Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa mác – lênin về chủ nghĩa xã hội và và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.02 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP.
HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MƠN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI VÀ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ và tên SV - Mã số SV - Mã
nhóm HP (005107…) Giảng viên
hướng dẫn: Tên giáo viên hướng dẫn

Thành phố Hồ Chí Minh - 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
.......................................................................................................................2
1.1. Lý luận về Nhà nước Xã hội chủ nghĩa..........................................2
1.1.1. Khái niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa....................................2
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của nhà nước xã hội chủ nghĩa............2
1.1.3. Đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa...................................3
1.1.4. Nhiệm vụ của nhà nước Xã hội Chủ nghĩa.................................4
1.2. Ý nghĩa của nhà nước xã hội chủ nghĩa.........................................5
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊ NIN VÀO NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM...........7
2.1. Thực trạng nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.......................7
2.1.1. Một số điểm mạnh.......................................................................7


2.1.2. Một số hạn chế............................................................................9
2.2. Phương hướng xây dựng Chủ nghĩa Xã hội Việt Nam...............10
2.2.1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.......................................................................10
2.2.2. Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp
lý..........................................................................................................11
2.2.3. Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa:...............11
KẾT LUẬN....................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................14



LỜI MỞ ĐẦU
Những thành tựu của thực tiễn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho
việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích chính đáng của từng
người dân, đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở
Việt Nam, cũng như đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH) mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn là tất yếu và đúng đắn.
Thực tiễn, bao giờ và ở đâu cũng vậy, muốn xây dựng một xã hội
đương đại cũng cần có những con người tiêu biểu đại diện cho lực lượng phát
triển của xã hội đó, mà lịch sử thường gọi là “thời đại” và “con người của thời
đại”. Đối với Chủ nghĩa Xã hội, theo học thuyết Mác-Lênin, là xã hội tốt đẹp,
nằm ở nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản. Vì thế, giai cấp vơ sản
muốn thực hiện được sứ mệnh của mình, phải xây dựng được đội ngũ tiên
phong của giai cấp, đáp ứng với mục tiêu phát triển của xã hội tốt đẹp đó.
Theo V.I Lênin, giai cấp vơ sản dù đã nắm được chính quyền, nhưng nếu
khơng làm cho xã hội mới có trình độ phát triển cao hơn Chủ nghĩa tư bản, thì
giai cấp vơ sản vẫn chưa xây dựng xong Chủ nghĩa Xã hội, thậm chí, “cơng
cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội chỉ cịn là một mớ sắc lệnh”.
Vì vậy, qua thời gian học tập và tìm hiểu,tác giả đã chọn đề tài "

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội và và ý nghĩa
của nó đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay" để có
cái nhìn sâu và rộng hơn.


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC- LÊNIN
1.1. Lý luận về Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Khái niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, đảng của giai
cấp cơng nhân thực hiện vai trị lãnh đạo của mình đối với tồn xã hội; là một
tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội; đó là một nhà nước kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết
quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chun chính vơ sản
được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Với tư cách là một trong những tổ chức cơ bản nhất của hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thể hiện và thực
hiện ý chí, quyền lực của nhân dân. Đó là một cơng cụ quản lý do chính đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra nhằm thực hiện quyền
lực và lợi ích của nhân dân, đồng thời cũng thơng qua nó, giai cấp cơng nhân
và chính đảng của mình thực hiện sự lãnh đạo đối với tồn xã hội trong q
trình bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nhà nước xã hội chủ
nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức
quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân, được thể hiện tập trung qua hai
chức năng chủ yếu của nó, đó là chức năng thống trị giai cấp và chức năng xã
hội.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của nhà nước xã hội chủ nghĩa
C.Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ

mệnh lịch sử của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha
hóa của con người do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với


nhân dân lao động "phá hủy nhà nước tư sản" chiếm lấy chính quyền thiết lập
chun chính vơ sản. Bởi vì, "giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời
kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nên chun chính cách mạng của giai
cấp vô sản .
Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân phải nắm
vững cơng cụ chun chính, phải xây dựng nhà nuớc xã hội chủ nghĩa vững
mạnh, trở thành một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân
dân để bảo vệ thành quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội.
Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chun chính vơ sản, xây dựng nhà nước
xã hội chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động
chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khiến cho giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động thông qua nhà nước phải trấn áp bằng bạo
lực khi cần thiết. V.I.Lênin xem dấu hiệu tất yếu, điều kiện bất buộc của
chuyên chính là trấn áp bằng bạo lực những kẻ bóc lột, phản động với tính
cách là một giai cấp. Đồng thời, trong thời kỳ q độ cũng cịn có các giai
cấp, tầng lớn trung gian khác và do địa vị kinh tế - xã hội vốn có, các giai cấp
này thường dao động, khơng thể tự mình đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước thực
tế đỏ, giai cấp công nhân phải tun truyền, thuyết phục, lơi cuốn họ đi theo
mình trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa
đóng vai trị là thiết chế cần thiết bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân
đối với tồn xã hội.
1.1.3. Đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa

Đặc trưng


Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản để thực hiện quyền
lực của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chun chính giai cấp,
nhưng vì lợi ích của tất cá những người lao động tức là tuyệt đại đa số nhân
dân; thực hiện sự trấn áp đối với những lực lượng chống đối, phá hoại sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn xem mặt tổ chức, xây dựng là đặc
trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của chun chính vơ sản.
V.I.Lênin cho rằng, chun chính vơ sản khơng phải là bạo lực đối với bọn
bóc lột, và cũng khơng phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ
chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa.
Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là yếu tố cơ bản của nên dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, con đường vận động, phát triển của nó là ngày
càng hồn thiện các hình thức đại diện của nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm
lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội.
Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, "nhà
nước khơng cịn ngun nghĩa", là "nửa nhà nước". Sau khi những cơ sở kinh
tế - xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng khơng cịn,
nhà nước "tự tiêu vong". Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vô
sản.
1.1.4. Nhiệm vụ của nhà nước Xã hội Chủ nghĩa
Những đặc trưng cơ bản đó cho thấy chức năng, nhiệm vụ của nhà nước
xã hội chủ nghĩa biểu hiện tập trung ở việc quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh
vực bằng pháp luật.



Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện cả bằng tổ
chức có hiệu quả cơng việc xây dựng toàn diện xã hội mới, cả bằng việc sử
dụng những công cụ bạo lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước,
giữ vững an ninh xã hội.
1.2. Ý nghĩa của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chúng ta đều biết, chức năng của nhà nước vừa bị quy định, vừa là sự thể
hiện bản chất của nhà nước. Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà chức năng
của nhà nước được đề cập, xem xét dưới nhiều góc độ. Trong bài viết này,
chúng tôi chỉ giới hạn ở phạm vi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của
quyền lực chính trị mà theo đó, bất kỳ nhà nước nào cũng đều có chức năng
thống trị chính trị của giai cấp (chức năng giai cấp) và chức năng xã hội.
Theo quan niệm chung, chức năng giai cấp là cái chỉ ra rằng, mọi nhà
nước bao giờ cũng là công cụ chuyên chính của một giai cấp nhất định. Mọi
nhà nước đều sẵn sàng sử dụng bất cứ công cụ, biện pháp nào có thể có để
bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình. Cịn chức năng xã hội của nhà nước là
cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý những hoạt
động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời phải chăm lo một số cơng việc
chung của tồn xã hội. Trong một giới hạn xác định, nhà nước phải hoạt động
để thoả mãn những nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý
của nó. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước
trong tay mình, giai cấp thống trị nào cũng buộc phải nhân danh xã hội mà
quản lý những công việc chung.
Đề cập đến chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi chú
trọng đến chức năng giai cấp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
vẫn coi chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất của nó.
Nói về vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng, chun chính vơ sản không phải chỉ là



bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng khơng phải chủ yếu là bạo lực, mà mặt cơ
bản của nó là khơng ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân cùng với việc tổ
chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa. Ơng viết: “Lần đầu tiên chun chính vô sản, tức là thời kỳ quá độ
tiến tới chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân, cho
số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột”. Như
vậy, có thể nói, bản thân chuyên chính vơ sản, theo quan điểm mácxít, tự nó
đã thể hiện sự thống nhất giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, về thực chất, là chính quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân và vì thế, trong nhà nước này, nền dân chủ phải là nền
dân chủ đầy đủ nhất, rộng rãi nhất và thực chất nhất - đó là nền dân chủ bao
quát toàn diện mọi lĩnh vực đời sống xã hội và lấy dân chủ trong lĩnh vực
kinh tế làm nền tảng. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể tồn tại và phát triển được
nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một cách đầy đủ và không ngừng mở
rộng dân chủ. “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự
phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn...” đã được
V.I.Lênin coi là một trong những nhiệm vụ cấu thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hồn thiện nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội khơng cịn các giai cấp đối kháng,
nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thực hiện hai chức năng cơ bản, nhưng cơ chế
và mục đích thực hiện hai chức năng đó đã có sự thay đổi căn bản. Cũng như
mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa
muốn thực hiện được chức năng giai cấp của mình, trước hết phải làm tốt
chức năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân
dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối
các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ
sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững



địa vị thống trị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp
sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có
nghĩa là, chức năng giai cấp và chức năng xã hội ln có mối quan hệ biện
chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia.


CHƯƠNG II: Ý NGHĨA QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊ NIN ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.1. Ý nghĩa của quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
Xét về tổng thể, chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu tư tưởng vĩ đại của
nhân loại do C. Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng vào đầu thế kỷ XIX, được
V.I. Lênin kế tục, phát triển từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa
Mác - Lênin phơi bày bản chất sâu xa nhất, những mâu thuẫn cố hữu nhất tồn
tại trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dự đốn chính xác xu hướng vận động
của các hình thái kinh tế - xã hội để đi đến khẳng định tương lai của nhân loại
là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, đây là học thuyết khoa học, cách mạng
và nhân văn duy nhất đề ra mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,
giải phóng con người và chỉ rõ lực lượng, con đường, phương thức nhằm đạt
được mục tiêu đó.
Nhờ có chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C. Mác đã lý
giải một cách khoa học và khách quan các quy luật phát triển của xã hội lồi
người thơng qua sự vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội; đồng thời,
tìm ra quy luật giá trị thặng dư, chỉ rõ bản chất, hình thức và cách thức mà
nhà tư bản bóc lột người công nhân và nhân dân lao động. Với chủ nghĩa xã
hội khoa học, C. Mác khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là
lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, đứng lên giải phóng chính mình để xây
dựng một chế độ xã hội khơng cịn người bóc lột người, biến chủ nghĩa xã hội
từ không tưởng trở thành khoa học, như Lênin nhận định: “đem khoa học thay
thế cho mộng tưởng”. Học thuyết Mác đã trở thành một vũ khí lý luận, tư

tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh chống lại mọi áp bức, bóc lột và bất cơng
trong xã hội.
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, sự phát triển không đồng đều giữa các nước khiến mâu thuẫn


gia tăng và chiến tranh xảy ra là điều tất yếu, trong khi phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc diễn ra
mạnh mẽ. Vì vậy, Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác để
giải quyết những vấn đề phát sinh trong thời đại của mình. Ơng chỉ ra khả
năng thắng lợi của cách mạng vô sản; làm rõ mối quan hệ giữa cách mạng vô
sản với cách mạng giải phóng dân tộc; sáng lập học thuyết đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân và lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Mười
Nga, đưa Đảng Cộng sản lần đầu tiên trở thành đảng cầm quyền tại nước Nga
Xơviết. Cũng chính Lênin là người kiến tạo mơ hình phát triển mới của chủ
nghĩa xã hội với “Chính sách kinh tế mới” cùng nhiều biện pháp cụ thể để
hiện thực hóa xã hội xã hội chủ nghĩa từ thực tiễn của nước Nga. Sự phát triển
sáng tạo học thuyết Mác của Lênin đã làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở
thành hệ thống lý luận thống nhất của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới.
Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từ sự phân tích kỹ lưỡng điều
kiện cụ thể của nước ta là một nước nghèo với nền sản xuất nông nghiệp lạc
hậu, muốn bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã
hội, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta
hiện nay là phát triển sản xuất, để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì khơng có cách nào khác là phải dốc
lực lượng của mọi người ra để sản xuất”5. Người chỉ ra yêu cầu cấp bách phải
xây dựng nền tảng vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội với những con
người mới xã hội chủ nghĩa. Từ đó, từng bước thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ kháng chiến và kiến quốc.

Cho đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin cùng những chỉ dẫn quý báu của
Hồ Chí Minh vẫn giữ vai trị quyết định tới q trình Đảng lãnh đạo cách
mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới tại Việt Nam bởi nó tiếp tục soi
sáng những vấn đề lý luận để giải quyết kịp thời các vấn đề thực tiễn đặt ra,


đưa nước ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội.
2.1. Thực trạng nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
2.1.1. Một số điểm mạnh
Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 35 năm qua rất đáng ghi nhận.
Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh
chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở
thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người
tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát
nghèo. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2
USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt
Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng
nặng nề bởi đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng
kể. Tăng trưởng GDP ước đạt 2,9% năm 2020. Việt Nam là một trong số ít
quốc gia trên thế giới tăng trưởng kinh tế dương, nhưng đại dịch đã để lại
những tác động dài hạn đối với các hộ gia đình - thu nhập của khoảng 45% hộ
gia đình được khảo sát giảm trong tháng 1 năm 2021 so với tháng 1 năm
2020. Nền kinh tế được dự báo sẽ tăng trưởng 6,6% năm 2021 nếu Việt Nam
kiểm soát tốt sự lây lan của vi-rút đồng thời các ngành sản xuất hướng xuất
khẩu hoạt động tốt và nhu cầu nội địa phục hồi mạnh mẽ.
Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội.
Dân số Việt Nam đã lên đến 96,5 triệu vào năm 2019 (từ khoảng 60 triệu năm
1986) và dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050. Theo kết quả Tổng

điều tra dân sớ Việt Nam năm 2019, 55,5% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi
thọ trung bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhập tương đương
trong khu vực. Nhưng dân số đang bị già hóa nhanh. Tầng lớp trung lưu đang


hình thành – hiện chiếm 13% dân số và dự kiến sẽ lên đến 26% vào năm
2026.
Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những
chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển,
lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống
nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội
ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế
ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Những kết quả, thành
tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy
thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc
tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần
nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước
được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.
Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những
thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình
nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng
ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và

xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ


tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh tồn diện,
đồng bộ cơng cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới"
2.1.2. Một số hạn chế
Tăng trưởng và cơng nghiệp hóa nhanh của Việt Nam đã để lại nhiều
tác động tiêu cực đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tổng mức
tiêu thụ điện tăng gấp ba lần trong vòng mười năm qua, nhanh hơn mức tăng
sản lượng điện. Với sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nhiên liệu hóa thạch,
ngành năng lượng phát thải gần hai phần ba tổng phát thải khí nhà kính của cả
nước. Nhu cầu cấp thiết là phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng
sạch. Trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đã nổi lên là quốc gia phát thải khí nhà
kính bình qn đầu người tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới – với mức tăng
khoảng 5% mỗi năm. Nhu cầu sử dụng nước ngày một tăng cao, trong khi
năng suất nước vẫn còn ở mức thấp, chỉ đạt 12% so với chuẩn thể giới. Tình
trạng khai thác thiếu bền vững tài nguyên thiên nhiên như cát, thủy sản và gỗ
có thể ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng dài hạn. Bên cạnh đó,
đại đa số người dân và nền kinh tế Việt Nam đều dễ bị tổn thương trước tác
động của biến đổi khí hậu.
Đơ thị hóa, tăng trưởng kinh tế và dân số tăng nhanh đang đặt ra những
thách thức ngày càng lớn về quản lý chất thải và xử lý ô nhiễm. Lượng rác
thải của Việt Nam dự báo tăng gấp đơi trong vịng chưa đầy 15 năm tới. Bên
cạnh đó là vấn đề rác thải nhựa đại dương. Theo ước tính, 90% rác thải nhựa
đại dương tồn cầu được thải ra từ 10 con sơng, trong đó có sơng Mê Kông.
Việt Nam cũng là một trong mười quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề
nhất bởi ô nhiễm khơng khí. Ơ nhiễm nguồn nước đang gây ra những hậu quả

nghiêm trọng đối với năng suất của các ngành quan trọng và với sức khỏe của
người dân.


Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền
vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh
nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước cịn hạn chế; mơi trường bị ô
nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường cịn nhiều bất cập.
Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong q trình
tồn cầu hố và hội nhập quốc tế.
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm
sóc y tế và nhiều dịch vụ cơng ích khác cịn khơng ít hạn chế; văn hố, đạo
đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức
tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thối về tư tưởng chính trị
và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong
khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại ln tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống
phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hồ bình" nhằm xóa bỏ
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.2. Phương hướng xây dựng Chủ nghĩa Xã hội Việt Nam
2.2.1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân thấp kém, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan
trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội,… có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và
khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải
cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ
chủ chốt và lâu dài”.



2.2.2. Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý
Người khẳng định: “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là cơng
nghiệp và nông nghiệp… hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh
được”. Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho
nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu….Công nghiệp phải phát triển mạnh để
cung cấp hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân;
cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông
nghiệp và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp.
Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cũng nhau
phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh
chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công nông để xây dựng
chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho nhân dân.
2.2.3. Tất yếu khách quan phải tiến hành cơng nghiệp hóa:
Cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con
đường no ấm thực sự của nhân dân ta. Trong bài con đường phía trước (ngày
20-01-1960), Người viết: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi
chúng ta dùng máy móc để sản xuất thật rộng rãi; dùng máy móc cả trong
cơng nghiệp và trong nơng nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho
sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi
thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra
máy, ra gang, ra thép, than, dầu… Đó là con đường phải đi của chúng ta: Con
đường cơng nghiệp hóa nước nhà”.
2.2.4. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ơ,
lãng phí, quan liêu.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con
đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho
nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh



phúc”, “Sản xuất mà khơng tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”. Theo
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sản xuất và tiết kiệm gắn với nhau như
một phương châm. Phải luôn thực hành trong một nền kinh tế nghèo nàn lạc
hậu lại phải chịu nhiều bom đạn chiến tranh, chịu nhiều thiên tai bất thường.
Phát triển sản xuất để tăng sản phẩm xã hội và thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí là hai mặt biện chứng trong các chặng đường phát triển của đất nước,
nâng cao đời sống nhân dân.
Đồng thời, Người căn dặn trong phát triển kinh tế phải chống tham ơ,
lãng phí, quan liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, ba căn bệnh tham ơ, lãng phí, quan liêu “là
kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”. Loại kẻ thù này “khá
nguy hiểm, vì nó khơng mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ
chức của ta, để làm hỏng cơng việc của ta”. Dù có cố ý hay khơng, tham ơ,
lãng phí, quan liêu “cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến”. “nó
làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại
đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”. Nó “phá hoại tinh thần,
phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy
cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”.


KẾT LUẬN
Xét trên nhiều phương diện, có thể thấy, “người dân Việt Nam ngày
càng có điều kiện sống tốt hơn so với bất kỳ thời kỳ nào trước đây”. So với
nhiều quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế, chỉ số phát triển con người
(HDI) của Việt Nam cao hơn khá nhiều. Trong đại dịch COVID-19, những
thành công đạt được trong việc hỗ trợ người dân chăm lo sức khỏe, phát triển
kinh tế, ổn định đời sống đã minh chứng ở Việt Nam “không ai bị bỏ lại phía
sau”. Chúng ta khơng chỉ tăng trưởng kinh tế mà còn giải quyết được nhiều
vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức
phát triển kinh tế.

Mặc dù, vẫn còn những hạn chế, thách thức trong giải quyết hài hịa lợi
ích quốc gia với lợi ích chính đáng của từng cá nhân, nhưng với những kết
quả đạt được trên thực tế trong những năm qua ở Việt Nam, chúng ta hoàn
toàn tin tưởng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng
là một xã hội hướng tới các giá trị đích thực vì con người, sẽ khơng “có sự
cạnh tranh chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm”, khơng có
“vì lợi nhuận mà bóc lột chà đạp lên phẩm giá con người”, khơng có kiểu
“cạnh tranh bất cơng”, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số cá nhân
và các phe nhóm…”, như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Triết học, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, t. 6, tr.
515
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.
698
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1987, tr. 29
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia,
Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 84 - 85



×