỉnh Nghệ An, từ đó đề ra các giải
pháp để phát triển có hiệu quả, bền vững các KCN ở tỉnh Nghệ An.
Ngoài ra, đề tài gắn với Kế hoạch phát triển KT-XH giai đoạn 2006 -
2010 và định hướng phát triển công nghiệp Nghệ An giai đoạn 2006 - 2015 có
tính đến 2020, trong đó xác định rõ các KCN tập trung theo hướng CNH,
HĐH nền kinh tế Nghệ An.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
5.1. Đối tượng nghiên cứu:

- Mô hình phát triển KCN.
- Các nội dung để phát triển KCN.
- Cơ chế chính sách để phát triển KCN.
- Tác động của các KCN với cơ cấu kinh tế và phát triển đô thị
- Thực trạng phát triển KCN cả nước và của Nghệ An.
5.2. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ được đề cập ở hai khía cạnh cả về
không gian và về thời gian. Về không gian, phạm vi nghiên cứu đó là các
KCN ở Việt Nam nói chung và các KCN ở tỉnh Nghệ An trong quá trình
CNH, HĐH. Còn về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu phát triển các
KCN ở Việt Nam và ở tỉnh Nghệ An từ năm 1992 (là năm bắt đầu xuất hiện
mô hình KCN đầu tiên ở Việt Nam bằng việc thành lập KCX Tân Thuận ở
Thành phố Hồ Chí Minh) đến nay.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu đó là: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp
3
phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh. Ngoài ra còn thu thập thông tin, tài
liệu, số liệu từ các cơ quan Bộ ngành Trung ương và địa phương, đặc biệt là
từ các Báo cáo của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An và
Ban quản lý các KCN Nghệ An về phát triển các Khu công nghiệp.
6. Những đóng góp của Đề tài.
- Đề tài đã bổ sung thêm lý luận về KCN; phân tích quá trình hình
thành, phát triển và vai trò của các KCN đối với nền kinh tế quốc dân; đưa ra
các nội dung để phát triển hoàn thiện KCN từ đó đưa ra những định hướng và
giải pháp thực hiện.
- Đề tài đã đánh giá được thực trạng phát triển các KCN ở Nghệ An
trong thời gian qua, đồng thời qua nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn phát
triển một số KCN ở trong và ngoài nước, Luận văn đã đưa ra những giải pháp
thiết thực và mang tầm chiến lược trong việc phát triển các KCN ở Nghệ An.

- Một số nội dung cụ thể của đề tài sẽ đóng góp vào việc xây dựng các
cơ chế, chính sách phát triển các KCN Nghệ An theo hướng CNH, HĐH.
7. Kết cấu của Luận văn.
Tên Đề tài: PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ
TRÌNH CNH, HĐH Ở NGHỆ AN.
Phần mở đầu.
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về phát triển các Khu công nghiệp
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 2. Thực trạng phát triển KCN ở Nghệ An
Chương 3 . Định hướng và giải pháp phát triển các KCN trong quá
trình CNH, HĐH ở Nghệ An
Kết luận.
4
PH ẦN NỘI DUNG
Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA.
1.1. TÍNH TẤT YẾU PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRONG
QUÁ TRÌNH CNH, HĐH.
1.1.1. Khu công nghiệp và đặc điểm phát triển các KCN Việt Nam.
1.1.1.1. Khái niệm khu công nghiệp .
Trước hết, cần có sự khái quát về lịch sử hình thành và phát triển các
KCN vì “Lịch sử từ đâu thì tư duy lô gíc cũng bắt đầu từ đó”. KCN đã có một
quá trình hình thành và phát triển hơn 100 năm nay. Anh là nước CN đầu tiên
và KCN đầu tiên được thành lập năm 1896 ở Manchester và sau đó là vùng
CN Chicago (Mỹ), KCN Napoli (ý) vào những năm đầu thập kỷ 40 của thế
kỷ trước. Đến những năm 50, 60 của thế kỷ XX, các vùng CN và các KCN
phát triển nhanh chóng và rộng khắp các nước CN như là một hiện tượng lan
toả, tác động và ảnh hưởng. Vào thời kỳ này, Mỹ có 452 vùng CN và gần
1.000 KCN, Pháp có 230 vùng CN, Canada có 21 vùng CN. Tiếp theo các

nước CN đi trước, vào năm 60, 70 của thế kỷ trước, hàng loạt các KCN và
KCX hình thành và phát triển nhanh chóng ở các nước CNH thế hệ sau như:
Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia, Thái Lan… Cũng trong thời kỳ
này, ở các nước XHCN trước đây, Liên Xô, Đức, Tiệp Khắc đang tiến hành
xây dựng các xí nghiệp liên hợp, các CCN lớn, các trung tâm CN tập trung.
Mặc dù có thể dưới những tên gọi khác nhau gắn với tính đặc thù của ngành
sản xuất, nhưng chúng đều có những tính chất, đặc trưng chung của KCN.
Trên các sách báo, ở trong các từ điển, cho đến nay đã có sự thống nhất về
5
các khái niệm: Xí nghiệp liên hợp, cụm công nghiệp, trung tâm công nghiệp.
Nhưng khái niệm về KCN còn đang gây nhiều tranh luận, chưa có sự thống
nhất và còn những quan niệm khác nhau về KCN. Các nhà nghiên cứu cho
rằng, đó cũng là điều dễ hiểu, vì trong nhận thức biện chứng, sự vật đang vận
động và do đó khái niệm không thể là bất biến. Nhận thức về KCN và KCX
có những quan niệm khác nhau. Có thể khái quát thành những loại quan niệm
sau về KCN và KCX:
Thứ nhất: KCN là thành phố công nghiệp, một cộng đồng hoàn chỉnh,
được quy hoạch đầy đủ các tiện nghi đa dạng, có hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn
hảo, hệ thống xử lý nước thải, hệ thống thương mại, hệ thống thông tin liên
lạc, bệnh viện, trường học và khu chung cư…..
Quan niệm trên về KCN là của các nhà quản lý Thái Lan và của một số
các nhà kinh tế học các nước CN thế hệ thứ hai ở Đông Nam Á như Malaysia,
Philipine… Nếu hiểu KCN đồng nhất với thàng phố CN trên giác độ quy
hoạch tổng thể một không gian kinh tế với những điều kiện cần thiết cho các
sinh hoạt của cộng đồng, thì khái niệm KCN chưa phản ánh nội dung kinh tế,
với những mối liên hệ bên trong cùng với sự vận động và mục đích hoạt động
của KCN. Tất nhiên, không thể phủ nhận đây là cách tiếp cận KCN từ giác độ
quy hoạch xây dựng KCN và tổ chức đời sống xã hội, trong đó chúng cần
được kế thừa.
Thứ hai: Từ một cách tiếp cận khác, Hiệp hội KCX thế giới (WEPZA)

định nghĩa: KCX là khu vực tự do, do chính phủ xây dựng để xúc tiến các
mục tiêu chính sách được áp dụng thí điểm đột phá. Khác với chính sách áp
dụng cho khu nội địa, phần lớn các chính sách áp dụng cho KCX là cởi mở
hơn.
6
Theo cách hiểu này về KCX, một mặt nó là khu vực tự do kinh tế tức là
phản ánh tính chất hoạt động kinh tế, mặt khác cũng xác định rõ chủ thể và
mục tiêu xây dựng KCX là gắn liền với các quan hệ kinh tế đối ngoại. Song,
định nghĩa trên về KCX chưa phản ánh đầy đủ mặt bản chất của KCX, những
mối liên hệ kinh tế bên trong và tính quy luật vận động của nó.
Thứ ba: Tổ chức phát triển CN Liên Hiệp quốc (UNIDO) cho rằng,
KCX là khu vực SXCN, giới hạn ở hành chính, về địa lý, được hưởng chế độ
thuế quan cho phép tự do nhập trang thiết bị và sản phẩm nhằm mục đích sản
xuất sản phẩm xuất khẩu, chế độ thuế quan được ban hành, cùng với những
quy định về luật pháp ưu đãi, nhằm thu hút đầu tư nước ngoài.
Tại Việt Nam, Khu công nghiệp được đề cập đến khi miến Bắc xây
dựng khu gang thép Thái Nguyên còn ở miền Nam xây dựng KCN Biên Hoà.
Theo Quy chế KCN, KCX, KCNC (ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP
ngày 24/4/1997 của Chính phủ), "KCN" là khu tập trung các DN công nghiệp
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ
hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có
thể có doanh nghiệp chế xuất.
Qua những quan niệm của các nhà nghiên cứu và các tổ chức KT - XH
khi nghiên cứu về KCN, cùng với hoạt động thực tiễn tại các KCN Nghệ An,
tác giả rút khái niệm tổng quát chung nhất về KCN như sau:
KCN được hiểu là hình thức thực hiện quá trình CNH, HĐH. Đó là một
tổ chức không gian kinh tế - xã hội được xác định bởi những giới hạn nhất
định, trong đó có những điều kiện thuận lợi về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã
hội; có cơ chế chính sách và phương thức quản lý riêng nhằm tạo ra lợi thế

thu hút các DN sản xuất, kinh doanh và thực hiện các dịch vụ CN.
7
1.1.1.2. Phân loại các khu công nghiệp.
Tùy theo góc độ tiếp cận và dựa vào các tiêu thức khác nhau trong việc
phân tích, đánh giá về KCN sẽ có một số cách phân loại khác nhau. Cụ thể có
một số cách phân loại sau đây:
- Dựa vào tính chất ngành nghề chia thành: KCN chuyên ngành, KCN đa
ngành, KCN sinh thái.
+ KCN chuyên ngành: Hình thành do phân công chuyên môn hóa, bao
gồm các xí nghiệp trong cùng một ngành sản xuất ra một hoặc một số loại sản
phẩm. KCN chuyên ngành hoạt động trong một số ngành như: Cơ khí, hoá
chất, vật liệu xây dựng.
+ KCN đa ngành: Gồm nhiều xí nghiệp thuộc nhiều ngành khác nhau có
mối liên hệ với nhau. Loại hình này cho phép khai thác, sử dụng có hiệu quả
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ
+ KCN sinh thái: Là loại hình cộng sinh công nghiệp, tạo sự hài hoà giữa
sản xuất – cuộc sống và sự thân thiện với môi trường. Trong đó có sự lựa
chọn xí nghiệp của nhiều ngành công nghiệp có mối liên hệ hỗ trợ tương tác
với nhau, tạo ra sự cân bằng môi trường và phát triển bền vững.
- Căn cứ vào qui mô: KCN chia thành KCN qui mô lớn, KCN qui mô
vừa và KCN qui mô nhỏ
- Dựa vào đặc thù của từng đối tượng quản lý KCN lại được phân thành :
KCN tập trung, KCN chế xuất, KCN công nghệ cao.
- Phân theo cấp quản lý tương ứng với 3 cấp quản lý nhà nước có các
loại KCN: KCN do Chính phủ thành lập, KCN do tỉnh, thành phố thành lập,
cụm CN do huyện thị thành lập.
8
1.1.1.3 . Đặc điểm phát triển khu công nghiệp Việt Nam.
Một là, về công tác quy hoạch:
Trong thời gian qua sự phát triển KCN hầu như đều do các địa phương

đua nhau xây dựng KCN với những chức năng tương tự giống nhau. Vì vậy
các KCN phát triển riêng lẻ, phải đầu tư cho tất cả các hạng mục công trình
(kể cả cụm dân cư). Tình hình đó đem lại thực trạng rất nhiều KCN không
hoạt động hay hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh đó xuất hiện tình trạng phát
triển KCN quá nóng ở các địa phương có nhiều tiềm năng (như các vùng kinh
tế trọng điểm, đặc biệt là Vùng kinh tế trọng điểm miền Nam). Điều đó phản
ánh trình độ và tầm nhìn của cả Trung ương và địa phương chưa phù hợp.
Quy hoạch phát triển KCN thường chậm đồng bộ với quy hoạch phát
triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, dẫn tới ảnh hưởng
đến tính bền vững trong phát triển; chưa chú trọng gắn việc xây dựng quy
hoạch chi tiết từng KCN với quy hoạch nhà ở, công trình công cộng phục vụ
đời sống người lao động làm việc trong KCN.
Công tác chuẩn bị cho sự ra đời của các KCN bộc lộ nhiều yếu kém, thể
hiện trên các phương diện: thiếu cán bộ quản lý có năng lực, thiếu đội ngũ lao
động lành nghề phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong KCN, thiếu sự
chuẩn bị về nội dung mời gọi các nhà đầu tư.
Hai là, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng:
Một số KCN triển khai chậm, thu hút đầu tư thấp do công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng gặp nhiều kho khăn như: KCN Nam Thăng
Long, KCN Sài Đồng A (Hà Nội), KCN Đình Vũ (Hải Phòng), KCN Bắc Phú
Cát (Hà Tây), KCN Nam Cấm (Nghệ An), KCN Cát Lái IV (thành phố Hồ
Chí Minh). Tại một số địa phương khác, trong quá trình bồi thường giải
phóng mặt bằng, thu hồi đất để xây dựng KCN, do sự chậm trễ trong việc phổ
9
biến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tới người dân, dẫn đến nhiều khiếu
kiện, tranh chấp về đất đai ảnh hưởng tới tiến độ bồi thường giải phóng mặt
bằng và tiến độ chung của dự án.
Về công tác tái định cư và tình hình đời sống người dân sau khi bị thu
hồi đất tại khu vực quy hoạch phát triển KCN còn gặp nhiều khó khăn. Người
dân sau thu hồi đất thường gặp phải tình trạng thiếu hoặc là không có đất sản

xuất, cuộc sống không ổn định.
Ba là, vấn đề lao động trong Khu công nghiệp:
Trong những năm qua, các KCN trên cả nước thu hút được lượng lao
động hàng năm khoảng trên 7 vạn lao động, tuy nhiên lao động có trình độ đại
học và trên đại học còn chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 4-5% trong tổng số lao động
trong các KCN, kỹ thuật viên chiếm 4-5%, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo
hơn 30% và còn lại hơn 60% là lao động giản đơn.
Việc cung cấp lao động cho các doanh nghiệp khu công nghiệp đang
gặp mâu thuẫn, đó là thiếu lao động kỹ thuật, có tay nghề trong khi số lao
động cần tạo công ăn việc làm còn rất dư thừa. Để giải quyết tình trạng này,
các chủ doanh nghiệp phải tuyển dụng lao động ngoại tỉnh, tăng chi phí đào
tạo. Đây là yếu tố vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp vừa nảy sinh nhiều vấn
đề phức tạp.
Hiện nay các KCN trên cả nước thu hút được hơn 860.000 lao động trực
tiếp, trong đó gần 40% là lao động ngoại tỉnh. Tại hầu hết các KCN, lao động
ngoại tỉnh thường phải sống và làm việc trong điều kiện rất khó khăn. Họ phải
thuê nhà ở khu vực xung quanh KCN để cư trú với điều kiện sống tạm bợ; rất
ít doanh nghiệp tham gia xây dựng nhà ở cho công nhân. Các đại phương có
nhiều khu công nghiệp cũng chỉ đảm bảo về nhà ở cho số lượng công nhân rất
thấp: khoảng 6,5 %-15% trong tổng số công nhân làm việc trong các khu
công nghiệp.
10
Việc thực hiện các chính sách, pháp luật về lao động, trong các doanh
nghiệp KCN nhất là các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, chưa tuân thủ các quy
định của pháp luật. Một số doanh nghiệp xử lý kỹ luật, sa thải công nhân một
cách tuỳ tiện, trái pháp luật. Nhiều doanh nghiệp chưa ký kết thoả ước lao
động tập thể, hay hợp đồng lao động và chưa thực hiện đóng bảo hiểm xã hội
cho người lao động.
Chính sách tiền lương trả cho người lao động Việt Nam làm việc trong
các doanh nghiệp có vốn ĐTNN chậm thay đổi và rất lạc hậu so với biến

động của giá cả thị trường và tỷ giá hối đoái.
Do các vấn đề tiền lương, đời sống lao động chưa được giải quyết thoả
đáng, nên trong thời gian vừa qua đã xảy ra các tranh chấp lao dộng. Đặc biệt
trong những tháng cuối năm 2005 và đầu năm 2006, tình trạng đình công xảy
ra liên tiếp với số lượng lớn công nhân.
Bốn là, vấn đề môi trường trong Khu công nghiệp:
Trong thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường trong KCN mặc dù đã
được chú trọng hơn nhưng đa số các KCN trong cả nước còn chưa được cải
thiện nhiều và chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn môi trường theo quy
định. Nhiều KCN chưa xây dựng nơi tập trung và xử lý rác thải chỉ thực hiện
trong phạm vi từng nhà máy. Những nhà máy sản xuất bao bì, hoá chất, nhựa,
thường có những chất khó phân huỷ, gây độc hại cho môi trường nước mặt,
nước ngầm và đất. Ô nhiễm về nước thải CN càng trở nên nghiêm trọng. Hiện
chỉ có 33 KCN đã có công trình xử lý nước thải tập trung, 10 KCN đang xây
dựng, còn lại các KCN khác đều thải ra sông, biển đã gây ô nhiểm nghiêm
trọng môi trường xung quanh, nhất là những KCN tập trung các ngành CN
dệt, thuộc da, hoá chất, có lượng nước thải thải ra với khối lượng lớn và có
tính độc hại cao.
11
1.1.2. Vai trò của khu công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH
Sự ra đời của các KCN gắn liền với đường lối đổi mới, chính sách mở
cửa do Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 khởi xướng. Nghị quyết Hội nghị
giữa nhiệm kỳ khoá VII năm 1994 đã đề ra yêu cầu về “Quy hoạch các vùng,
trước hết là các địa bàn trọng điểm, các KCX, khu kinh tế đặc biệt, KCN tập
trung”. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng năm 1996 cũng đã
xác định rõ “Hình thành các KCN tập trung (bao gồm cả KCX, KCNC), tạo
địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển
mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. Ở các thành phố, thị xã, nâng cấp,
cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý
ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen

lẫn với khu dân cư". Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII cũng xác định phương hướng trong thời gian tới là ”Phát
triển từng bước và nâng cao hiệu quả các KCN”. Để thực hiện chiến lược, qui
hoạch phát triển và phân bố công nghiệp, Nhà nước chủ trương tập trung phát
triển vào các KCN theo qui hoạch xác định.
Thực tế, trong hơn 15 năm qua kể từ ngày nước ta có KCN đầu tiên đến
nay, các KCN đã thể hiện vị trí và vai trò quan trọng trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều đó thể hiện:
Trước hết là, tranh thủ thu hút được lượng vốn đầu tư lớn từ bên ngoài
cho CNH,HĐH.
Việc xây dựng các KCN nhằm phát huy hiệu quả của sự tập trung nguồn
lực cho sản xuất. Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư. Đầu tư nước ngoài
vào các KCN cho đến nay chiếm khoảng 27,6% tổng lượng vốn đầu tư nước
ngoài vào nền kinh tế và khoảng 61,4% vào phát triển công nghiệp. Hầu hết,
các dự án đầu tư vào các KCN triển khai nhanh và thuận lợi hơn so với ngoài
KCN. Tính đến nay, vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp KCN đạt trên
12
53% vốn đầu tư đăng ký. Thời gian xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư vào
KCN tương đối ngắn ( khoảng 1 - 2 năm, cá biệt có dự án chỉ 6 tháng sau khi
cấp giấy phép đầu tư đã đi vào sản xuất kinh doanh).
Thứ hai là, tranh thủ được công nghệ hiện đại, kinh nghiệm và phương
pháp quản lý tiên tiến của các nước.
KCN là nơi tập trung hoá sản xuất cao, ở đó tiếp nhận các phương pháp
quản lý hiện đại vận hành trên các dây chuyền công nghiệp hiện đai của các
đối tác trực tiếp nước ngoài và các liên doanh. Nếu cùng xây dựng tại đây, các
doanh nghiệp Việt Nam có nhiều điều kiện tiếp thu, học hỏi phương thức tổ
chức quản lý sản xuất, giúp cho việc xây dựng cơ chế riêng hỗ trợ hoạt động
của doanh nghiệp, đồng thời giúp cho cơ quan quản lý nhà nước thuận tiện
hơn trong quá trình theo dõi giám sát, quản lý hoạt động của các doanh
nghiệp. Một trong những mục tiêu quan trọng của việc hình thành các KCN

và các KCX là sự tiếp nhận chuyển giao công nghệ trong đó có công nghệ về
quản lý, kinh nghiệm về điều hành. Sự chuyển giao công nghệ đã đạt được
những thành công trong một số lĩnh vự nhất định.
Trong tổng số 5056 dự án đầu tư phát triển công nghiệp trong các KCN
đến thời điểm tháng 12 năm 2006 có tới 2433 dự án đầu tư nước ngoài. Các
dự án đầu tư nước ngoài nhìn chung có công nghệ tương đối hiện đại, sản
phẩm có chất lượng tốt và cạnh tranh được cả trên thị trường trong nước và
thị trường nước ngoài.
Các dự án đầu tư nước ngoài tại các KCN thực sự là một trong những
kênh chuyển giao công nghệ một cách nhanh chóng. Các dự án này sử dụng
một số lượng đáng kể lao động trong nước. Qua thực tiễn hoạt động trong các
doanh nghiệp KCN lực lượng lao động được đào tạo và tiếp cận với công
nghệ tương đối hiện đại và được nâng cao trình độ chuyên môn của mình.
13
Thứ ba là, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ trong nước và tiếp
cận với khoa học công nghệ của thế giới.
KCN, KCX, KCNC là vườn ươm công nghệ, nơi có cơ chế hoạt động
hấp dẫn các nhà khoa học đến làm việc nghiên cứu, thí nghiệm. Đây là nơi
triển khai các dự án, những phát minh sáng chế trong công nghiệp trước khi
đưa vào sản xuất. Đó là nơi nối nhà khoa học với doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp. Với những chính sách ưu đãi tốt, hoàn toàn có khả năng thu hút các
ngành công nghệ mũi nhọn như điện tử, sinh học vật liệu mới. Đây là khu thu
hút các lao động khoa học, nguồn nhân lực đầu ra của các viện nghiên cứu.
Do đó, KCN, KCX, KCNC là nơi các doanh nghiệp trong nước có điều kiện
tiếp nhận các thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới, để
vận dụng vào sản xuất của chính doanh nghiệp mình, thúc đẩy nhanh hơn quá
trình thực hiện công nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ tư là, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện
đại, hợp lý; tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Các KCN đã góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp, tăng trưởng

kinh tế, hình thành các trung tâm công nghiệp gắn liền với phát triển đô thị,
tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp
chế biến phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Đồng thời KCN cũng góp
phần giải quyết việc làm, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu hẹp chênh lệch giữa các vùng của đất
nước. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của các KCN cũng đạt ra nhiều vấn đề
kinh tế- xã hội, môi trường cần quan tâm xử lý để tiếp tục phát triển.
Sự phát triển nhanh, có chất lượng của các KCN có tác động rất tích cực
đối với sự chuyển dịch cơ cấu của một tỉnh, một vùng và của cả nước. Từ một
nước nông nghiệp đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá
nhu cầu vịêc làm rất lớn. Phát triển công nghiệp nói chung và các KCN nói
14
riêng nhằm tạo ra nhiều việc làm, thu hút ngày càng nhiều lao động dư thừa ở
khu vực nông nghiệp, góp phần nâng cao được năng suất ở khu vực này. Theo
số liệu điều tra, hiện nay 1 ha đất KCN tạo ra khoảng 150 chỗ làm việc kể cả
gián tiếp và trực tiếp (trong đó lao động trực tiếp bình quân khoảng 81 người/
ha).
Các KCN, KCX góp phần thúc đấy mạnh quá trình chuyển biến cơ cấu
sản xuất công nghiệp theo hướng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu một cách có
hiệu quả, nâng dần tỷ trọng các mặt hàng đã qua chế biến, hạn chế đến mức
thấp nhất việc xuất khẩu nguyên liệu thô.
Thứ năm là, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, thúc đẩy quá trình tăng
trưởng, phát triển nền kinh tế quốc dân.
Do tập trung các cơ sở sản xuất nên có điều kiện thuận lợi trong việc
kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường, do vậy, KCN là địa điểm tốt
để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nội thành, phục vụ mục tiêu phát
triển bền vững. Đây là một trong số các mục tiêu đặt ra đối với việc thành lập
KCN. Cho đến nay, hầu hết các KCN tập trung được thành lập theo nghị
quyết của Thủ tướng Chính Phủ, trong thiết kế cũng như trong quá trình triển
khai xây dựng có chý ý đến việc xử lý nước thải công nghiệp, và đã có các cơ

sở hạ tầng xử lý.
Sự phát triển các KCN tập trung trong giai đoạn vừa qua rộng khắp trên
phạm vi toàn quốc, song nhìn chung tập trung chủ yếu ở khu vực ba vùng
kinh tế trọng điểm. Sự phân bố tập trung này là khách quan, bởi lẽ các vùng
kinh tế trọng điểm là nơi thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp nói chung và
các KCN nói riêng.
Tới đây, việc phát triển, xây dựng, củng cố các KCN, KCX, KCNC
nhằm hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm các nước đi đầu của
ASEAN hiện nay, có mức thu nhập GDP bình quân đầu người khoảng 2.000
15
USD- 2.400 USD vào năm 2020. Như vậy, phát triển các KCN, KCX, KCNC
cũng nhằm thực hiện được mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; góp phần tăng trưởng kinh tế (tăng GDP của địa phương có KCN); phát
triển xã hội (xoá đói giảm nghèo, phấn đấu cho công bằng xã hội); đảm bảo
hội nhập kinh tế quốc tế (doanh nghiệp và sản phẩm có khả năng cạnh tranh
trên thị trường khu vực và quốc tế).Cần ưu tiên phát triển các KCN, các
ngành công nghiệp tạo được giá trị gia tăng lớn, tránh được tình trạng đầu tư
theo phong trào mà không tính đến hiệu quả kinh tế.
1.1.3. Tính tất yếu khách quan về sự hình thành và phát triển các KCN
trong quá trình CNH, HĐH.
Việc hình thành và phát triển các KCN trong quá trình CNH, HĐH là
một tất yếu khách quan vì những lý do sau đây:
1.1.3.1. Do tính quy luật rút ngắn thời gian CNH - cơ sở hình thành mô hình
KCN.
Nhìn lại lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới cho thấy: thời
gian CNH ở các nước, càng về sau càng rút ngắn; những nước kéo dài thời
gian CNH đều thất bại. Phân tích các đợt CNH từ thế kỷ XVIII đến nay thấy
rõ hai nhân tố cơ bản quy định ngắn thời gian CNH đó là: vận dụng được
những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ đương thời và có
những sáng tạo trong tổ chức quản lý kinh tế. Mô hình KCN phát sinh từ sự

vận dụng đó. Thời gian CNH ngày càng được rút ngắn, với chất lượng CNH
cao hơn là một vấn đề có tính quy luật của CNH. Từ đó, đã xuất hiện những
hình thức tổ chức kinh tế hiện đại như KCN, KCX, KCNC. Bản thân các hình
thức tổ chức ngày càng biến đổi theo yêu cầu cách mạng khoa hoc - công
nghệ và tổ chức quản lý nên về cơ cấu và chất lượng các tổ chức kinh tế ấy
16
ngày càng cao. Vì vậy, nước CNH sau không thể sao chép mô hình đã có mà
phải nghiên cứu vận dụng sáng tạo.
1.1.3.2. Do tính hiệu quả của sản xuất công nghiệp tập trung, với năng suất,
chất lượng cao là nhân tố thúc đẩy sự ra đời và phát triển KCN với quy mô và
cơ cấu phù hợp.
Kinh tế công nghiệp là một hệ thống phức hợp bao gồm các nhà máy,
các trung tâm nghiên cứu - triển khai và các cửa hàng. Trên con đường đi tìm
hiệu quả tối ưu của hệ thống ấy, người ta phát hiện ra mô hình KCN. Tuỳ theo
lợi thế so sánh và nhu cầu thị trường mà xác định quy mô và cơ cấu của hệ
thống các KCN. Chính vì vậy, KCN trở thành động lực của vùng kinh tế.
Không có KCN phát triển thì không có vùng kinh tế trọng điểm theo ý nghĩa
kinh tế thị trường. Sự tách rời KCN với vùng kinh tế theo địa phương là
không phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thị trường, là sai lầm về thể
chế quản lý của Nhà nước. Trong khi ở nước ta hơn 60% diện tích trong KCN
còn bỏ hoang thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không có mặt bằng đủ cho
sản xuất kinh doanh. Báo chí cho biết ngay ở các địa phương giá đất rẻ mà
tiền thuê đất trong KCN đã chiếm 30% tổng vốn của doanh nghiệp, do hoạt
động của đơn vị chuyên trách xây dựng cơ sở hạ tầng kém hiệu quả, chi phí
cao.
1.1.3.3. Do KCN là nơi kết hợp sức cạnh tranh của doanh nghiệp với sức cạnh
tranh kinh tế vĩ mô.
Ngày nay, vị thế của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế cũng như của
đất nước đều được quyết định bởi sức cạnh tranh trên thị trường. Đối với các
nước đang phát triển như nước ta, tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện kinh

tế thị trường thế giới đã phát triển cao, thì thách thức lớn nhất trước mắt và
lâu dài là vấn đề sức cạnh tranh. Thách thức ấy ngày càng trở nên lớn hơn
17
theo tiến trình hội nhập, nhất là ở giai đoạn kinh tế tri thức và toàn cầu hoá
phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
Để giải bài toán cạnh tranh trong quá trình hội nhập chỉ có con đường
kết hợp nâng cao sức cạnh tranh của kinh tế vĩ mô đồng thời với nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp. Muốn nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
thì không chỉ có tôn vinh doanh nhân là đủ, mà quan trọng hơn là tìm tòi hình
thức kết hợp lực lượng khoa học - công nghệ với doanh nhân, sự đồng hành
và gắn kết giữa đổi mới doanh nghiệp với đổi mới quản lý nhà nước.
KCN là mô hình kết hợp như thế một cách có hiệu quả. Chính ở các
KCN, chứ không phải ở đâu khác, lợi thế so sánh của đất nước có thể trực tiếp
chuyển thành lợi thế cạnh tranh và nâng cao uy tín chính trị của Nhà nước.
1.1.3.4. Do KCN là nơi đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho
quá trình hiện đại hoá đất nước.
Nhờ không ngừng tiếp nhận và vận dụng sáng tạo những thành tựu tiên
tiến về khoa học - công nghệ và tổ chức quản lý kinh tế, nên KCN còn là nơi
sử dụng và đào luyện một nguồn nhân lực mới, bao gồm những người lao
động đang tiếp cận với kinh tế tri thức và một thế hệ quản lý bậc cao. Trong
suốt chiều dài CNH, HĐH, KCN trở thành môi trường thích hợp cho những
tinh hoa quản lý của đất nước - những tướng lĩnh trên mặt trận chủ yếu - mặt
trận kinh tế trong xây dựng xã hội mới.
1.1.3.5. Do việc phát triển các KCN phải gắn liền với tiến trình đô thị hoá là
xu hướng chung của quá trình CNH, HĐH.
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, các đô thị mới đều ra đời
từ yêu cầu tập trung sản xuất công nghiệp. Vì vậy, trình độ và quy mô phát
triển công nghiệp nói chung và KCN nói riêng cũng thể hiện ở trình độ văn
minh của đô thị (về cơ cấu dân cư, mức sống, lối sống, môi trường, văn hoá,
18

giáo dục đào tạo, và trình độ quản lý đô thị). ở các đô thị gắn liền với KCN thì
bộ phận chủ yếu của dân cư đô thị là những người lao động và quản lý trong
các KCN. Họ có nhu cầu đi lại, ăn ở, nghỉ ngơi, giải trí sao cho phù hợp với
yêu cầu làm việc trong KCN.
Chính vì vậy, vấn đề quy hoạch phát triển KCN, không thể tách rời quy
hoạch phát triển đô thị, phát triển kinh tế ở đây không thể tách rời phát triển
xã hội và văn hoá. Nhận thức vấn đề này ở nước ta còn hạn chế và quá chậm
trễ, thiếu công tác nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm nước ngoài.
1.1.3.6. Do đòi hỏi của sự phát triển nền KTTT định hướng XHCN.
Trong những năm cuối thế kỷ XX, có hai nước XHCN là Trung Quốc
và Việt Nam sớm từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp
chuyển sang kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập. Những thành tựu to lớn
trong cải cách, đổi mới ở hai nước này đang khẳng định một hướng đi đúng
đắn, trong đó nổi bật nhất là chủ trương xây dựng KCN, KCX như là một
khâu đột phá trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Về khách quan, hướng đi này đang làm sống lại tư tưởng Lenin về sử
dụng kinh tế tư bản Nhà nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội đề ra từ những
năm đầu thập kỷ 20 thế kỷ trước cùng với thực hiện chính sách kinh tế mới
(NEP) nhưng sau khi Lenin mất, đã bị xoá bỏ.
Từ những kết quả của các KCN có vốn đầu tư nước ngoài có thể rút ra
mấy nhận xét:
- Mô hình KCN, nhất là KCN có vốn đầu tư nước ngoài là con đường
chủ yếu để rút ngắn thời gian CNH, là tạo ra khả năng khắc phục sự tụt hậu
trong một thế giới phát triển nhanh.
19
- Đó là hình thức tổ chức tốt để kết hợp nội lực với ngoại lực, mở đầu
cuộc cách mạng lực lượng sản xuất trong một nước lạc hậu. Không có cuộc
cách mạng này thì không thể có cơ sở cho định hướng CNXH nền kinh tế và
phát triển bền vững của dân tộc.
- Đó là con đường thực tế để kết hợp phát triển kinh tế với chính trị đối

ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước.
- Đổi mới thể chế quản lý vĩ mô và phương pháp quản lý nhà nước ở
địa phương là điều kiện tiên quyết để phát triển và hoàn thiện mô hình KCN,
trước hết là những đòi hỏi của các doanh nghiệp hoạt động trong KCN về
thuế, hải quan, đất đai (giá thuê đất trong KCN hiện còn cao hơn so với bên
ngoài). Chậm trễ đổi mới thể chế quản lý sẽ làm mất dần ưu thế cạnh tranh
thu hút đầu tư so với các nước xung quanh. Hiện nay, việc đổi mới thể chế và
hoạt động quản lý nhà nước phải đối mặt với vấn đề “Chúng ta đang tụt hậu”
thì mới bứt phá được.
1.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN KCN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
PHÁT TRIỂN KCN TRONG QUÁ TRÌNH CNH, HĐH.
1.2.1. Nội dung phát triển KCN.
1.2.1.1. Về nhu cầu thành lập KCN và kế hoạch vận động các nhà đầu tư trong
và ngoài nước đầu tư vào KCN.
Thực tế phát triển các KCN ở nước ta hiện nay cho thấy một số KCN đã
được thành lập, kể cả KCN liên doanh với nước ngoài, đã xây dựng kết cấu hạ
tầng tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ và tương đối hiện đại song đang gặp khó
khăn trong việc thu hút đầu tư vào dẫn đến việc không đạt được mục tiêu đặt
ra ban đầu, không đạt được hiệu quả như mong muốn, do nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân xác định không chính xác sự cần thiết và nhu cầu
thành lập KCN, chưa có kế hoạch và biện pháp vận đồng đầu tư vào KCN. Do
20
vậy, khi xem xét việc thành lập KCN cần cân nhắc kỹ lưỡng nhu cầu thành
lập KCN đó, khả năng kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào KCN, coi đó là một trong những nội dung quan trọng
nhất của việc thành lập Khu công nghiệp.
1.2.1.2. Sự phù hợp của KCN với kế hoạch phát triển ngành kinh tế - kỹ thuật
cũng như quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Khi xem xét KCN cần xác định phương hướng mặt hàng, sản phẩm chủ
yếu trong KCN đó có phù hợp với định hướng phát triển ngành kinh tế - kỹ

thuật tương ứng hay không, kể cả định hướng thị trường tiêu thụ sản phẩm,
trong đó có vấn đề xuất khẩu sản phẩm. Vai trò, vị trí của KCN trong quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương là yếu tố hết sức quan trọng
khi quyết định thành lập, bao gồm việc tạo ra năng lực sản xuất mới ở địa
phương, hình thành các khu dân cư mới và yêu cầu giải quyết các vấn đề phát
sinh. Việc thành lập các KCN phải phù hợp với định hướng phát triển công
nghệ của ngành kinh tế - kỹ thuật, kể cả yêu cầu áp dụng công nghệ, kỹ thuật
cao, hiện đại đối với một số ngành mũi nhọn.
1.2.1.3. Các dự án thành lập KCN cần thể hiện đầy đủ yêu cầu và có giải pháp
khả thi trong việc phát triển và kinh doanh kết cấu hạ tầng, trước hết là hạ
tầng kỹ thuật như giao thông, cấp điện, cấp thoát nước, thông tin, liên lạc và
xử lý chất thải...
Khi xem xét cơ sở hạ tầng KCN cần tính toán đầy đủ khả năng cung cấp
từ bên ngoài, các đầu nối kỹ thuật, nhu cầu đầu tư và khả năng thực hiện.
Trong các dự án phát triển KCN, yếu tố này đóng vai trò quan trọng, yêu cầu
đầu tư rất lớn và có ý nghĩa quyết định trong việc đảm bảo cơ sở hạ tầng tối
thiểu cho hoạt động của Khu công nghiệp. Trách nhiệm của cơ quan quản lý
Nhà nước là đảm bảo cân đối việc xây dựng kết cấu hạ tầng bên ngoài hàng
21
rào các KCN. Do vậy, khi chuẩn bị các dự án thành lập KCN, các chủ dự án
cần tổng hợp nhu cầu, phưng thức xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào,
các yếu tố cân đối và chỉ đạo thực hiện.
Việc hình thành và phát triển KCN sẽ thu hút một số lượng lớn lao động
làm việc trực tiếp trong và bên ngoài Khu công nghiệp. Vì vậy, cần có kế
hoạch tạo nguồn nhân lực, dạy nghề cho công nhân, việc giải quyết toàn diện,
đồng bộ các yếu tố liên quan đến đời sống của số lao động này cùng với gia
đình họ, bao gồm nhà ở với các điều kiện và phương thức thực hiện hợp lý,
trường học, cơ sở khám chữa bệnh, đi lại, các cơ sở dịch vụ đời sống...
Ngoài các nội dung cần thực hiện nói trên, khi xem xét việc thành lập
các Khu công nghiệp cần sắp xếp theo thứ tự ưu tiên sau đây:

Thứ nhất là, các Khu công nghiệp thành lập trên cơ sở các xí nghiệp
công nghiệp hiện có nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, trong đó có việc bảo vệ
môi trường.
Thứ hai là, các Khu công nghiệp thành lập để giải tỏa các xí nghiệp
công nghiệp đơn lẻ trong nội thành nhằm chỉnh trang lại các đô thị lớn, chống
ô nhiễm môi trường;
Thứ ba là, các Khu công nghiệp được hình thành nhằm thu hút các
doanh nghiệp công nghiệp quy mô nhỏ và vừa gắn liền với việc chế biến
nguồn nguyên liệu nông, lâm, thuỷ sản phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu phát
triển nông thôn.
Thứ tư là, các Khu công nghiệp mới có quy mô lớn, hiện đại. Việc đề
nghị thành lập các Khu công nghiệp mới có quy mô lớn, hiện đại cần được
cân nhắc kỹ, ngoài việc đáp ứng được các điều kiện nói trên; các tỉnh đã có
nhiều Khu công nghiệp loại này cần làm rõ việc thực hiện thu hút đầu tư, khi
22
đã cho thuê lại được ít nhất 50% tổng diện tích đất trong các KCN cũ thì mới
thành lập KCN mới.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển KCN.
Một là, về quy hoạch KCN:
Quy hoạch là nhân tố đầu tiên cần xem xét đến khi khi đánh giá hiệu quả
của một KCN. Một KCN phù hợp với quy hoạch sẽ bảo đảm cho sự phát triển
của KCN đó về lâu dài, đồng thời góp phần đảm bảo cho cơ cấu kinh tế của
địa phương chuyên dịch theo đúng định hướng. Khi xem xét tính phù hợp của
quy hoạch, cần chú ý tới hai nội dung:
- KCN có quy mô phù hợp với quy hoạch phát triển KCN của cả nước
hay không? Có phù hợp với Chiến lược tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của
cả nước và của địa phương hay không? Có phù hợp với Quy hoạch của ngành,
của địa phương không? và phù hợp ở mức độ nào? Các vấn đề này sẽ được
đánh giá ngay từ khi thẩm định dự án thành lập KCN, tuy nhiên điều quan
trọng ở đây là khi KCN đã đi vào vận hành, nó có còn phù hợp với sự thay

đổi về quy hoạch, về chiến lược phát triển của ngành và của địa phương nữa
hay không.
- KCN có được xây dựng phù hợp với Quy hoach chi tiết KCN đã được
phê duyệt hay không? Nếu có những nội dung không phù hợp thì mực độ
không phù hợp đến đâu? Khi đánh gia về vấn đề này, chúng ta phải đánh giá
được mức độ ảnh hưởng của việc không tuân thủ quy hoạch đối với hiệu quả
chung của KCN. Trong đó, vấn đề sử dụng hiệu quả đất trong KCN có ý
nghĩa rất quan trọng, đảm bảo sự phát triển bền vững của KCN. Thường tiêu
chí này do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ra quyết định nhằm
đảm bảo sự phát triển bền vững của KCN. Theo Nghị định số 07/2003/NĐ-
CP ngày 30/01/2003 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý đầu tư
23
và xây dựng, cơ cấu sử dụng đất trong KCN gồm có các bộ phận sau: khu vực
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thường chiếm 55 - 62% diện tích
KCN; khu vực các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ thường chiếm 5
- 7% diện tích KCN; khu vực các doanh nghiệp dịch vụ sản xuất công nghiệp
thường chiếm 3 - 5% diện tích đất KCN; khu vực trung tâm điều hành, công
trình công cộng, dịch vụ (nhà hàng, khu giới thiệu sản phẩm trưng bày hàng
hoá, tổng kho trung chuyển, trạm xăng và bảo dưỡng ô tô...) thường chiếm 3 -
5% diện tích đất KCN; khu vực các công trình kết cấu hạ tầng KCN (đường
giao thông, các công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật: trạm biến áp, trạm xử lý
nước thải, trạm cấp nước..., đất cây xanh...) thường chiếm từ 21 - 34%.
Hai là, về vị trí KCN:
Nếu như điều kiện về quy hoạch là nhân tố cần xem xét tới ngay từ khi
KCN đang còn là dự án thì các nhân tố về vị trí địa lý, giao thông và hiện
trạng KCN sẽ được xem xét sâu hơn và tính toán kỹ càng hơn trong quá trình
triển khai xây dựng và vận hành dự án. Tầm quan trọng của các nhân tố này
thể hiện ở các khía cạnh sau:
- KCN được xây dựng ở vị trí cách biệt với dân cư nhưng đảm bảo thuận
tiện trong việc đi lại sẽ tránh được những ảnh hưởng trong hoạt động của

KCN đối với dân cư, đồng thời tạo điều kiện tận dụng được các nguồn lao
động tại chỗ ở địa phương và vùng xung quanh KCN. Ngoài ra, giao thông
thuận tiện cũng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp KCN dễ dàng vận
chuyển nguyên vật liệu vào KCN phục vụ kịp thời cho sản xuất và vận
chuyển hàng hoá tời thị trường tiêu thụ. Điều này sẽ góp phần vào việc giảm
chi phí sản xuất của doanh nghiệp và cũng là một yếu tố thu hút các nhà đầu
tư vào KCN.
- Hiện trạng đất đai khi xây dựng KCN bao gồm các vấn đề như: thổ
nhưỡng của khu vực đó như thế nào, có ảnh hưởng tới việc san lấp mặt bằng
24
ở mức độ nào? Khu vực đó có nhiều nhà dân sinh sống hay không và mức độ
khó khăn khi tiến hành công tác đền bù giải phóng mặt bằng? Xung quanh
KCN có đất để mở rộng diện tích sau này không?
- Khi đã xây dựng xong kết cầu hạ tầng KCN thì hệ thống hạ tầng KCN
có đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp hay không? Doanh nghiệp có gặp
trở ngại gì về hạ tầng trong quá trình hoạt động?
Đây là một nội dung mang tính định tính, song để hỗ trợ cho việc đánh
giá nội dung này, có thể xây dựng một số nội dung mang tính định lượng,
chẳng hạn như số hộ dân trên một đơn vị diện tích; chi phí đền bù và thời gian
đền bù giải phóng mặt bằng... Đây là nội dung rất quan trọng đánh giá sự
thành công của KCN, KCN đảm bảo vị trí thuận lợi gần cảng biển, gẩn cảng
hàng không; có cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội thuận lợi; có nguồn nhân lực
dồi dào; hấp dẫn các nhà đầu tư; chi phí xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật
KCN thấp và được các ngành trong nước hỗ trợ... thì sự phát triển của KCN
rất thuận lợi, và ngược lại, những KCN không đáp ứng được các yêu cầu trên
thì sẽ gặp rất khó khăn trong việc hình thành và phát triển KCN.
Ba là, về quy mô và loại hình KCN:
Tuỳ theo đặc điểm và ưu thế của mỗi vùng, địa phương mà xác định quy
mô và loại hình KCN cho phù hợp. Đây là nhân tố rất quan trọng để cho
UBND cấp tỉnh lựa chọn quy mô và loại hình KCN cho phù hợp với địa

phương mình.
Đối với các thành phố lớn ở các vùng trọng điểm kinh tế thì phát triển
KCN theo các mục tiêu sau: Với mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì
nên hình thành KCN quy mô từ 100 - 200 ha, chủ đầu tư phát triển hạ tầng
KCN là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Với mục tiêu nhằm di dời
các cơ sở công nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn tập trung vào KCN thì
25

×