NHỮNG KIẾN THỨC CHƯA RA THI TN TỪ 2009 ĐẾN 2011 CẦN CHÚ Ý
A. CÂU 2 ĐIỂM
Câu 1: Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1945-1975?
Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 có ba đặc điểm:
a. Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất
nước.Biểu hiện :
- Khuynh hướng, tư tưởng chủ đạo của văn học là tư tưởng cách mạng .
- Đề tài chủ yếu của văn học là Tổ quốc và Chủ nghĩa xã hội. Văn học gắn bó và phản ánh những chặng đường
cách mạng của dân tộc.
b. Nền văn học hướng về đại chúng. Biểu hiện :
- Đối tượng phản ánh và phục vụ của văn học là quần chúng nhân dân,xây dựng được hình tượng các tầng lớp
nhân dân,quan tâm đến đời sống nhân dân.
- Văn học có nội dung ngắn gọn, chủ đề rõ ràng, hình thức trong sáng, dễ hiểu.
c. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.Biểu hiện :
- Văn học đề cập những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính dân tộc.
- Nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất cộng đồng
- Lời văn trang trọng, hào hùng.
- Văn học thể hiện và khơi dậy niềm vui, niềm tin cho nhân dân trước những khó khăn, thử thách của đất nước.
- Khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn:
Câu 2. Trình bày ngắn gọn quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh ?
Quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh gồm ba điểm chính:
- Hồ Chí Minh coi văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú, phục vụ có hiệu quả cho hoạt động cách
mạng; nhà văn cũng phải ở giữa cuộc đời, góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội.
- Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng đối tượng thưởng thức văn nghệ. Văn chương cách mạng phải hướng về
quần chúng nhân dân để phục vụ.
- Hồ Chí Minh luôn đề cao tính chân thật của văn chương; hình thức biểu hiện của tác phẩm phải trong
sáng,hấp dẫn, tránh lối viết cầu kì, xa lạ; tác phẩm văn chương phải thể hiện được tinh thần của dân tộc, của
nhân dân.
Câu 3: Trình bày ngắn gọn phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh ?
Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh độc đáo, đa dạng thể hiện qua ba thể loại :
+Văn chính luận: thường rút gọn, tư duy sắc sảo, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng đầy sức
thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp.
+Truyện và kí: rất hiện đại, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng vừa có sự sắc bén,
thâm thúy của phương Đông vừa có cái hài hước, hóm hỉnh của phương Tây.
+Thơ ca: những bài thơ tuyên truyền lời lẽ giản dị, mộc mạc mang màu sắc dân gian hiện đại, dễ thuộc, dễ
nhớ, có sức tác động lớn; thơ nghệ thuật hàm súc, có sự kết hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, trữ
tình và tính chiến đấu.
Câu 4. Trình bày hoàn cảnh ra đời bản "Tuyên ngôn Độc lập "của Hồ Chí Minh ?
Hoàn cảnh ra đời bản "Tuyên ngôn Độc lập "của Hồ Chí Minh :
- Tháng 8.1945, nhân dân ta vừa giành được chính quyền sau cuộc Tổng khởi nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
từ Việt Bắc về Hà Nội và soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập.Đến ngày 2.9.1945, tại Quảng trường Ba Đình,
Hà Nội, Người đã đọc bản Tuyên ngôn này;
- Khi đó, bọn đế quốc, thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta :
+ Sắp tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc được sự ủng hộ của đế quốc Mĩ;
+ Tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, đằng sau chúng là lính Pháp;
+ Pháp đã tung ra thế giới một luận điệu xảo trá : Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp, chúng có công
“khai hoá”, “bảo hộ” xứ này nhưng bị phát xít Nhật xâm chiếm; nay Nhật bị Đồng minh đánh bại, thì Pháp sẽ
trở lại Đông Dương là lẽ đương nhiên. Bản "Tuyên ngôn Độc lập" cương quyết bác bỏ luận điệu này.
Câu 5. Nêu hoàn cảnh tác giả Phạm Văn Đồng viết bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của
dân tộc?
Phạm văn Đồng viết bài này nhân kỉ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu (3-7-1888_3-7-1963) in
trong tạp chí văn học tháng 7-1963
Thời điểm này có nhiều sự kiện quan trọng: từ năm 1954 đến 1959, Ngô Đình Diệm và chính quyền Sài Gòn
lê máy chém khắp miền Nam và thực hiện luật 10/59. Từ năm 1960, Mĩ can thiệp sâu vào chiến tranh Việt nam
và khắp nơi ở miền Nam nổi lên phong trào đấu tranh quyết liệt. Viết bài nghị luận ca ngợi Nguyễn Đình Chiểu
ở thời điểm này là có ý nghĩa lớn
Câu 6: Trình bày những điểm chính phong cách thơ Tố Hữu ?
-Về nội dung, thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị rất sâu sắc
+Hồn thơ Tố Hữu hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn,niềm vui lớn của con người cách
mạng.Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu là cái tôi chiến sĩ,nhân danh cách mạng, nhân danh cộng đồng dân tộc
+Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện
chủ yếu,luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân.Cảm hứng chủ đạo là cảm
hứng lịch sử-dân tộc, là vấn đề vận mệnh cộng đồng, nhân vật trữ tình mang phẩm chất tiêu biểu cho dân tộc.
+Những vấn đề chính trị trọng đại của dân tộc được Tố Hữu thể hiện qua giọng thơ tâm tình,đằm thắm,là
lời ca ngọt ngào tha thiết.
-Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà:
+Sử dụng sáng tạo các thể thơ truyền thống của dân tộc: thể thơ lục bát, thể thơ thất ngôn
+Sử dụng những từ ngữ và cách nói quen thuộc của dân tộc, phát huy cao độ tính nhạc phong phú của
tiếng Việt.
Tóm lại: Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị, thơ Tố Hữu gắn liền với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng
mạn, thơ Tố Hữu có giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết của quê hương xứ Huế,thơ Tố Hữu đậm đà bản sắc
dân tộc.
Câu 7: Nêu những nét chính về nội dung và nghệ thuật bài thơ Việt Bắc?
-Nội dung : Tình cảm đôn hậu của con người Việt Bắc và sự ân tình thuỷ chung của người cán bộ kháng
chiến trong cuộc chia tay. Qua đó, tác giả đã khắc hoạ đậm nét hình ảnh Việt Bắc tươi đẹp, cuộc sống chiến đấu
trong kháng chiến vô cùng gian khổ nhưng cũng bất khuất, anh hùng và chiến thắng.
-Nghệ thuật : Giọng thơ trữ tình ngọt ngào của thể lục bát, hình ảnh thơ trong sáng mang đậm màu sắc
địa phương, ngôn ngữ giản dị nhưng linh hoạt uyển chuyển, kết cấu đối đáp đậm nét ca dao trong một hoàn
cảnh chia tay đặc biệt đầy sáng tạo….khiến cho bài thơ đậm đà tính dân tộc.
Câu 8. Nêu những nét chính về nội dung và nghệ thuật đoạn trích "Đất nước"?
-Nội dung : Thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về Đất Nước của tuổi trẻ thành thị miền Nam
trong thời chống Mỹ. Trên nền văn hoá dân gian vững chắc, tác giả đã hướng sự tìm tòi, suy ngẫm tới nhiều
bình diện như lịch sử, địa lý, phong tục,…để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân và gợi ý thức trách
nhiệm của mỗi người trước vận mệnh của Đất Nước.
-Nghệ thuật : tất cả các kiến thức, tư liệu, sự kiện phong phú được đưa vào không chỉ để tác động vào lí
trí, làm bừng sáng nhận thức mà còn lay thức tình cảm của người đọc, của mỗi người Việt nam chủ yếu nhờ vào
sự thẩm thấu qua tâm hồn cảm xúc của Nguyễn Khoa Điềm. Từ đó nhà thơ đã tìm được một cách nói riêng
giọng điệu tâm tình.
Câu 9/ Nêu ý nghĩa câu thơ đề từ "Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn" trong bài thơ "Đàn ghi ta của Lorca"?
-Với Lorca, cây đàn là biểu tượng cho nghệ thuật; với Lorca, nghệ thuật là tình yêu, là lẽ sống. Lorca
không thể rời xa nghệ thuật, ngay cả khi đã từ giã cõi đời
-Tây Ban Nha là quê hương của cây đàn ghi ta. Đàn ghi ta là biểu tượng đặc trưng cho đất nước Tây Ban
Nha. Vì thế câu thơ di chúc còn biểu hiện tình yêu thiết tha của người nghệ sĩ Lor ca với xứ sở quê hương.
- Lor ca là nhà cách tân nghệ thuật. Lor ca biết thi ca của mình một ngày nào đó sẽ án ngữ, ngăn cản
những người đến sau trong sáng tạo nghệ thuật nên di chúc dặn lại cần phải biết chôn nghệ thuật của ông để đi
tới.
Câu 10. Nêu nội dung và hình thức nghệ thuật bài thơ "Đàn ghi ta của Lorca"(Thanh Thảo)?
Về nội dung bài thơ
-Bài thơ viết vê cái chết của Fê-đê-ri-cô Ga-xi-a Lor-ca, nhà thơ, nhạc sĩ, kịch tác gia, nhà hoạt động sân khấu
thiên tài người Tây Ban Nha vào năm 1936, khi ông mới 38 tuổi.
-Cái chết của Lor-ca là sự kiện gây chấn động lớn không chỉ ở Tây Ban Nha mà còn với toàn thế giới, không
chỉ với lúc bấy giờ mà còn âm vang tới nhiều năm sau. Thanh Thảo muốn phục sinh thời khắc bi tráng đó, tỏ
thái độ ngưỡng mộ, đau xót và qua đó xây dựng biểu tượng nghệ thuật Lor-ca qua một hình ảnh quen thuộc mà
đọc đáo: đàn ghi ta.
3) Về hình thức
Thanh Thảo thể nghiệm một hình thức mới, gần gũi với dòng mạch tượng trưng và siêu thực (mà F.G. Lor-ca là
một thành viên) tạm gọi là kết hợp và giao hoà: kết hợp giữa tự sự và trữ tình, giữa thơ và nhạc, giữa màu sắc
thơ viếng phương Đông và chất bi tráng trong nhạc giao hưởng phương Tây, giữa hệ thống thi ảnh Lor-ca và hệ
thống thi ảnh của chính tác giả. Tất cả lại được đưa vào một cấu trúc mới cũng mang tính chất kết hợp và giao
hoà: giao hoà giữa tính liên tục trong cốt tự sự với tính gián đoạn trong suy cảm và ngôn ngữ thơ.
Câu 11. Qua đoạn trích tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”,Nguyễn Tuân muốn gởi đến người đọc ý tưởng gì ?
Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng,
hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thơi,
nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới : chất vàng mười
của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội qua hình ảnh người lái đò sông Đà.
Câu 12. Nêu ý nghĩa nhan đề Rừng xà nu ?
Ý nghĩa nhan đề Rừng xà nu :
- Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được
khơi nguồn từ hình ảnh này.
+ Ý nghĩa tả thực : Nhà văn nói về cây xà nu- một loài cây sống thành rừng ở Tây Nguyên.Loài cây này
có sức sống mãnh liệt, không chịu khuất phục trước sự thay đổi của thời tiết.Cây xà nu luôn gắn bó mật thiết và
quan hệ chiếu ứng với cuộc sống của người dân Tây Nguyên.
+ Ý nghĩa biểu tượng: Qua sức sống mãnh liệt của cây xà nu, rừng xà nu, nhà văn nói đến nỗi đau và sức
sống , phẩm chất kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Câu 13 . Câu văn mở đầu được lặp lại ở cuối tác phẩm Rừng xà nu được viết như thế nào ? Hình ảnh cánh rừng
xà nu đầu và cuối tác phẩm gợi cho anh (chị) ấn tượng gì?
a. Câu văn mở đầu được lặp lại ở cuối tác phẩm Rừng xà nu được viết : đứng trên đồi xà nu ấy trông ra
xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời .
b.Hình ảnh cánh rừng xà nu đầu và cuối tác phẩm : gợi ra cảnh rừng xà nu hùng tráng, kiêu dũng và bất
diệt, gợi ra sự bất diệt, kiêu dũng và hùng tráng của con người Tây Nguyên nói riêng và con người Việt Nam
nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại. ấn tượng đọng lại trong kí ức người đọc mãi mãi
chính là cái bát ngát của cánh rừng xà nu kiêu dũng đó.
Câu 14: Hãy cho biết màn kết vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” diễn ra như thế nào? Ý nghĩa của
màn kết vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”?
Trả lời :
- Kết thúc vở kịch, Trương Ba Chết, nhưng hồn ông vẫn còn đó “giữa màu xanh cây vườn, Trương Ba chập
chờn xuất hiện”, và ông đã nói với vợ mình những lời tâm huyết, hàm chứa ý nghĩa “ Tôi đây bà ạ.T ôi ở liền
ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta…Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta,
trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”.
- Những lời nói của Trương Ba , phải chăng đó là sự bất tử của linh hồn trong sự sống, trong lòng người.Điều
đó thêm tô đậm nhân cách cao thượng của Trương Ba và khắc sâu thêm tư tưởng nhân văn cao cả của tác
phẩm.
Câu 15. Ý nghĩa nhan đề Hồn Trương Ba da hàng thịt ?
Nhan đề hồn Trương Ba da hàng thịt là một hình tượng nghệ thuật, phản ánh một hiện thực cuộc sống con
người khi bị rơi vào nghịch cảnh, phải sống giả tạo bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo, không được sống
đích thực là chính mình. Nhan đề còn gửi gắm một ý nghĩa sâu sắc: Đó là sự cảnh tỉnh con người khi không làm
chủ được hoàn cảnh, không làm chủ được bản thân để lối sống dung tục tầm thường lấn át lối sống thanh cao
trong sáng, để thể xác sai khiến linh hồn, để những ham muốn bản năng thấp kém làm cho nhân cách lệch lạc,
nhoà mờ khiến tâm hồn và thể xác không còn là một thể hài hoà thống nhất.
Nhan đề đã thâu tóm cả giá trị phản ánh hiện thực lẫn nội dung nhân đạo của tác phẩm
Câu 16: Giới thiệu ngắn gọn về cuộc đời của nhà văn Hê-minh-uê và sáng tác văn chương của ông?
( Trích đề thi và đáp án Tốt Nghiệp THPT năm 2007)
- Ơnixt Hêminguê (1899 – 1961) là nhà văn Mĩ nổi tiếng thế giới.
- Ông yêu thích thiên nhiên hoang dại, từng tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất. Sau đó cùng với một số trí
thức, nghệ sĩ, ông tự xưng là “thế hệ vứt đi”. Chiến tranh thế giới thứ hai, ông tham gia đội quân quốc tế chống
phát xít ở Tây Ban Nha, làm phóng viên mặt trận, sáng tác văn chương
- Ông được giải Nôben Văn học (1954).
- Hai tác phẩm tiêu biểu : Giã từ vũ khí, Ông già và biển cả
Câu 17: Sự thể hiện nguyên lý Tảng băng trôi trong đoạn trích “Ông già và biển cả”:
- Phần nổi: Miêu tả một cuộc săn bắt cá. Ông lão là người săn cá, cá kiếm là con mồi.
- Phần chìm: ( biểu tượng, ẩn dụ)
+ Nhân vật Xantiago như một biểu tượng về Con người lao động có khát vọng đẹp.Để đạt được ước mơ, lí
tưởng, con người phải trải qua cuộc đọ sức quyết liệt
( Ông lão chiến thắng con cá là nhờ thạo nghề giàu kinh nghiệm, nghị lực phi thường, niềm tin vào khả năng
chiến thắng,trí tuệ sáng suốt)
+Con cá kiếm là biểu tượng của ước mơ,l í tưởng mà mỗi con người theo đuổi trong cuộc đời.
+ Biển cả là khung cảnh kỳ vĩ tương ứng với môi trường lao động đầy thử thách của con người.
+Cuộc đi câu là hành trình theo đuổi một khát vọng to lớn vượt ra ngoài giới hạn của con người.
Trong mọi hoàn cảnh và điều kiện ta nhận thấy “con người chỉ có thể bị hủy diệt chứ không bị đánh
bại”.
B. CÂU 3 ĐIỂM ( NL xã hội)
Đề bài: Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về "bệnh vô cảm" trong xã hội ta hiện nay.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
Thời đại ngày nay là thời đại kinh tế thị trường. Sống trong xã hội đó, hàng ngày nảy sinh ra hiện tượng
nhiều người lao vào kiếm tiền, lo vun vén cho bản thân và gia đình mình mà thờ ơ trước những vấn đề bức xúc
của cuộc sống xã hội, gây nên một căn bệnh tinh thần khá nguy hiểm: bệnh vô cảm, một căn bệnh có nguy cơ
lan rộng làm băng hoại đạo đức truyền thống của dân tộc, làm ô nhiễm môi trường tốt đẹp của xã hội mới.
Thân bài
1. Thế nào là bệnh vô cảm?
"Bệnh vô cảm" là căn bệnh tâm hồn của những người có trái tim lạnh giá, không xúc động, sống ích kỷ,
lạnh lùng, cho sự an toàn của bản thân mình là trên hết. Họ thờ ơ, làm ngơ trước những điều xấu xa, hoặc nỗi
bất hạnh, không may của những người sống xung quanh mình.
2. Những biểu hiện của bệnh vô cảm.
Bệnh vô cảm có những biểu hiện thật, đa dạng, muôn màu muôn vẻ: vô cảm đối với cuộc sống, xã hội; vô
cảm đối với đồng loại, gia đình, người thân, bạn bè, thậm chí vô cảm đối với chính bản thân mình.
Đi đường gặp những người bị tai nạn, gãy tay, gãy chân hoặc nằm bất tỉnh, những kẻ vô cảm chẳng có
phản ứng nào mà chỉ biết dửng dưng chứng kiến với thái độ "Thờ ơ con mắt lạnh. Nhìn chúng có hề chi!" (Tố
Hữu). Lên xe ô tô, thấy kẻ gian móc túi hoặc bọn côn đồ hành hung hành khách, họ cũng chỉ lờ đi xem như đấy
không phải chuyện của mình. Sống trong cơ quan trường học, chứng kiến bao chuyện ngang trái như cấp trên
nhận hối lộ, thầy giáo ngang nhiên bạo hành học sinh, còn học sinh thì quay cóp gian lận trong thi cử, họ cũng
không mở miệng mà ngoảnh mặt làm ngơ. Hoặc trông thấy hiện tượng những tên Xuân Tóc Đỏ thời nay
"nghênh ngang" "nhâng nháo trâng tráo, xỏ xiên, bịp bợm" họ vẫn im lặng, không mảy may lên tiếng.
Sự vô cảm là một căn bệnh đang có chiều hướng lan rộng trong xã hội ta, nó đang len lỏi khắp mọi nơi.
Nó không chỉ diễn ra ngoài xã hội mà còn xâm nhập vào trong các gia đình, những người thân ruột thịt. Tôi đã
chứng kiên cảnh có nhà cha mẹ bị ốm nặng nằm liệt giường mà con cái không đoái hoài gì đến, trái lại cứ điềm
nhiên "thưởng thức" hết trò vui này đến trò vui khác trên ti vi.
3. Bình luận mở rộng: Hậu quả của bệnh vô cảm.
Căn bệnh vô cảm sẽ gây nên hậu quả thật khủng khiếp cho xã hội, cộng đồng, đất nước. Nó biến con
người thành kẻ vô trách nhiệm, vô lương tâm và vô văn hóa, thậm chí là kẻ tội đồ. Có thể nói đó là căn bệnh của
những kẻ " cháy nhà hàng xóm bằng chân như vại". Nó sẽ làm cho một người cán bộ, người công dân trong xã
hội ta trở nên xa rời quần chúng, thiếu trách nhiệm trong công việc. Cũng vì vô cảm mà nhiều bác sĩ đã để cho
nhiều bệnh nhân cần phải cấp cứu mà phải nằm chờ hàng nửa tiếng đồng hồ nên đã dẫn đến hậu quả bệnh nhân
bị chết một cách oan khuất. Cũng vì vô cảm mà nhiều thầy giáo không hề quan tâm đến hoàn cảnh éo le của học
sinh, mà cứ mắng mỏ quát nạt các em dẫn đến hậu quả nhiều em bị bệnh trầm cảm, thậm chí là nhảy lầu tự tử.
Căn bệnh vô cảm là căn bệnh của những người sẵn sàng quay lưng lại với những nỗi đau khổ, bất hạnh
của đồng loại, sẵn sàng làm ngơ trước cái xấu, cái ác, nên làm cho cái xấu, cái ác có mảnh đất mầu mỡ để sinh
sôi nẩy nở như "cỏ mọc hoang" và đang đầu độc, chế ngự cuộc sống tốt đẹp của chúng ta hôm nay.
Căn bệnh vô cảm là căn bệnh của phường ích kỷ luôn luôn nhìn đời bằng cặp mắt ráo hoảnh. Nó đang làm
mất đi một điều vô cùng thiêng liêng và quý giá. Đó là tình thương giữa con người với con người. Mà tình
thương theo Nam Cao, nó là tiêu chuẩn quan trọng nhất để xác định tư cách con người "Không có tình thương,
con người chỉ là một con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỷ" (Đời thừa). Bệnh vô cảm đang làm "nhiễm mặn" , vẩn
đục và xói mòn dần truyền thống đạo lý đẹp nhất của con người Việt Nam: "Thương người như thể thương
thân" . Và khi căn bệnh này ngự trị, thì con người sống với con người trong mối quan hệ hết sức lỏng lẻo. Ở đó
thiếu hơi ấm của tình thương, của niềm cảm thông, của sự cưu mang, đùm bọc, sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau. Một
cuộc sống như thế là cuộc sống của "Một sa mạc đời đìu hiu lạnh giá". Thật buồn đau và thất vọng biết bao!
Kết luận
Để xứng đáng với danh nghĩa "con người" đầy kiêu hãnh, mỗi chúng ta hãy nói không với bệnh vô cảm,
hãy ra sức tu dưỡng lòng yêu thương, vị tha, sự trung thực và lòng dũng cảm. Hãy cùng nhau làm một việc gì
đó dù rất nhỏ để khơi dậy dòng sông tình nghĩa nhân ái truyền thống của dân tộc để cho nó ngày càng tuôn
chảy, ngày càng trong xanh và long lanh toả sáng.
Đề bài: Ý kiến về mục đích học tập do UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống,
học tập để làm người“
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
Mục đích học tập đúng đắn sẽ làm cho người ta say mê học tập và học tập có kết quả. Nhưng mục đích
học tập thế nào là đúng? UNESCO đã giúp ta trả lời câu hỏi đó: “Học để biết, học để làm, học để chung sống,
học để làm người”
Thân bài
1. Học để có tri thức
“ Học để biết” tức là học để có tri thức. Tri thức về cuộc sống, về tự nhiên và xã hội, về nghề nghiệp
chuyên môn, không ai sinh ra đã có tri thức. Học tập là cách duy nhất để có tri thức. Không học sẽ không bao
giờ biết “Nhân bất học bất tri”. Trẻ em như trang giấy trắng. Học tập tạo nên tri thức tích lũy của mỗi người.
2. Học để có nghề, có việc làm
“ Học để làm” : học để có nghề nghiệp, việc làm, để lao động nuôi sống mình và góp phần phát triển xã
hội, đất nước. “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. Học nghề nghiệp tinh thông sẽ có năng suất lao động cao, giải
quyết công việc dễ dàng, thuận lợi. Do xác định rõ mục tiêu “Học để làm“ nên mọi người sẽ cố gắng “học đi đôi
với hành”. Học nghiêm túc, chu đáo, kỹ càng đề làm việc được tốt. Sinh viên Y khoa có học giỏi thì khi trở
thành bác sĩ mới có thể chữa bệnh, cứu người, học dốt có khi lại làm hại người “tiền mất tật mang”.
3. Học để có kỹ năng sống, không để “chết vì dốt”
“Học để chung sống” là học để có kỹ năng sống, dễ dàng thích nghi với mọi môi trường, hoàn cảnh sống,
hòa thuận, hòa nhập với cộng đồng, với mọi người xung quanh. Người có học, có hiểu biết thường sống có lý,
có tình, tính cách, đức hạnh thu phục lòng người, thường được mọi người yêu quý, kính trọng.
4. Học để có phẩm chất đạo đức con người.
“Học để làm người” là học để có phẩm chất đạo đức, có chuyên môn nghề nghiệp cao, thành công trong
cuộc sống, nhờ học vấn mà người ta sống tự tin, tự trọng, hiểu đời, hiểu người, có nhân cách, có cá tính và
thành đạt. Học để trưởng thành, và được anh em, bè bạn, đồng nghiệp tôn trọng, chính là “học để làm người”
5. Học tập là quyền lợi, và nghĩa vụ của mỗi người.
Mục đích học tập mà UNESCO nêu trên cho chúng ta thông điệp rằng học tập là quyền lợi và nghĩa vụ
của mỗi người. Ai cũng phải học, học cho tốt để làm người, phục vụ cho bản thân và cho gia đình , xã hội.
Từ mục đích học tập như vậy mà UNESCO đưa ra phương châm “Học tập suốt đời”. Để biết, để làm, để
chung sống và để tự khẳng định mình, người ta phải học tập suốt đời. Xã hội ngày nay đã phát triển đến mức có
các phương tiện thích hợp để mọi người học tập suốt đời.
Xác định mục đích học tập đúng đắn là điều rất quan trọng để chứng mình ta cố gắng vượt mọi khó khăn,
chăm học và học giỏi. Nhiều bạn trẻ chưa xác định được động cơ học tập nên lười học, trốn học, quay cóp và
thiếu trung thực trong học tập, học tập miễn cưỡng, đi học cho cha mẹ Học mà không có niềm vui thì làm
sao mà học tốt được.
6. Học đi đôi với hành
Phương pháp học tập tốt và phù hợp là rất quan trọng. “Học đi đôi với hành”, tăng cường tự học để “học
tập suốt đời”, học mọi lúc mọi nơi, chú ý quan sát thực tế cuộc sống, liên hệ, suy nghĩ, sáng kiến, sáng tạo trong
khi kết hợp học với hành để có kết quả học tập tốt và thành công trong cuộc sống.
Để đạt mục tiêu”Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để làm người”, chúng ta phải học một
cách sáng tạo. Học một cách thực chất và biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Học để có kỹ
năng lao động cao, có kết quả việc làm tốt. Kết quả học tập phải cao, được xã hội công nhận (đạt danh hiệu học
sinh giỏi, học sinh đậu thủ khoa trong các kỳ thi). Người đã đi làm thì nhờ học vấn cao mà thể hiện được năng
lực làm việc, được đồng nghiệp và cơ quan tín nhiệm, cân nhắc, đề bạt, thành đạt trong sự nghiệp. “Thực tiễn là
tiêu chuẩn chân lý”, là thước đo học vấn của mỗi người chúng ta.
Người có học, người có tri thức thể hiện ở kỹ năng sống thành thục, ở quan hệ xã hội tốt đẹp, nhờ không
ngừng hoàn thiện bản thân mình. Nhờ có học mà chúng ta “không chết vì dốt”, biết tự bảo vệ mình như biết
cách phòng bệnh, không để nhiễm phải HIV, AIDS, virust viêm gan B…. Lối sống giản dị, khoa học, văn mình
là kết quả của học vấn.
Mục đích học tập do UNESCO đề xướng không cho riêng học sinh, sinh viên, mà cho con người nói
chung.
Múc đích học tập đúng đắn và có cơ sở khoa học cao, tổng kết từ thực tiễn hàng nghìn năm đó của
UNESCO luôn nhắc nhở mọi người hãy luôn luôn học tập, suốt đời học tập.
Xã hội, nhà nước và nhân dân, các hội khuyến học phải tuyên truyền giáo dục, nêu cao, biểu dương tinh
thần ham học, hiếu học, làm cho xã hội ta trở thành “ xã hội học tập”
Kết luận
Lời đề xướng về mục đích học tập của UNESCO là ngọn đèn soi sáng cho mọi người, đặc biệt là thế hệ
trẻ trong học tập và làm việc. Em đang và sẽ tiếp tục phấn đấu học thật tốt để phát triển bản thân, giúp ích cho
gia đình, xã hội.
Đề bài: Suy nghĩ về câu ngạn ngữ Hy Lạp: "Học vấn có chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại rất ngọt
ngào"
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
Giới thiệu vai trò, tầm quan trọng của quá trình học tập đối với mỗi cá nhân và xã hội. Tuy nhiên để thành
công trên con đường học vấn, mỗi người cần phải vượt qua rất nhiều khó khăn, thử thách. Dẫn câu ngạn ngữ.
Thân bài
1. Giải thích
- "Học vấn" là quá trình học hỏi, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm làm giàu thêm hiểu biết của con người về
thế giới khách quan, về xã hội và về chính bản thân mình.
- "Chùm rễ đắng cay" là cách nói ẩn dụ thể hiện những khó khăn, gian khổ và cả cay đắng mà mỗi người
phải trải qua trong quá trình học tập, rèn luyện và tu dưỡng.
- "Hoa quả ngọt ngào" hình tượng dùng để chỉ kết quả thu được sau quá trình học tập, nghiên cứu vất vả.
Đó có thể là những giải thưởng danh giá, là vinh quang trong một cuộc thi, là những đóng góp lớn lao cho kho
tàng tri thức nhân loại, là sự tôn vinh của xã hội hay đơn giản hơn, là một cuộc sống ổn định, sung túc về vật
chất và lành mạnh, phong phú về tinh thần.
=> Câu ngạn ngữ nói về đặc điểm của quá trình học tập, đó là một quá trình lâu dài và người học phải trải
qua nhiều gian khổ, thử thách nhưng nếu thành công, nếu vượt qua tất cả thử thách ấy, ta sẽ được đền đáp xứng
đáng.
2. Chứng minh, bình luận
- Học vấn là cả một quá trình, không phải là chuyện một sớm một chiều bởi lẽ kho tri thức của nhân loại
là mênh mông vô tận. Trên con đường chinh phục tri thức ấy có vô vàn khó khăn ngăn đường cản lối. Dẫn
chứng: biết bao nhiêu trẻ em vì gia đình khó khăn mà không thể đến trường, hay những bạn nhỏ vùng sâu, vùng
xa để được học cái chữ phải chèo đèo, lội suối, phải đi bộ hàng chục cây số,
- Để vượt qua những khó khăn thử thách ấy, mỗi người phải có ý chí, nghị lực, sự kiên trì và lòng quyết
tâm thậm chí cả niềm đam mê, khát vọng nữa. Nhà văn M.Gorki đã có một tuổi thơ cay đắng, phải sớm vật lộn
với cuộc sống để mưu sinh trên khắp nẻo đường nước Nga. Nhưng cậu bé Gorki gày gò, nghèo khổ ấy lại có
lòng đam mê đọc sách. Có lần, cậu kiếm được một chiếc rương với nhiều cuốn sách rất hay nhưng vì phải làm
việc kiếm sống nên ông chỉ có thể tranh thủ đọc vào buổi tối. Mà nhà nghèo, không có tiền để thắp đèn điện,
ông đã phải đánh bóng chiếc sanh đồng để phản chiếu ánh trăng, lấy ánh sáng đọc sách. Ở nước ta, từ xưa đến
nay, cũng không thiếu những tấm gương hiếu học biết vượt qua những khó khăn, thử thách để vươn tới ánh
sáng tri thức, giành được thành công trong sự nghiệp và hạnh phúc trong cuộc sống. Anh học trò nghèo vì
không có tiền ăn học nên đã phải chờ đến khi hết bữa ăn, mới sang nhà hàng xóm mượn nồi cơm mong vét
được chút cháy ăn đỡ đói lòng để tiếp tục dùi mài kinh sử. Đó là câu chuyện về ông Trạng Nồi nổi tiếng được
truyền tụng trong dân gian. Thời hiện đại, ta gặp bao tấm gương về ý chí và nghị lực vượt lên khó khăn trong
học tập và cuộc sống. Hiệp sĩ công nghệ thông tin Nguyễn Công Hùng, thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí và ngời
sáng tấm gương khắc phục hoàn cảnh để học tập, tiếp thu tri thức tiên tiến của thời đại chính là Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
- Bên cạnh những tấm gương biết đối mặt và vượt lên những "chùm rễ đắng cay" để vươn lên chiếm lĩnh
đỉnh cao tri thức, xây dựng một cuộc sống hạnh phúc cho bản thân và có ý nghĩa cho cộng đồng thì còn biết bao
kẻ lười biếng, thụ động, không hề quan tâm tới việc học tập. Biết bao bạn trẻ đang phí phạm thời gian quý giá
của tuổi trẻ vào những trò chơi vô bổ, vào những thú vui trác táng Và còn biết bao người học tập một cách
thụ động, học như một nghĩa vụ, một điều bắt buộc phải làm để đối phó với cha mẹ, thầy cô Đó là những hiện
tượng cần phê phán.
3. Liên hệ với quá trình học tập của cá nhân
- Học vấn là con đường chắc chắn nhất đưa ta đến cuộc sống hạnh phúc. Để được như vậy, chúng ta cần
phải xác định rõ mục đích, động cơ, thái độ học tập đúng đắn: học cho bản thân và gia đình, xã hội, học để biết,
để làm việc, để cùng chung sống và hòa nhập với mọi người. Phải có phương pháp học tập khoa học, phù hợp.
- Xác định rõ việc học tập là quá trình lâu dài, bên bỉ "học tập suốt đời" và phải có ý thức tự giác, rèn
luyện bản lĩnh để vượt qua nhiều khó khăn thử thách trong học tập.
Kết luận
Khẳng định tính đúng đắn, sâu sắc của câu ngạn ngữ và giá trị thực tiễn của nó trong cuộc sống.
Đề bài: Suy nghĩ về công cha nghĩa mẹ và việc đền ơn đáp nghĩa các liệt sĩ
BÀI LÀM THAM KHẢO
Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã mượn lời người ở lại để nhắc nhở chính mình và cũng là nhắc nhở
mọi người hãy nhớ lấy đạo lý uống nước nhớ nguồn, ân tình chung thủy vốn là đạo lý lớn nhất, đẹp nhất của
dân tộc Việt Nam:
“Mình về, mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
1.Công ơn đối với cha mẹ
Ca dao xưa đã dạy: “Một lòng thờ mẹ kính cha,cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Làm con phải có đạo
hiếu.
Đạo hiếu đó trước hết phải nghĩ đến công ơn của bố mẹ; mà nói về công ơn của bố mẹ đối với mỗi chúng
ta, thì không bút mực nào kể cho xiết. Chả thế mà cha ông ta xưa đã ví “Công cha như núi Thái Sơn;Nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy ra”. Chỉ có núi Thái Sơn vĩnh hằng và kì vĩ mới có thể sánh được với công cha; chỉ
có nước trong nguồn chảy bất tận, không bao giờ khô cạn, mới có thể sánh được với nghĩa mẹ không cùng. Bởi
vì mẹ ta đã sinh ra ta, cho ta sự sống. Cái công ấy, chỉ có Chúa mới sánh được. Mẹ đã mang nặng, đẻ đau để
cho ta được cất tiếng khóc chào đời, trở thành bông hoa của trái đất. Từ thuở ấu thơ, trong vành nôi, ta đã được
mẹ ấp iu, nâng giấc, cho ta những dòng sữa ngọt ngào cả thể chất lẫn tâm hồn:
“Mẹ ra cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác,hát nuôi phần hồn”
(Nguyễn Duy)
Mẹ ta chẳng quản một nắng hai sương, tần tảo như “Con cò lặn lội bờ sông”, chịu bao gian nan vất vả
chăm sóc ta khi trái gió trở trời và dành dụm chắt chiu nuôi ta khôn lớn, cho ta ăn học nên người. Nghĩ về mẹ,
lúc ở xa,
Nguyễn Duy viết:
“Nhìn về quê mẹ xa xăm
Lòng ta vạt ướt mẹ nằm đêm mưa”
Đọc những câu thơ như thế, tôi cứ thấy cay cay nơi sống mũi. Gia cảnh đói nghèo, vách đất, tranh thưa,
đêm mưa nhà dột, mẹ dành tất cả chỗ ướt cho mình và dành chỗ khô cho con. Ôi! Thật cảm động đến rơi nước
mắt.
Còn cha ta, cũng như mẹ, cho ta tình thương yêu và dạy ta điều hay, điều phải, uốn nắn cho ta, khơi dậy
trong ta những ước mơ, khát vọng cao đẹp để ta bước thẳng hai chân kiêu hãnh làm người. Đúng là công ơn cha
mẹ, tổ tiên bao la như núi rừng, mênh mông như biển cả.
2.Công ơn của các bậc tiền bối, liệt sĩ
Còn công lao của các bậc tiền bối, liệt sĩ thì sao? Ở nước ta, con đường đến với bến bờ độc lập, tự do của
dân tộc không phải là con đường rợp bóng mát hạnh phúc và niềm vui, mà là con đường đầy gian khổ hi sinh:
“Đâu phải đường xanh, đường qua máu chảy
Năm mươi năm, máu đỏ thành hoa
Cuộc sinh nở nào mà đau đớn vậy
Rất tự hào mà xót tận trong da”
(Tố Hữu)
Đúng là phải bao máu thấm trong lòng đất, mới “ánh hồng lên sắc tự hào”. Để có được lá cờ đỏ sao vàng
tuy bay suốt từ Bắc chí Nam trong ngày hội 19- 8- 1945; để có được lá cờ đỏ chiến thắng kiêu hãnh bay trên
nóc hầm Đờ Cát ở Điện Biên và để có được ngày 30- 4 lịch sử, thành phố Hồ Chí Minh “ngập tràn nắng đẹp” và
“lộng lẫy cờ hoa”, đã có biết bao chiến sĩ cách mạng, chiến sĩ bộ đội, những người cộng sản đã phải đổ máu, rơi
đầu trong các nhà tù, trên các máy chém, ngoài bãi bắn, trên các trận địa nóng bỏng đạn bom. Đúng là “Mỗi
thây rơi là một nhịp cầu; cho ta bước tới cõi đời cao rộng”. Công ơn của tổ tiên, của các liệt sĩ thật là lớn lao, ân
nghĩa của các bậc tiền bối thật là vô hạn.
3. Chúng ta phải làm gì để đền đáp công ơn của bố mẹ, các liệt sĩ? Phải đền ơn, đáp nghĩa như thế nào?
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Đã là con chim thì con chim phải biết hót.Đã là chiếc lá phải xanh;lẽ nào
vay mà không có trả?” Được trưởng thành lớn khôn, ngày ngày cắp sách đến trường, lên giảng đường như hôm
nay, chúng ta đã “vay”, đã mắc nợ quá nhiều: nợ cha mẹ, tổ tiên, các vong hồn liệt sĩ, nợ quê hương đất nước…
Có lẽ nào, chúng ta “có vay mà không có trả”, nhắm mắt ăn “quỵt” một cách đớn hèn và tủi hổ ư? Chúng ta
kiên quyết phải trả, trả bằng mọi cách, trả dưới mọi hình thức. Trước hết, nỗ lực hết mình, ra sức học tập, tu
dưỡng để trở thành trò ngoan, người con hiếu thảo, người cán bộ, chiến sĩ có danh thơm đáng tự hào sau này.
Bởi vì:
“Ai mà phụ nghĩa, quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng,chẳng thơm”
(Ca dao)
Và chúng ta phải:
“Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
(Ca dao)
Sau nữa, sẽ tích cực làm những việc nhỏ mà nghĩa lớn, trong khả năng của mình như tiết kiệm tiền để
giúp đỡ người nghèo, hiến máu nhân đạo, cứu người, tích cực xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”.
Đề bài: Ý kiến về phương châm “Học đi đôi với hành”
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
“ Học đi đôi với hành” là một nguyên lý giáo dục quan trọng. Tại sao và chúng ta thực hiện nguyên lý này
bằng cách nào?
Thân bài
1. Thế nào là học đi đôi với hành
Học tiếp thu tri thức về phương châm lý thuyết, lý luận. Hành là sự vận dụng kiến thức học được vào thực
tiễn đời sống và lao động sản xuất.
Học “đi đôi” kết hợp với hành cho nhận thức và hành động của con người có tính thống nhất, bổ sung cho
nhau, làm cho cái ta học được trở nên sâu sắc và vững chắc, hành động của ta có cơ sở khoa học, sẽ trôi chảy,
dễ dàng, có thể logic và sáng tạo, để đạt tới kết quả cao. Có nhà khoa học đã viết : “Một con ngựa đi chậm
nhưng lại đúng đường thì sẽ tới đích, nếu con ngựa đi nhanh nhưng sai đường thì càng đi càng xa đích”. Hành
mà không đi đôi với học thường có kết quả thấp hoặc thất bại. Học không hành thì chỉ nắm lý thuyết suông,
không thể nắm bắt ý nghĩa sâu sắc của nó với thực tiễn.
2. Lợi ích của việc “ Học đi đôi với hành”
Học đi đôi với hành là rất cần thiết và quan trọng với tất cả mọi người. Song, thực tế nước ta, nguyên lý
này đang bị coi nhẹ. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng giáo dục, đào tạo ở nước ta chưa
cao, chưa đạt tới sự kỳ vọng của xã hội.
Nguyên nhân khách quan là nước ta còn nghèo, chưa mua sắm được nhiều dụng cụ học tập và phòng thí
nghiệm cho các môn học. Nguyên nhân chủ quan là chúng ta chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa to lớn của nguyên
lý học đi đôi với hành để có biện pháp khắc phục.
3. Xác định mục đích học tập đúng đắn là điều kiện thực hiện học đi đôi với hành.
Để thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, mỗi người phải xác định cho mình mục đích học tập đúng
đắn.
UNESCO (Tổ chức Văn hóa Khoa học Giáo dục thuộc Liên hợp quốc) đã đề xướng “ Học để biết, học để
làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Học trở thành nhu cầu tự thân và chúng ta sẽ tìm mọi
cách, mọi biện pháp, mọi cơ hội để vận dụng vào cuộc sống.
Với động cơ, mục đích học tập đúng đắn, chúng ta mới có thể say mê học tập, nghiêm túc, chăm chỉ để
tiếp thu đầy đủ nội dung, làm bài tập để củng cố, mở rộng bài học. Trên cơ sở nắm chắc bài học, chúng ta sẽ có
điều kiện vận dụng vào thực tiễn. Trồng một cây, chúng ta cũng phải biết cách đào hố nông sâu như thế nào, lấy
loại đất nào và phân bón gì cho vào hố, cho cây trồng vào hố và dặm đất thật chặt xung quanh rễ cây ra sao,
tưới nước nhiều ít sao cho phù hợp với từng loại cây. Học đi đôi với hành sẽ soi sáng cho ta nhiều điều cụ thể
và sinh động.
Học không chỉ ở trường lớp mà cả tự học, học bạn, học người thân, học đồng môn, đồng nghiệp. Hành
không chỉ ở trong phòng thí nghiệm mà phải vận dụng vào cuộc sống hàng ngày, trong ăn ở, đi lại, giao tiếp và
làm việc. Có nhiều cơ hội trong cuộc sống mà ta có thể vận dụng , để hành, những điều học được.
4. Liên hệ bản thân
“ Học đi đôi với hành” vừa là nguyên lý giáo dục vừa là phương pháp học tập hiệu quả. Bản thân em sẽ cố
gắng vận dụng thường xuyên “Học đi đôi với hành” , “Học tập suốt đời” và suốt đời thực hiện “Học đi đôi với
hành”
Bác Hồ kính yêu đã dạy “Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học
thì hành không trôi chảy.” Hành không chỉ là hành động cụ thể mà là cả thực tiễn đời sống và lao động sản xuất.
Trong lao động sản xuất, phải luôn luôn nghĩ tới vận dụng nguyên lý nào, lý thuyết gì để giải quyết công việc,
lao động có năng suất cao. Từ sắp xếp đồ dùng, ghế ngồi cao thấp, đặt để nguyên vật liệu ở đâu, ánh sáng mức
độ thế nào,ta đều phải suy nghĩ vận dụng lý thuyết vào hoàn cảnh thực tế cụ thể.
Kết luận
Học và hành là hai khâu mà chúng ta phải làm tốt cả hai mới kết hợp chúng với nhau được. Học giỏi nắm
chắc kiến thức thì mới giúp ta hành tốt. Hành sẽ bổ sung, hoàn thiện kiến thức mà ta học được. Mỗi học sinh
chúng ta đều phải học tốt, hành tốt và kết hợp “Học đi đôi với hành”.
Đề bài: Bác Hồ khuyên thanh niên:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên
Anh/Chị suy nghĩ gì về lời khuyên đó ?
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Mở bài
Trên hành trình đến chân trời tương lai của sự nghiệp, con người phải đương đầu với biết bao thử thách
chông gai như cuộc đi đường thường ngày "Đi đường mới biết gian lao; Núi cao rồi lại núi cao trập trùng".
Chúng ta muốn leo "lên đến tận cùng" để thu vào "tầm mắt muôn trùng nước non", nghĩa là muốn thu được
thắng lợi vẻ vang đòi hỏi con người phải bền gan, vững chí, phải có lòng quyết tâm, kiên trì, tinh thần vượt khó.
Nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ về phẩm chất tinh thần đặc biệt ấy, trong một lần nói chuyện với thanh niên, Bác
Hồ đã ân cần khuyên bảo:
"Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chi ắt làm nên"
Thân bài
1. Giải thích nội dung bài thơ
- Việc khó là việc khi làm đòi hỏi nhiều công sức, tâm trí và nghị lực mới làm được. Tuy nhiên sự quyết
định của thành bại không phải là ở bản thân công việc dễ hay "khó" , mà là ở chính tinh thần con người. Việc gì
cũng có thể làm được miễn là có sự kiên trì, ý chí quyết tâm, nghĩa là "bền lòng".
- Khi đã "bền lòng", "quyết chí" , thì dù công việc khó đến mấy cũng có thể hoàn thành, để làm nên "sự
nghiệp lớn".
Bác đã dùng thủ pháp cường điệu và hình ảnh tượng trưng "đào núi và lấp biển" để chỉ những công việc
lớn lao dường như nằm ngoài sức lực và khả năng của con người. Nhưng dù là công việc "đào núi" và "lấp
biển" khó khăn lớn lao đến đâu đi nữa, nếu con người "quyết chí" , bền bỉ dồn mọi sức lực, trí tuệ quyết làm
bằng được, bất chấp mọi khó khăn chủ quan và khách quan "thắng không kiêu, bại không nản" thì cũng hoàn
thành, cũng "ắt làm nên".
2. Chứng minh bằng dẫn chứng thực tế
- Lịch sử nhân loại và đất nước ta đã có biết bao câu chuyện, bao tấm gương nêu cao sức mạnh phi thường
của lòng kiên trì, nghị lực và lòng quyết tâm của con người trong cuộc sống. Từ câu chuyện Ngu Công dời núi
đến câu chuyện "Mài sắt nên kim".
- Thế hệ cha anh đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách giữ vững nền độc lập, tự chủ cho đất nước: tấm
gương anh hùng Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Bình Trọng đến Võ Thị Sáu, Mạc Thị Bưởi, Lý Tự
Trọng, Nguyễn Văn Trỗi trong sự nghiệp cứu nước vẻ vang. Bác Hồ không chỉ răn dạy thanh niên về sự bền
lòng, vững chí mà Người còn là một tấm gương sáng ngời về sự "kiên trì" "nhẫn nại" và "quyết chí" .
- Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, cuộc sống hoà bình hôm nay, noi theo tấm gương Bác Hồ, nối tiếp
các đàn anh lớp trước, hàng ngày hàng giờ, thế hệ mới của chúng ta đã xuất hiện biết bao tấm gương đẹp về
lòng kiên trì, chí lớn đã làm nên "sự nghiệp lớn". Đó là bác sĩ Nguyễn Tài Thu, người đã đưa nền y học châm
cứu Việt Nam thành một thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Đó còn là vận động viên wushu Thuý Hiền, vận
động viên nhảy cao Bùi Thị Nhung, vận động viên cử tạ Hoàng Anh Tuấn đã giành được Huy Chương Vàng thể
thao Segame để cho lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc Việt Nam kiêu hãnh tung bay trên đấu trường Đông Nam
Á. Và đây là tấm gương "kiên trì", "quyết chí", "bền lòng" , vượt qua số phận hiểm nghèo của mình để làm nên
sự nghiệp phi thường như là "đào núi" và "lấp biển" vậy. Đấy là anh Bạch Đình Vinh được chương trình ti vi
"Người đương thời" hết lời ca ngợi: vì một tai nạn giao thông, anh Vinh bị bại liệt toàn thân, bị chấn thương
nặng nội tạng, khuôn mặt bị biến dạng và mất luôn cả tiếng nói. Thế nhưng với một ý chí, nghị lực phi thường,
anh đã không gục ngã, mà đứng lên viết tiếp trang cổ tích của cuộc đời mình: sinh viên ba trường Đại học: Giao
thông vận tải, Thương Mại, Khoa công nghệ thông tin - Đại học Bách Khoa Hà Nội.
3. Bình luận mở rộng
- Lời dạy của Bác là một bài học vô cùng quý giá cho mỗi chúng ta về phương châm sống. Nó đã trở
thành bí quyết quan trọng nhất giúp chúng ta thực hiện ước mơ hoài bão của bản thân. Lời dạy đó còn giúp ta có
ý chí nghị lực để vượt qua những khó khăn lớn lao thường gặp, để quyết đạt cho được ước mơ của mình.
- Tuy nhiên, chúng ta nên phải hiểu lời khuyên của Bác một cách đúng đắn và thiết thực. Quyết tâm, ý chí
của ta phải đi đôi với hành động, chứ không được quyết tâm suông mà có thể làm nên được sự nghiệp lớn. Và
những ước mơ, khát vọng của ta phải phù hợp với điều kiện thực tế, hoàn cảnh chủ quan, khách quan, những
tiền đề vật chất nhất định, nếu không chúng ta sẽ trở thành những người phiêu lưu mạo hiểm, những kẻ mơ
mộng hão huyền. Hiểu như vậy, chúng ta càng thấm thía lời dạy của Bác Hồ vô cùng đúng đắn.
C. Kết luận
Tóm lại bốn câu thơ trên của Bác là một lời khuyên vô cùng quý báu. Bằng trí tuệ sắc sảo, Bác đã vạch ra
chân lý, bằng trái tim tràn đầy tình yêu thanh niên, Bác đã ân cần khuyên nhủ, động viên mọi thế hệ hôm nay và
mai sau có được phương pháp hành động và suy nghĩ đúng đắn nhằm chiếm lĩnh được những "đỉnh Ôlimpia"
của cuộc đời và sự nghiệp.
Đề bài: Nêu ý kiến của anh/chị về lợi ích của việc tự học.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
Xã hội hiện đại nêu cao phương châm “Học tập suốt đời”. Phương pháp tự học là phương pháp học chủ
yếu để thực hiện phương châm học tập suốt đời. Tại sao tự học lại quan trọng như vậy? Tự học đưa lại cho
chúng ta những lợi ích gì?
Thân bài
1. Thế nào là tự học?
Tự học là học ở ngoài nhà trường, học thông qua sách báo, tài liệu, nghe đài phát thanh, xem truyền hình,
quan sát thực tiễn, trao đổi với bạn bè, người thân đồng nghiệp…
Tự học là cần thiết cho mọi người vì kiến thức mà loài người tích lũy lại là rộng lớn, mênh mông, vô tận.
Học ở nhà chỉ cung cấp một phần, tuy rất cơ bản và quan trọng nhưng không đủ. Thời gian học ở trường tuy khá
dài nhưng có giới hạn. Thời gian tự học là không có giới hạn, kéo dài trong suốt cả cuộc đời chúng ta. Tri thức
mà tự học đưa lại giúp chúng ta hoàn thiện kỹ năng sống và lao động sản xuất, nhờ đó, cuộc sống của ta có
nhiều thuận lợi, làm việc cho năng suất lao động cao, công tác tiến tới, thành công trong sự nghiệp.
2. Lợi ích của việc tự học.
Tự học đưa lại lợi ích to lớn và thành công cho người ham học, ham tự học và có phương pháp tự học phù
hợp.
Theo hoàn cảnh cụ thể, mỗi người có thể sắp xếp thời gian, lên kế hoạch tự học. Có thể học ngoại ngữ trên
truyền hình, học chuyên môn qua mạng internet, đọc sách nâng cao, chuyên sâu. Nhiều bạn học sinh ở nông
thông, vùng sâu, vùng xa, nhờ có tự học ( Không có điều kiện tham gia luyện thị, ôn thi ở trường lớp) mà thi tốt
nghiệp phổ thông, thi vào đại học đạt điểm cao, nhiều bạn đạt thủ khoa. Khi đi làm, chúng ta sẽ có rất ít thời
gian và điều kiện để đi học tập trung theo trường lớp mà chủ yếu là tự học. Ngày nay, một bác sĩ, kỹ sư, thầy
gióa mà hàng ngày không
đọc được vài chục trang sách bao chuyên môn thì sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu. Khi đó, không chỉ cơ
hội thăng tiến trong nghề nghiệp sẽ kém đi mà công việc sẽ lúng túng, khó khăn, kết quả sẽ không cao.
Tự học có nhiều lợi ích như vậy, nên chúng ta phải luôn luôn có ý thức tự học. Tùy theo hoàn cảnh, trình
độ mà chúng ta lựa chọn tri thức và phương pháp tiếp nhận phù hợp, tạo hứng thú trong học tập, rèn luyện khả
năng khám phá và tư duy sáng tạo. Nhờ thấy kết quả và lợi ích mà tự học mang lại, chúng ta sẽ thấy hứng thú
và đam mê tự học.
3. Tự học như thế nào cho tốt?
Xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì công cụ, phương tiện cho tự học ngày càng nhiều. Đặc biệt, điện
thoại di động và mạng internet càng phổ biến thì chúng ta có điều kiện để tự học và tiếp cận với trình độ chuyên
môn, chuyên sâu của thế giới. Tự học nhờ đó có thể đưa lại cho người học trình độ chuyên môn cao. Tự học
nhờ có nhiều công cụ hiện đại mà cho ta nhiều hứng thú, đam mê.
Con người trong xã hội hiện đại ngày nay là phải học tập suốt đời và suốt đời phải tự học.
Ý thức được sự cần thiết và ích lợi của tự học, bản thân em sẽ luôn cố gắng để tự học, khắc phục mọi hoàn
cảnh dù khó khăn đến đâu cũng phải học và tự học.
4. Bác Hồ là tấm gương sáng về tự học.
Do phải tìm đường cứu nước từ thời trẻ nên thời gian học ở trường của Bác không được nhiều. Nhưng
nhờ tự học, Bác uyên thâm chuyên sâu trên rất nhiều lĩnh vực. Thời thanh niên, Bác đã là nhà báo, chủ bút một
tờ báo bằng tiếng Pháp. Bác biết rất nhiều ngoại ngữ, chủ yếu là tự học. Các lý luận về Cách mạng, con đường
và phương pháp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, xây dựng đất nước do tự học, không những được Bác nắm
vững mà còn sáng tạo, phát triển, dẫn dắt nhân dân ta thực hiện thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
đầu tiên, nêu gương sáng cho toàn thế giới.
Kết luận
Thời đại khoa học công nghệ ngày nay phát triển nhanh chóng đưa loài người lên thời đại tri thức, thời đại
hậu công nghiệp. Mỗi người hàng ngày phải tự học để lao động sáng tạo và cống hiến cho hạnh phúc tương lai
của đất nước, gia đình và bản thân.
Đề bài: : Quan niệm về lối sống giản dị
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
Hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang có phong trào “Học tập tấm gương đạo đức tác phong Bác Hồ”.
Một phẩm chất nổi bật mà chúng ta học tập là lối sống giản dị.
Thân bài
1. Thế nào là lối sống giản dị
Giản dị là lối sống chân phương, tiết kiệm, phù hợp với hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Giản
dị là biểu hiện của đạo đức xã hội chủ nghĩa. Không xa hoa đua đòi, lãng phí tiền của, thời giờ vào việc không
cần thiết.
Đó cũng là biểu hiện của nếp sống khoa hoc, có văn hóa.
Giản dị là lối sống đẹp, góp phần xây dựng xã hội văn minh, hiện đại. Chúng ta cần động viên, khuyến
khích coi trọng, đề cao lối sống giản dị.
Lối sống giản dị xuất phát từ quan niệm sống văn minh, khoa học, thực chất, chân thành. Giản dị trước
khi biểu hiện thành phong cách sống, phải trở thành ý thức, quan niệm sống của mỗi người. Có như vậy, giản dị
được biểu hiện một cách chân thành, trung thực, không gượng ép giả tạo
3. Làm thế nào để có lối sống giản dị ?
Lối sống giản dị là nét đẹp trong đạo đức, tác phong, thực chất con người nhưng không phải tự nhiên mà
có được. Con người phải thường trực ý thức và rèn luyện, biểu hiện trong cuộc sống hàng ngày thì mới tạo lập
được lối sống giản dị.
Xuất phát từ nhận thức biết quý trọng lao động, quý trọng những gì mà lao động cần cù mà có được, lối
sống giản dị có cơ sở hình thành trong phẩm chất mỗi người.
Lối sống giản dị đòi hỏi phải biểu hiện một cách chân thành, tự nhiên trong cách ăn, mặc, ở, đi lại và giao
tiếp hằng ngày. Chúng ta phải có ý thức rèn luyện để có lối sống tiết kiệm.
4. Học tập lối sống giản dị của Bác Hồ
Bác Hồ là tấm gương sáng về lối sống giản dị. Người dân Việt Nam không ai quên được hình ảnh quen
thuộc của Bác trong bộ quần áo bộ đội sờn màu, đôi dép cao su đi nhiều đến mòn vẹt, ăn uống đơn gian “ Cháo
bẹ rau măng vẫn sẵn sàng “. Không chỉ ở chiến khu Việt Bắc, khi về thủ đô Hà Nội , Bác ở trong ngôi nhà sàn
giản đị với những bữa cơm thanh đạm, dép lốp, quạt lá cọ. Cả cuộc đời Bác Hồ là một bài học lớn cho chúng ta
về đức tính giản dị.
5. Liên hệ bản thân : rèn luyện để có lối sống giản dị
Lối sống giản dị đưa lại cho con người và xã hội nhiều lợi ích. Xã hội có cuộc sống văn minh, ngày càng
có điều kiện nâng cao chất lượng sống của con người. Bản thân có lối sống giản dị sẽ dễ hòa nhập cộng đồng
bởi vẻ đẹp không khoa trương nhưng thu hút lòng người trong phong cách sống.
Lối sống giản dị ngược lại với lối sống xa hoa, đua đòi, lãng phí. Nhiều bạn trẻ được sinh ra trong gia đình
giàu có, được gia đình nuông chiều mà quen với lối sống đua đòi, lãng phí, ném tiền qua cửa sổ, lối sống ”Công
tử Bạc liêu” sẽ không nhận được sự coi trọng và giúp đỡ của mọi người, khó trở thành người thành đạt, có ích.
Lối sống giản dị có thể một phần tử bẩm sinh nhưng cơ bản là từ ý thức rèn luyện trong cuộc sống mà có
được.
Biết quý trọng những gì mình đang có và biết cảm thông chia sẻ với cuộc sống đang khó khăn của người
khác, chúng ta sẽ rèn luyện cho mình lối sống giản dị. Như vây, lối sống giản dị liên hệ chặt chẽ với ý thức tiết
kiệm, tinh thần trách nhiệm công dân và tấm lòng sẻ chia hòa đồng đối với xã hội.
Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm của cải, tiền bạc là sự khởi nguồn của tích lũy vốn đầu tư. Vốn đầu tư dùng
để xây dựng nhà cửa, cầu đường, trường học, nhà máy là phương tiện để tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội.
Lối sống giản dị giúp con người tiết kiệm, xã hội tiết kiệm để đầu tư cho tương lai. Đó là ý nghĩa kinh tế của lối
sống giản dị. Lối sống giản dị biểu hiện tấm lòng thông cảm, sẻ chia với hàng triệu đồng bào, bao gồm cả trẻ em
và cụ già, đang sống trong tình cảnh khó khăn, nghèo đói, bệnh tật. Người có tấm lòng tương thân, tương ái
không thể sống xa hoa, lãng phí, vô cảm mà phải có lối sống giản dị, tiết kiệm để có thể đóng góp giúp đỡ
người khác.
Kết luận
Ý thức được sự cần thiết và lợi ích, vai trò của lối sống giản dị, bản thân em sẽ luôn luôn rèn luyện cho
mình lối sống giản dị một cách thực chất, chân thành.
Đề bài: Suy nghĩ về lòng dũng cảm.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
Thế nào là lòng dũng cảm? Tại sao chúng ta cần có lòng dũng cảm và phải làm gì để có lòng dũng cảm?
Đó là những câu hỏi mà em muốn trả lời trong bài văn này.
Thân bài
1. Thế nào là người có lòng dũng cảm, ý nghĩa, vai trò của nó.
Người có lòng dũng cảm là người có nghị lực, có ý chí sắt đá. Lòng dũng cảm thể hiện ở sự quả cảm, kiên
cường, vượt qua những khó khăn đặc biệt, thể hiện phẩm chất anh hùng, phẩm chất vượt lên chính mình, chống
lại sự cám dỗ của thói xấu, hành động bảo vệ chân lý, lẽ phải, chống lại cái xấu, cái tiêu cực, có khi phải hy sinh
quyền lợi bản thân và cả bản thân mình cho cộng đồng, xã hội và Tổ quốc.
Chứng minh: lịch sử và thơ văn nước ta đã kể lại nhiều tấm gương về lòng dũng cảm. Đó là anh hùng trẻ
tuổi Trần Quốc Toản bóp nát quả cam và anh dũng đứng lên chống giặc Nguyên Mông tàn bạo, là Lê Lai liều
mình cứu chúa. Đó còn là hình ảnh chú bé liên lạc trong bài thơ “Lượm” (Tố Hữu) , cô thanh niên xung phong
”Lấy thân mình hứng lấy luồng bom” (Thơ Lâm Thị Mĩ Dạ), anh Nguyễn Văn Trỗi hiên ngang ra pháp trường,
chị Đặng Thùy Trâm, anh Nguyễn Văn Thạc dũng cảm lên chiến địa…. tất cả đều là những tâm gương sáng
ngời của lòng dũng cảm.
2. Bình luận: bàn về lòng dũng cảm.
- Nguồn gốc và vai trò, ý nghĩa của nó.
Cuộc sống luôn luôn phức tạp. Mỗi người và đất nước luôn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức,
nguy cơ hiểm nghèo, khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, rủi ro. Vì vậy ai cũng cần có lòng dũng cảm để
vượt qua các tình huống đó, giúp mình, giúp người khác, giúp cộng đồng và dân tộc, Tổ quốc.
Lòng dũng cảm không phải tự nhiên mà có. Mỗi người có nhận thực, hiểu biết và rèn luyện không ngừng
để có lòng dũng cảm.
Phải vượt lên chính mình “Chiến thắng vĩ đại nhất là chiến thắng chính bản thân mình” . Khắc phục thói
xấu, ích kỷ và cá thói xấu khác, sống có lý tưởng vì dân, vì nước là những tiền đề mà mỗi người cần có để chứa
chất lòng dũng cảm.
Lòng dũng cảm ấy là phẩm chất quan trọng nhất của những người hùng trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ. Đúng như Tố Hữu đã viết : “Dân ta gan dạ anh hùng. Trẻ là đấu súng, già xông lửa đồn. Chân
toạc máu, chân đau đuổi giặc. Tay chém thù tay sắc như gươm”. Họ đã cùng toàn dân quyết tâm làm nên một
chiến công Điện Biên Phủ “Chín năm làm một Điện Biên; Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” Những chiến sĩ
Điện Biên là những con người mang trong mình chất thép của lòng dũng cảm: “Chiến sĩ Điện Biện, chiến sĩ anh
hùng. Đầu nung lửa sắt, gan không núng, chí không mòn…Những đồng chí thân chôn làm giá súng; đầu bịt lỗ
châu mai, băng mình qua núi thép gai, ào ào như vũ bã., Những đồng chí chèn lưng cứu pháo, nát thân, nhắm
mắt còn ôm” Vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, lớp lớp thanh niên lại lên đường, mang trong mình truyền thống
Điện Biên, quyết xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, bất chấp bom đạn Hoa Kỳ tàn bạo, tiến thẳng vào Sài Gòn để
có ngày 30/4 lịch sử: “Ôi buổi trưa nay tuyệt trần nắng đẹp! Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta. Chúng con đến xanh
ngời ánh thép.Thành phố tên người lộng lẫy cờ hoa.” Cùng với lòng yêu nước thiết tha, lòng dũng cảm của
những người chiến sĩ ấy đã giúp họ có được lẽ sống rất đẹp: sẵn sàng đổ máu mình cho cây Tổ Quốc đơm hoa
Độc lập, kết trái tự do và viết nên trang sử mới của thời đại Hồ Chí Minh đầy tự hào.
3. Bài học nhận thức hành động.
Lòng dũng cảm phải rèn luyện, thể hiện trong hành động, việc làm. Trong những tình huống khó khăn,
hiểm nghèo như gặp phải vụ hỏa hoạn, lũ quét, người bị nạn trên đường, bản thân bị mất việc, bị bệnh ung thư
không may nhiễm HIV, viêm gan virut, người ta rất cần tới lòng dũng cảm và biểu hiện bằng bản lĩnh vững
vàng, vượt qua một cách sáng suốt, tỉnh táo. Khi đó, lòng dũng cảm là “Nhất biến ứng phó với vạn biến”
Để khuyến khích mọi người tu dưỡng, rèn luyện lòng dũng cảm, nhà trường nhà nước và xã hội phải
thường xuyên biểu dương, ca ngợi, khen thưởng người có hành động, việc làm dũng cảm.
Lòng dũng cảm phải dựa trên cơ sở khoa học, hiểu biết tri thức mới thể hiện có hiệu quả, có ích nhiều cho
bản thân và xã hội. Nhiệt tình cách mạng cộng cới sự dốt nát sẽ trở thành kẻ phá hoại (Lenin). Lòng dũng cảm
mà không có tri thức sẽ phản tác dụng. Không biết bơi mà nhảy xuống biển cứu người chết đuối không chỉ hại
đến thân mà còn gây khó khăn cho người khác trong việc cứu người.
Kết luận
Lòng dũng cảm là đức tính tốt đẹp xã hội cần đề cao và mỗi người cần tu dưỡng, rèn luyện để có được.
Bản thân em sẽ quyết tâm học tập, rèn luyện để có lòng dũng cảm và tìm các cơ hội để thể hiện lòng dũng
cảm.
Đề bài: Suy nghĩ về ý kiến của nhà văn M.Xi-xê-rông: “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động
“.
Liên hệ với việc học tập, tu dưỡng của bản thân.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
Ý kiến của nhà văn M.Xi-xê-rông:“Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động“ gợi em nhiều suy
nghĩ về việc tu dưỡng và học tập của bản thân.
Thân bài
1. Đức hạnh là phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người.
Đức hạnh đó là những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người. Đó là: Lòng yêu nước, yêu đồng bào,
hiếu thảo với cha mẹ, kính yêu thầy cô giáo, các bậc lão thành, yêu thương em nhỏ, chăm chỉ học tập, cần cù lao
động…
2. Đức hạnh phải được biểu hiện qua hành động, lối sống.
Làm thế nào để xã hội và những người xung quanh biết chúng ta là người đức hạnh? Ý kiến của nhà văn
Pháp nêu trên đã trả lời cho câu hỏi đó. Hành động là biểu hiện cụ thể, là thước đo của “mọi phẩm chất của đức
hạnh”.
Hành động cụ thể của ta báo cho mọi người biết ta có đức hạnh hay không và nếu có thì mức độ sâu rộng
như thế nào. Đức hạnh là cội rễ, hành động là hoa thơm quả ngọt dâng đời. Không có hành động thì đức hạnh
không để lại gì, không đóng góp gì cho người thân và xã hội. Đánh giá đức hạnh con người nhất thiết phải
thông qua hành động của người đó, không thể chỉ dựa vào lời nói mà kết luận vội vàng.
Tình yêu thương đồng bào và lòng nhân văn cao cả phải thể hiện ở sự đóng góp dù rất ít ỏi cho quỹ người
nghèo, ủng hộ đồng bào bị thiên tai bão lụt, qua hành động giúp cụ già, em bé đi qua đường. Gặp đám cháy
chúng ta phải xông vào cứu chữa. Gặp người bị tai nạn giao thông, như hai bạn ở Nghệ An trên đường đi thi tốt
nghiệp phổ thông, không ngần ngại đưa họ đi cấp cứu mặc dù việc đó có thể gây thiệt hại cho bản thân.
Lòng hiếu thảo, yêu thương cha mẹ phải thể hiện ở hành động chăm học, sống tiết kiệm, biết quý trọng
đồng tiền cha mẹ vất vả kiếm được để nuôi mình ăn học. Khi xa gia đình, ta phải thường xuyên viết thư, gọi
điện thăm hỏi sức khỏe cha mẹ. Khi cha mẹ ốm đau, ta phải hết lòng, hết sức quan tâm, chăm sóc, chạy chữa.
Lòng yêu thiên nhiên đất nước phải thể hiện ở hành động giữ gìn vệ sinh, tiết kiệm điện nước, trồng cây
để cho môi trường sống xung quanh ta ngày càng xanh, sạch đẹp.
Lòng yêu lao động thể hiện ở hành động chăm làm, chăm học (Học tập cũng là một loại hình lao động).
Học tập suốt đời để sống tốt, lao động tốt, sức khỏe tốt, tu dưỡng phẩm chất đức hạnh tốt. Đức hạnh bắt nguồn
từ tri thức, nhận thức đúng đắn về xã hội và tự nhiên, con người và cuộc sống. Học tập là cơ sở để ta có phẩm
chất của đức hạnh và hành động phù hợp với phẩm chất của đức hạnh.
3. Đức hạnh phải được tu dưỡng rèn luyện thường xuyên trong thực tiễn.
Phẩm chất của đức hạnh, chứa đựng trong nhận thức và biểu hiện ở hành động không phải tự nhiên mà có.
Chúng ta phải tu dưỡng và rèn luyện thường xuyên, đặc biệt khi ta còn trẻ.
Hành động thể hiện phẩm chất của đức hạnh cũng không có một tiêu chuẩn cứng nhắc, cố định. Trong
chiến tranh giữ nước, hành động có thể là vứt bút nghiên theo nghiệp binh đao, nhưng cũng có thể là lao động
sản xuất tốt.
Còn khi thời bình và đang tuổi đi học, chúng ta học tập tốt, tu dưỡng tốt để trở thành người có ích cho xã
hội, có việc làm, hành động thể hiện các phẩm chất đức hạnh cao quý là người yêu nước.
Học tập, tu dưỡng, rèn luyện để có đức hạnh, cả trong nhận thức và hành động, là quá trình gian nan, vượt
nhiều khó khăn thử thách. Hôm nay ta lười học thì ngày mai ta sẽ lười lao động. Hôm nay ta ăn cắp một quả
trứng thì ngày mai ta dễ ăn trộm con bò. Cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích
trong học tập” cần được chúng ta hưởng ứng bằng hành động thiết thực, cụ thể.
Hành động của con người, nói rộng ra là thực tiễn, là “tiêu chuẩn của chân lý”, là tiêu chuẩn, thước đo
của phẩm chất “đức hạnh”, bản chất ở bên trong của con người. Khi con người biết nhìn nhận, đánh giá mình
qua hành động cụ thể, việc làm hàng ngày, qua lao động sản xuất và quan hệ ứng xử là con người “có học” có
hiểu biết và là có “phẩm chất tốt” , “đức hạnh cao”. Một trí thức, một người có văn hóa, có giáo dục không thể
tự nói với người khác rằng họ có bằng cấp, có học vị, học hàm cao nên “phẩm chất đức hạnh tốt đẹp”. Họ phải
thể hiện ở hiệu quả các công trình khoa học, cái hay trong cuốn sách mà họ viết, số người bệnh mà họ cứu chữa
được.
4. Con người phải tự nhận thức và đánh giá đức hạnh của mình.
Hành động là thể hiện, là kết tinh của đức hạnh. Con người phải luôn luôn tự đánh giá, tự nhận thức bản
thân mình qua việc làm, qua ứng xử cụ thể, qua hành động chứ không phải qua lời nói của mình. Phầm chất đức
hạnh con người được đo bằng kết quả thực tế việc làm chứ không phải bằng những lời ba hoa, lý thuyết, hùng
biện, mị dân, tự đánh bóng mình. Con người phải luôn luôn hoàn thiện tư cách đạo đức phẩm giá bằng những
bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn.
5. Học tập đạo đức, tác phong của Bác Hồ.
Phẩm chất đạo đức cao cả của Bác Hồ luôn thể hiện ở hành động, việc làm. Lòng yêu thương con người,
yêu quê hương đất nước, lối sống giản dị, trong sáng của Bác Hồ đã được thể hiện qua rất nhiều hành động, việc
làm mà sách báo đã viết về Bác.
Kết luận
Noi gương Bác, em nguyện lời nói đi đôi với việc làm, học đi đôi với hành, rèn luyện tu dưỡng bản thân
qua thực tiễn lao động, học tập và quan hệ xã hội để không ngừng hoàn thiện phẩm chất đức hạnh.
Đề bài: Suy nghĩ về câu của nhà văn Pháp, Mi-sen Ê-ken Mông-ten-lơ: “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa,
nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa”
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
Đời sống con người gồm có đời sống vật chất, và đời sống tinh thần. Theo nhà văn Pháp Mi-sen Ê-ken
Mông-ten-lơ :“Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa”. Tại sao lại như vậy và
chúng ta học được gì từ câu đó?
Thân bài
1. Thế nào là nghèo nàn về vật chất và tâm hồn.
Đời sống vật chất và đời sống tinh thần đều cao, phong phú là điều ai cũng muốn có nhưng rất khó đạt
được.
Trong hai mặt đó của đời sống con người, hiểu câu nói của nhà văn Pháp Mi-sen Ê-ken Mông-ten-lơ, đời
sống tâm hồn khó xây dựng hơn, khi nghèo nàn sẽ khó chữa hơn. Đời sống tâm hồn quan trọng hơn đời sống
vật chất.
Nghèo nàn về vật chất là sự thiếu thốn về kinh tế, về thu nhập và của cải, tiền bạc. Người nghèo theo định
nghĩa của Liên Hợp Quốc là người có thu nhập quân dưới 1 đô la Mỹ mỗi ngày (ở thế kỷ 20) và nay, theo tiêu
chuẩn mới, là dưới 2 đô la Mỹ mỗi ngày. Cùng với công việc phát triển kinh tế, tỷ lệ người nghèo trên thế giới
cũng như ở nước ta đang giảm. Cách đây 30 năm, tỷ lệ người nghèo ở nước ta khoảng 60%, nay chỉ còn
khoảng 15%. Người nghèo nếu có quyết tâm và điều kiện, cùng với sự giúp đỡ của cộng đồng và nhà nước, có
thể thoát nghèo.
Nghèo nàn tâm hồn là sự đơn điệu, tẻ nhạt, khô cằn, vô cảm trong tình cảm và cảm xúc, không nhận thấy
vẻ đẹp của thiên nhiên, và cuộc sống, xã hội và tư duy. Người nghèo tâm hồn thường có thái độ tiêu cực ( ích
kỷ, đố kỵ, ghen ghét), thiếu tấm lòng yêu thương và rộng mở, độ lượng và không có hứng thú trong lao động
sáng tạo cũng như biết cách chia sẻ, hòa nhập cộng động.
2. Nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa.
“ Nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa” vì nó xuất phát từ nhận thức và thái độ đối với bản thân và cuộc
sống, với cộng đồng và xã hội. “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, tính nết, tình cảm, quan niệm sống được hình
thành trong quá trình nhận thức, giao tiếp với môi trường xung quanh. Con người đã trưởng thành rất khó thay
đổi về tư duy, tính cách, đạo đức và quan niệm sống. Sống lâu làm con người có thêm kinh nghiệm chứ khó làm
tâm hồn biến đổi được.
Tập thơ Nhật ký trong tù của Bác Hồ cho ta thấy mặc dù phải ở cảnh tù tội, gian khổ nhưng nhờ sự giàu
có về tâm hồn mà Bác luôn luôn vui vẻ, lạc quan, yêu đời.
Thông điệp mà nhà văn Pháp Mi-sen Ê-ken Mông-ten-lơ gửi đến chúng ta là phải luôn luôn nuôi dưỡng
tâm hồn, làm cho đời sống tinh thần phong phú, giàu có, dù đời sống vật chất khó khăn.
Đời sống tinh thần khi đã nghèo nàn thì rất khó chữa, khó nhưng phải phải là không chữa được. Sống cởi
mở, chân thành, sống có lý tưởng, có mục đích đúng đắn sẽ giúp chúng ta sống có tâm hồn, khắc phục sự nghèo
nàn trong tâm hồn. “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”. Hãy có việc làm thể hiện sự quan tâm
chăm sóc bản thân, gia đình và cộng đồng. Hãy mở lòng với bạn bè, đồng nghiệp. Hãy thường xuyên gọi điện
thoại cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè. Hãy tham gia tích cực các hoạt động cộng đồng như làm vệ sinh đường
phố, ủng hộ quỹ vì người nghèo, vui chơi trung thu với các em nhỏ, thăm hỏi người ốm… ta sẽ thấy “ Cuộc đời
vẫn đẹp sao”, lạc quan yêu đời, tâm hồn ngày càng phong phú, giàu có.
3. Học tập và lao động sáng tạo là điều kiện để chữa bệnh tâm hồn.
Học tập để có tri thức, lao động sáng tạo để có thu nhập và thành công trong sự nghiệp, tu dưỡng đạo đức
tác phong để không ngừng hoàn thiện bản thân là con người đã có đời sống giàu có, cả vật chất và tinh thần.
Đặc biệt chúng ta phải nuôi dưỡng tâm hồn. Tâm hồn giàu có là rất quan trọng và rất khó, khó khăn hơn làm
giàu về đời sống vật chất.
4. Sống có lý tưởng, có mục đích cao đẹp để tâm hồn giàu có.
Sống có lý tưởng, có mục đích và phấn đấu không ngừng cho đất nước, dân tộc, xây dựng cuộc sống văn
mình, giàu có về vật chất và tâm hồn, là mục tiêu mà em cố gắng đạt được trong đời.
Chúng ta phải thường xuyên bồi đắp cho tâm hồn ngày càng phong phú, cao đẹp. Những câu chuyện cảm
động xung quanh cuộc sống và những câu chuyện trong các tác phẩm văn học giàu giá trị nhân văn sẽ nuôi
dưỡng tâm hồn chúng ta, cả những cuốn sách dạy về nghệ thuật sống cũng rất quý giá, như Quà tặng cuộc sống,
Đắc nhân tâm. Vượt lên chính mình, Phút dành cho mẹ…. Các tấm gương như chị Đặng Thùy Trâm, anh
Nguyễn Văn Thạc, anh Nguyễn Văn Trỗi cho ta những bài học sâu sắc về tâm hồn cao đẹp, phong phú trong
những hoàn cảnh khó khăn rất ngặt nghèo của đời sống. Lắng tâm hồn mình để suy ngẫm sâu sắc những tấm
gương đó làm cho chúng ta trưởng thành hơn trong ý thức, vững vàng trong bản lĩnh, hoàn thiện hơn trong nhân
cách và tâm hồn ta sẽ đầy ắp những giá trị nhân văn cao quý.
Kết luận
Đất nước ta đang phấn đấu theo mục tiêu : “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn mình”.
Xã hội văn mình sẽ được xây dựng từ những con người văn minh, có tâm hồn giàu có về nhân văn, tình người
và lẽ sống cao cả. Mọi người phải bồi đắp cho tâm hồn trong sáng, phong phú, cao đẹp cả trong ý thức và hành
động thực tiễn hàng ngày.
Đề bài: Hiểu thế nào về ý kiến cho rằng : “Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên
bạn thân ở chung nhà, và kết thúc là ông chủ khó tính”
Mở bài
Mỗi con người đều có hoàn cảnh sống cụ thể riêng, có khi rất khó khăn. Trong những hoàn cảnh nhất
định, con người có thể phạm sai lầm, tạo nên thói xấu. Khi đó, con người cần nhớ tới ý kiến :“Những thói xấu
ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên bạn thân ở chung nhà, và kết thúc là ông chủ khó tính”, để có
ứng xử phù hợp, tỉnh táo, vượt lên bản thân mình.
Thân bài
1. Thói xấu rất dễ thâm nhập vào chúng ta.
Thông điệp mà ý kiến này gửi tới chúng ta là con người phải luôn luôn đề phòng sự thâm nhập thói xấu,
không dung túng cho thói xấu. Phải có bản lĩnh, tỉnh táo để chống lại sự lây lan của thói xấu. Không để thói xấu
chế ngự mình.
“Nhân vô thập toàn”. Không ai có thể hoàn hảo, trong sạch ở mọi lúc, mọi nơi. Khi va đập với cuộc sống
phức tạp, nhiều cám dỗ con người có thể có hành vi không đúng với pháp luật, với lẽ phải ở đời, là thói xấu.
Nhưng hãy kiên quyết với hành vi, thói xấu đó. Hãy để nó là “là người khách qua đường”, gặp một lần trong
đời. Không để nó trở thành “ông chủ khó tính” chi phối cuộc đời ta.
2. Phải thường xuyên cảnh giác, đề phòng sự xâm nhập của thói xấu.
Khi nhỏ, ta có thể gặp thói lười học, ích kỷ, tham lam, không nghe lời cha mẹ. Lúc đói lòng, ta có thể ăn
trộm quả trứng, củ khoai, trái cây của nhà hàng xóm. Ra đường, ta có thể khạc nhổ, vứt rác lung tung. Ở trường
ta có khi quay cóp, nói tục, chửi thề. Lớn lên, đi làm, có lúc ta lười biếng, lãn công, nói dối, cuộc sống gặp khó
khăn, phức tạp, người ta thối chí, sinh ra uống rượu, hút thuốc, sử dụng ma túy, trộm cắp, lừa đảo…. Nếu chúng
ta không có bản lĩnh, tỉnh táo để kiềm chế, kiểm soát bản thân, sửa chữa sai lầm thì nhiều tai họa sẽ xảy ra.
“Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”. Nặng nề hơn, nhiều người phải đi tù vì tội giết người, cướp của, phản
bội Tổ quốc.
Để có đủ bản lĩnh phòng chống sự cám dỗ, thâm nhập của thói xấu, chúng ta phải không ngừng học tập và
rèn luyện. Học tập để có hiểu biết, có tri thức, biết phân biệt cái xấu, cái tốt. Rèn luyện, tu dưỡng đạo đức tác
phong để có đức tính tốt, “miễn dịch“ với thói xấu. Học tập tốt để có công ăn việc làm tốt, đời sống cao và cống
hiến cho xã hội, cho đất nước là cách phòng chống thói xấu hiệu quả nhất.
3. Học tập tấm gương Bác Hồ về tu dưỡng bản thân.
Học tập tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại : “Cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”, “trong sạch, chất
phác, hăng hái, tiết kiệm” là những phẩm chất chúng ta cần rèn luyện để có thành công trong cuộc sống, tránh
được sự thâm nhập của thói xấu.
Cuộc sống bao giờ cũng phức tạp, thói xấu luôn luôn rình rập để thâm nhập và chế ngự ta. Chúng ta phải
thường xuyên cảnh giác với thói xấu, không ngừng rèn luyện để trưởng thành, trở thành người có phẩm chất
đạo đức tốt.
4. Liên hệ bản thân : chăm học, chăm làm, tu dưỡng đạo đức tốt.
Thế kỷ 21 là thế kỷ cách mạng khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, thế kỷ của thời đại tri
thức, thế kỷ hội nhập toàn cầu. Trong khi phần lớn thanh niên học sinh vượt qua mọi khó khăn để cố gắng học
tập thì vẫn còn một bộ phận nhiễm phải thói xấu lười học, ngại khó, ngại khổ, thiếu ý chí vươn lên trong học
tập. Họ đã để cho thói xấu trở thành “ ông chủ khó tính” chi phối họ. Chúng ta phải lên án thói xấu lười biếng.
Nhiều danh nhân đã phê phán thói lười biếng: “Làm biếng ăn ngồi lở núi lở non” ( Nguyễn Trãi). “ Sự buồn
chán bước vào thế giới qua ngưỡng cửa lười biếng” ( La Bruye) "Lười biếng làm mòn trí tuệ và thân thể”
( B.Phranklin) “ Lười biếng là mẹ đẻ của thói ăn cắp và sự đói rét” ( V.Huygo).
Kết luận
Phấn đấu trong học tập và công tác, cố gắng tự hoàn thiện nhân cách bản thân mình, cảnh giác với thói
xấu là ý nghĩa gửi tới chúng ta của câu nói “Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên bạn
thân ở chung nhà, và kết thúc là ông chủ khó tính”.
C. CÂU 5 ĐIỂM ( NL VĂN HỌC)
Việt Bắc
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Để diễn tả những tình cảm cách mạng cao quí của nhân dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tố Hữu
đã dùng lối hát giao duyên đối đáp giữa nam và nữ trong các hội hè đình đám ở miền Bắc nước ta. Thay vào nội
dung tình yêu đôi lứa của dân ca bằng tình nghĩa cách mạng, tấm lòng son sắt thủy chung với Đảng, với nhân
dân, qua cách nói, cách xưng hô “mình - ta”, tình cảm cao quí đó trở nên gần gũi, thắm thiết hơn. Hai nhân vật
trữ tình trong bài thơ là người cán bộ về xuôi, tượng trưng cho dân tộc Kinh và người dân Việt Bắc, tượng trưng
cho dân tộc miền ngược. Do đó tình cảm cách mạng ở đây còn là tình đoàn kết gắn bó giữa hai vùng miền xuôi
- miền ngược, thể hiện chính sách dân tộc của Đảng ta.
2. Hai mươi câu thơ mơ đầu bài thơ là lời trao gởi ân tình thắm thiết của Việt Bắc đối vơi cán bộ cách mạng
về xuôi. Một loại câu hỏi tu từ và điệp kiểu câu:
“Mình về mình có nhớ ta… Mình về mình có nhớ không… Tiếng ai… Mình đi,có nhớ những ngày…”
Gợi cho người đọc cảm nhận được tình cảm lưu luyến không muốn rời trong buổi chia tay người đi - kẻ ở, qua ý
thơ: Người về có nhớ ta không?
a. Nhớ Việt Bắc là nhớ quê hương cách mạng, nhớ ngọn nguồn cách mạng, nơi đã bảo bọc cán bộ, chiến sĩ
cách mạng trong những ngày sóng gió, khi Đảng còn non trẻ. Hình ảnh “mười lăm năm ấy” là một hình ảnh cụ
thể nhắc nhở thời kỳ đầu thành lập lực lượng vũ trang, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân
dân, cho đến ngày kháng chiến chống pháp thắng lợi. Cả một thời gian dài gian khổ, đắng cay! Việt Bắc đã ân
tình, ân nghĩa với cách mạng như thế , cho nên: “NNhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?”.
Người ra đi làm sao tránh khỏi tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng ? Hai tính từ lấp láy “bâng khuâng”, “bồn
chồn” cùng hiện diện trong câu thơ đối ý càng khắc họa đậm nét tâm trạng ấy .
b. Nhớ Việt Bắc còn là những kỷ niệm gian khổ, khó khăn trong thời kỳ kháng chiến. Câu thơ liệt kê “Mưa
nguồn suối lũ”, được nhấn mạnh thêm bằng từ “những”, từ “cùng” để tạo một loạt “những mây cùng mù”
nhấn mạnh thêm ý gian khổ, vất vả của cuộc sống kháng chiến. Hình ảnh “miếng cơm chấm muối, mối thù
nặng vai” có sức khái quát cao, nói lên tình đoàn kết chiến đấu, chia sẻ gian lao giữa hai vùng miền xuôi - miền
ngược là thấm thía .
c. Nhớ Việt Bắc cũng là nhớ tình nghĩa đồng bào. Bằng cách nói mộc mạc, diễn tả tình cảm kín đáo mà tha
thiết, tác giả bộc lộ niềm thương nỗi nhớ của người ở lại.
“Trám bùi để rụng, măng mai để già”. “Trám”, “măng” là đặc sản của Việt Bắc, từng làm thức ăn lót lòng
thay ngô, sắn, cơm, khoai trong những ngày kháng chiến. Ngày nay, qua rồi thời kỳ đói khổ, khó khăn, nhắc
nhở những sản vật này với tấm lòng thiết tha trìu mến đối với Việt Bắc ; xem đó là kỷ niệm sâu sắc trong đời.
Để làm nổi bật tấm lòng son sắc, thuỷ chung, thủ pháp đối lập đã được nhà thơ sử dụng thành công.
“Hắt hiu lau xám Đậm đà lòng son”
Biện pháp đảo ngữ ở đây làm cho hình ảnh câu thơ càng thêm sinh động.
3. Đoạn sau là lời đáp thiết tha tình nghĩa của cán bộ cách mạng trước lúc chia tay. Đoạn thơ đã tái hiện cảnh và
người Việt Bắc bằng những chi tiết tiêu biểu nhất, đẹp đẽ nhất.
a. Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa:
Hình ảnh tượng trưng: “Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” kết hợp với cách dùng từ cùng
nghĩa “chia, sẻ, cùng” diễn tả được mối tình cảm “chia ngọt sẻ bùi” giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách
mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong “củ sắn”, “bát cơm”, “chăn sui”… mà người cán bộ cách mạng đã
chịu ơn Việt Bắc.
Hình ảnh chọn lọc: Người mẹ nắng cháy lưng… gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao
động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh
tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người về
xuôi .
Đoạn thơ còn dựng lại những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh
hoạt trong kháng chiến Việt Bắc. Câu thơ đối ý mà nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách
mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ, khó khăn :
“Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”
Âm thanh “tiếng mõ rừng chiều” và “chày đêm nện cối đều đều suối xa” là âm thanh đặc trưng của Việt Bắc,
phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng, gợi nhớ một thời đã qua.
Đặc sắc nhất là đoạn thơ hồi ức về cảnh đẹp núi rừng Việt Bắc qua bốn mùa trong năm. Một loạt từ chỉ màu
sắc, xanh, đỏ tươi, trắng, vàng… tạo một cảm giác tươi mát, vui mắt cho các bức tranh phong cảnh. Mùa xuân
với hoa mai nở trắng rừng. Mùa hạ với âm thanh “ve kêu” tạo thành một bản hợp tấu của rừng xanh. Mùa thu
với ánh trăng hòa bình êm đềm trong sáng. Giữa cây cỏ thiên nhiên, Con người Việt Bắc hiền hòa, nhân hậu lao
động cần cù: đan nón chuốt tùng sơi giang, hái măng một mình. Bức tranh thiên nhiên trở nên sinh động và có ý
nghĩa hơn.
b. Việt Bắc còn nghi lại những chiến công của bộ đội, dân quân ta trong kháng chiến chống pháp. Đoạn thơ toát
lên vẻ đẹp hào hùng của dân quân ta:
“ Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu
súng bạn cùng mũ nan”
Bằng những điệp từ “điệp điệp, trùng trùng” và từ ngữ láy phụ âm đầu “rầm rập” diễn tả được hào khí ngút
trời của bộ đội, dân công trên đường ra mặt trận.
Với lối nói thậm xưng “bước chân nát đá” tác giả cũng muốn nhấn mạnh sự lớn dậy và kiên cường, bất khuất
của bộ đội ta thời kỳ này.
c. Việt Bắc còn là đầu não của cuộc kháng chiến toàn quốc, là niềm tin vững chắc của nhân dân về Đảng,về
lãnh tụ:
“Nhìn lên Việt Bắc… Trông về Việt Bắc…”
Câu thơ nói lên vị trí quan trọng của Việt Bắc mà cũng là nhấn mạnh uy tín của Bác, của Đảng đối với toàn dân,
toàn quân trong thời kỳ kháng chiến gian khổ.
B. LUYỆN TẬP
I. CÂU HỎI
1. Bài thơ Việt Bắc gợi nhớ đến lối cấu tứ cảnh chia tay và lối hát đối đáp trong ca dao, dân ca. Em hãy kể một
số ví dụ về những bài ca dao, dân ca có cách cấu tứ như vậy?
2. Có người cho rằng ở bài thơ Việt Bắc, đối đáp chỉ là hình thức kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên trong
lại là dòng độc thoại nội tâm. Em có tán thành nhận xét ấy không, và nếu có thì hãy chứng minh điều đó.
II. LÀM VĂN
Bình giảng đoạn thơ sau trong Việt Bắc của Tố Hữu:
“Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người […………………………………] Nhớ ai tiếng hát ân
tình thủy chung”
III. GỢI Ý TRẢ LỜI
1. Lối hát đối đáp và cách cấu tứ cảnh chia tay thường được sử dụng rất phổ biến trong ca dao, dân ca ở mọi
miền, như hát trống quân, hát quan họ, hát xoan, hát phường vải… Một số câu ca dao quen thuộc có cách cấu tứ
như vậy:
“- Mình về có nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
“- Mình về ta chẳng cho về Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”
“- Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
2. Bài thơ được kết cấu theo lối đối đáp quen thuộc trong câu ca dao, dân ca. Nhưng ở đây không chỉ là lời câu
hỏi, lời đáp mà còn là sự hô ứng, đồng vọng của cùng một tâm trạng. Lời đáp không chỉ nhằm giải đáp cho
những điều đặt ra trong lời hỏi mà còn là sự mở rộng, làm phong phú thêm những ý tình được gợi ra trong lời
hỏi.
Có khi như ở đoạn cuối của bài thơ, cả lời hỏi và lời đáp đã hòa làm một để trở thành bản hợp ca đồng vọng,
ngân vang những tình cảnh chung. Nhìn sâu hơn vào kết cấu của bài thơ, chúng ta thấy đối thoại chỉ là lớp kết
cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại trữ tình của chủ thể đắm mình trong hoài niệm
về quá khứ gian khổ mà tươi đẹp trong cách mạng và kháng chiến với những nghĩa tình thắm thiết. Tình nghĩa
của nhân dân với cách mạng, của người cán bộ với Việt Bắc, của miền ngược với miền xuôi, của cả dân tộc với
lãnh tụ… Vì thế hai hình tượng kẻ ở và người đi cùng với lời hỏi và lời đáp có thể được bọc lộ đầy đủ và sâu
sắc trong cách đối thoại, hô ứng. Sự thống nhất của tâm trạng trữ tình cũng được thể hiện rất rõ trong việc sử
dụng hai đại từ “mình” và “ta” trong bài thơ.
BÀI VĂN THAM KHẢO
Đề 1:
Kể về những thành tựu xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, có
lẽ chúng ta không thể nào không nhắc đến Việt Bắc của Tố Hữu. Đây là một bài thơ mang đậm đà màu sắc dân
tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Thông qua đó, thể hiện niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm sắt son
đầm thắm của nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của
người cán bộ kháng chiến với thiên thiên, núi rừng và con người Việt Bắc.
Đoạn thơ gồm năm câu lục bát nhắc lại những cảnh thân thiết và tươi đẹp nhất về cảnh và người Việt Bắc trong
hồi ức của người cán bộ cách mạng miền xuôi, ở đây chính là nhà thơ.
“Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người” Đây là hai câu thơ mở đầu nhưng nó mang cảm
xúc chung cho toàn đoạn.
Ta là người ra đi cũng chính tác giả. Ở đây đoạn thơ kết cấu theo lối đối đáp thông thường trong dân ca truyền
thống. Do đó, đây chính là lời hỏi ngọt ngào của người ra đi với người ở lại, dễ liên tưởng đây là một thiếu nữ
địa phương. Và câu hỏi tu từ này là cái cớ bày tỏ tình yêu của một chàng trai miền đồng bằng với cô gái miền
cao.
“Hoa và người” thực là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Ở đây, thiên nhiên hòa điệu với con
người, giữa chúng ngoài mối quan hệ tương hỗ còn có mối tương sinh lẫn nhau. Việt Bắc sinh ra con người và
con người làm nồng ấm quê hương Việt Bắc.
Tiếp theo, tám dòng lục bát còn lại như là một bức tranh tứ bình về thiên và con người nơi đây. Với bốn dòng
lục, nhà thơ đã miêu tả phong cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên thiên có nét đẹp
riêng biệt. Qua đây, ta thấy chỉ riêng đoạn thơ này đã thấm đậm tính chất dân gian.
Đầu tiên là bức tranh tả cảnh và khơi gợi cho chúng ta tình cảm mến thương của mùa đông Việt Bắc. Tại sao lại
là mùa đông? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ phút chia tay. Chúng ta còn nhớ, vào một đêm mùa đông
1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, những người lính lặng lẽ rời thành
phố, bí mật theo chân cầu sông Hồng ngược xuôi lên căn cứ cách mạng Việt Bắc.
Thế mà, ở chốn núi rừng heo hút này, mùa đông rừng biếc xanh đột ngột bùng lên màu đỏ tươi của hoa chuối
rừng như những bó đuốc thắp lên sáng rực. Vẻ đẹp nên thơ và rực rỡ của Việt Bắc vào mùa đông gợi những
người đọc những rung động sâu xa. Thông qua bức tranh, ta thấy dù mùa đông lạnh giá nhưng sự sống núi rừng
vẫn cứ như tuôn trào, cảm giác đem đến cho lòng người sự ấm áp lại.
Thiên thiên đáng yêu như thế, còn con người thì sao? Ta xét tiếp câu hát:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” Thời gian được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”. Chính ấn tượng thời
gian này tạo sự vật vận động, sinh sôi nảy nở. Không gian ở đây như là cổ tích. Mới vừa rồi màu xanh bạt ngàn
điểm hoa chuối đỏ, bây giờ nở bung ra những rừng mơ trắng muốt thoảng hương thơm. Cái màu trắng dìu dịu
tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi lên trong lòng ta một cảm giác thơ mộng bâng khuâng. Ngoài ra màu
trắng của hoa mơ gợi cho người ta cái thanh thoát hơn, đem lại cho lòng ngưỡi sự thanh thản, thảnh thơi. Câu
thơ làm cho ta thấy dường như màu xanh đã bị lấn lướt. Mùa xuân ở đây không tưng bừng như mùa xuân của
Xuân Diệu mà nó đến một cách lặng lẽ, âm thầm nhưng không kém niềm vui.
“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Mùa xuân miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân Việt Bắc. Sợi giang là sản phẩm của Việt Bắc. Do
vậy người lao động đó là người Việt Bắc chớ không phải là người miền xuôi. Nhìn thấy được từng sợi giang,
tức là con người được nhìn ở tầm gần. Việc làm này có nhàn nhã như chính mùa xuân, mùa xuân làm cho người
ta cảm thấy thơ thới và đem đến cho họ dáng điệu sống như thế.
Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, qua mau, con người tiếp tục sống cuộc sống của họ.
“Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác. Đầu tiên, cái độc đáo ở đây chính là âm
thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo ra hình ảnh nhân hóa. Con ve là loài vật, vậy mà nó biết
kêu, biết gọi, nó xui khiến rừng phách đổ vàng ở đây, chúng ta nên dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng
phách kỳ lạ này. Rừng phách là những cây lạ ở miền Bắc. Nó không mọc riêng rẽ mà mọc thành rừng, rất nhạy
cảm với thời tiết. Tiếng ve kêu râm ran đây đó đã báo hiệu mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ. Cái lạnh đang
tràn ngập núi rừng, lá cây bắt đầu chuyển sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng óng ánh
dưới ánh nắng mặt trời. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn, vì trong cánh rừng bạt ngàn
ấy có thêm bóng dáng của một sơn nữ “hái măng một mình”.
Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ nào khác: bẻ, đốn… vì chỉ có nó mới phù hợp
nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái mà thôi. Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này
đẹp biết bao. Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ như thế lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ
nhàng làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp vừa có thần nữ. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào
nhau, tô điểm cho nhau.
Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng không kém phần đẹp đẽ.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh trăng. Việc sử dụng hình
ảnh trăng thật ra cũng không có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ ta
thấy được niềm mơ ước hòa bình của người cán bộ cũng như toàn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin
tưởng chiến thắng sẽ đến với cách mạng với đất nước.
Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi để tạo nền cho cả đoạn và cũng
nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết rằng
con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong tâm hồn của cả hai người yêu nhau cùng nhớ,
cùng thương “nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật
ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và
người ở lại. Đặc biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ nhớ dùng để xoáy sâu vào cảm hứng
chủ đạo là hồi ức. Từ “rừng” lặp lại là khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng không
ít tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con dao thể hiện sự hoạt động. Màu trắng làm thanh thoát
con người và màu vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hoàng hôn. Rõ ràng bức tranh đã có sự hòa điệu của màu
sắc. Bên cạnh đó,nhạc đệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một
khúc hát ru - khúc hát ru kỷ niệm. Có lẽ khúc hát ru này không của ai khác là của “ta” và cho người nhận là
“mình”. Cả “ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung “Tiếng hát ân tình” và ân tình sâu nặng ấy
mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.
Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài Việt Bắc. Cảnh thiên nhiên và con người trong đây
được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp, tràn ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn
thơ như một bản tình ca về lòng chung thủy sắt son của người cách mạng đối với cả nhân dân, quê hương Việt
Bắc.
Đề 2:
Phân tích đoạn thơ trích trong Việt Bắc của Tố Hữu:
“Mình về mình có nhớ ta (…) Tân trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”
Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:
“Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi,
nhìn sông nhớ nguồn?”
Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ. Các xưng hô “mình - ta”
mộc mạc, thân gần gợi liên tưởng ca dao: “Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”. “15 năm”
là chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh, đồng thời
cũng là chi tiết gợi cảm - nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn. Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều -
Mười lăm năm bằng thời gian Kim - Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về nhau (Những là rày ước mai
ao - Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình). Cảm xúc đậm đà chất dân gian, đậm đà chất Kiều. Âm điệu ngọt
ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết tha. Việt Bắc hỏi về: “Mình về mình có nhớ không -
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”. Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo:
đừng quên cội nguồn Việt Bắc - cội nguồn cách mạng.
Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau
biết nói gì hôm nay”
“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ
thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm
năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ
mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10-1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của
người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả.
“Áo chàm đưa buổi phân li” là một ẩn dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng của người miền núi Việt
Bắc - tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc
mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp
kháng chiến cứu nước.
Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” đầy tính chất biểu cảm - biết nói gì không phải không có điều
để giải bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu
là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…
12 câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của Việt Bắc:
“Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm
chấm muối, mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng măng mai để già Mình đi, có nhớ
những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về, có nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”
Điệp từ “nhớ” lập đi lập lại nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, ghi nhớ, nhắc nhở. Hàng loạt những câu hỏi
tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ
mong, gài lại niềm thương theo cách:
“Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao vất vả, hoạt động chiến đấu trong
điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn.
“Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
“Miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. Và cách nói “mối thù nặng
vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè nặng vai dân tộc ta.
Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt:
“Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Hình ảnh “Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng - “Trám rụng - măng già” không ai
thu hái. Nỗi ngùi nhớ bức bối như thúc vào lòng kẻ ở lại.
Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên
trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của
người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách
mạng, đừng quên để chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng. “Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái,
mái đình cây đa”
Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái
phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con
người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp
của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.
đọan trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
Đề 1: Cảm nhận của anh / chị về đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
……………………………………
Đất Nước có từ ngày đó”.
I/ Mở bài :
- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là
nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
- “Đất nước” là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Chín câu thơ đầu của đọan thơ :
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
……………………………………
Đất Nước có từ ngày đó”.
Là những cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về sự sinh thành và phát triển của Đất nước qua những hình
tượng cụ thể, sinh động,gợi cảm sôi nổi và thiết tha.
II/ Thân bài :
* Tòan đọan thơ có chín câu, được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng…, nhà thơ giúp
cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn và sự hình thành của Đất nước một cách sâu sắc.
* Trước hết,ở hai câu thơ đầu của đọan thơ, Tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh thành của đất nước.Đất
nước có từ bao giờ ? Để trả lời cho câu hỏi này, nhà thơ đã viết :
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi,
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”.
Tham vọng tính tuổi của Đất nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái “ ngày xửa ngày xưa” ( thời gian
nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm chỉ, trừư tượng, không xác định. Đó là thời gian
huyền hồ, hư ảo, thời gian mang màu sắc huyền thoại. Song chính ở “cái ngày xửa ngày xưa” đó, nhà thơ đã
giúp cho chúng ta nhận thức được : Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết .Chỉ biết rằng : khi
ta cất tiếng khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu.
Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của đất nước, nhà thơ còn nỗ lực hình dung về khởi đầu và quá
trình trưởng thành của đất nước :
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn,
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Phải chăng, khởi thủy của đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính cách anh hùng của con
người Việt Nam. Ở đây,hình ảnh “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất
hiện trong các câu chuyện cổ tích,ca dao,tục ngữ.Bởi lẽ,“miếng trầu”là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy
chungcủa tâm hồn dân tộc.Từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ văn hiện đại, cây tre đã trở thành biểu
tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước.
Và còn nữa, trong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với với đời sống văn hóa tâm linh, bằng
phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc sống lao động cần cù vất vả của nhân dân :
“Tóc mẹ búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên,
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng…”.
Đọan thơ, bằng những ý thơ giàu sức liên tưởng , nhà thơ đã đưa người đọc trở về với những nét đẹp văn
hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình ảnh “tóc mẹ búi sau đầu”, gợi tả một nét đẹp thuần phong
mỹ tục của người Việt; và những câu ca dao xưa ca ngợi vẻ đẹp đậm tình nặng nghĩa trong cuộc sống vợ chồng
“cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Không những vậy, hình ảnh thơ còn thể hiện sự cảm nhận về
đất nước gắn với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bản…
* Có thể nói,đọan thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn đất nước - một câu hỏi quen thuộc, giản dị
bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất mới lạ : nhà thơ không tạo ra khỏang cách sử thi để
chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước hoặc dùng những hình ảnh mĩ lệ , mang tính biểu tượng để cảm nhận và lý
giải , mà dùng cách nói rất đỗi giản dị,tự nhiên với những gì gần gũi , thân thiết , bình dị nhất.
Gịong thơ thâm trầm, trang nghiêm; cấu trúc thơ theo lối tăng cấp : Đất nước đã có; Đất Nước bắt đầu; Đất
Nước lớn lên; Đất Nước có từ… giúp cho người đọc hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của
đất nước trong thời gian trường kỳ của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa
hai từ Đất Nước ( vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi
nói về đất nước , quê hương của mình.
III/ Kết bài :
Tóm lại, chín câu thơ mở đầu cho đọan trích “Đất Nước” đã thật sự để lại những ấn tượng và cảm xúc sâu
sắc cho người đọc về sự sinh thành và trưởng thành của đất nước. Bởi lẽ, đọan thơ đã giúp cho tất cả mọi người,
đặc biệt là thế hệ trẻ, những ai mà còn có những nhận thức mơ hồ về đất nước mình thật sự phải suy gẫm. Bởi
lẽ, đọan thơ còn cho chúng ta hiểu được đất nước thật thân thương và gần gũi biết nhường nào .Từ đó đọan thơ
bồi dưỡng thêm cho chúng ta về tình yêu đất nước, quê hương mình và biến tình yêu ấy bằng thái độ, hành động
dựng xây , bảo vệ đất nước.
* Đề 2 :
Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” ( Trích trường ca “ Mặt đường khát vọng”
của Nguyễn Khoa Điềm:
“ Đất là nơi anh đến trường
………………………………….
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
Hướng dẫn làm bà i
I/ Mở bài :
- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là
nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Có thể nói, bằng giọng thơ sôi nổi thiết tha, hình ảnh thơ sinh động và gợi cảm…đọan thơ sau đây trong “Đất
Nước” có thể xem như là những định nghĩa về đất nước thật mới mẻ và độc đáo của nhà thơ :
“ Đất là nơi anh đến trường
………………………………….
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
II/ Thân bài :
* Nếu như chín câu thơ đầu của đọan thơ là sự trả lời của nhà thơ cho câu hỏi : Đất nước có từ bao giờ? Thì ở
16 câu thơ này, nhà thơ tiếp tục bày tỏ sự cảm nhận của mình về đất nước để trả lời cho câu hỏi : Đất nước là
gì?
* Câu hỏi đã được nhà thơ trả lời bằng cách nêu ra những định nghĩa về đất nước ở hai phương diện :
không gian địa lý và thời gian lịch sử .
Trước hết, về không gian địa lý, đất nước là nơi sinh sống của mỗi người :
“ Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tắm”.
Không những vậy , đất nước còn là nơi tình yêu lứa đôi nảy nở say đắm, thiết tha .Đó là “ nơi em đánh rơi
chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Đất nước còn là núi sông, rừng bể,là“hòn núi bạc”,là “nước biển khơi”.Và còn
nữa, đất nước còn không gian sinh tồn của cộng đồng qua nhiều thế hệ với “những ai đã khuất…những ai bây
giờ…”
Cùng với cách cảm nhận về đất nước ở phương diện không gian địa lý, nhà thơ còn cảm nhận đất nước ở
phương diện thời gian lịch sử .Ở phương diện này, đất nước có cả chiều sâu và bề dày được nhận thức từ
huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ .
Đọan thơ với cấu trúc ngôn ngữ “ Đất là…, Nước là…Đất Nước là…” , nhà thơ đã định nghĩa bằng cách
tư duy “chiết tự” để giải thích, cắt nghĩa hai tiếng Đất Nước thiêng liêng bằng tinh thần luận lí chân xác.Nếu
tách ra làm những thành tố ngôn ngữ độc lập thì Đất và Nước chỉ có ý nghĩa là không gian sinh tồn về mặt vật
chất của con người cá thể.Nhưng nếu hợp thành một danh từ thì “Đất Nước” lại có ý nghĩa tinh thần thiêng
liêng, chỉ không gian sinh sống của cả một cộng đồng người như anh em một nhà.
* Tóm lại, bằng cách sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian nhà thơ đã lý giải một
cách sinh động , cụ thể cho câu hỏi : Đất nước là gì? Từ đó , hình ảnh đất nước hiện lên qua đọan thơ vừa
gần gũi - cụ thể, vừa thiêng liêng- khái quát trên cả bề rộng không gian địa lý mênh mông và thời gian lịch sử
đằng đẵng của dân tộc.
III/ Kết bài:
Có thể nói, đọan thơ là những định nghĩa đa dạng, phong phú về đất nước từ chiều sâu văn hóa dân tộc, xuyên
suốt chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều rộng của không gian đất nước.
Nhà thơ cũng vận dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân gian để cảm nhận và định nghĩa về đất.Từ đó , đọan
thơ giúp cho chúng ta hiểu và gắn bó hơn với đất nước, quê hương mình bằng một tình yêu và ý thức trách
nhiệm sâu sắc .
* ĐỀ 3 :
Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm :
“ Trong anh và em hôm nay,
………………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
Hướng dẫn làm bài
I/ Mở bài:
- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là
nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Đọan thơ sau đây là những lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó và trách nhiệm của mỗi người với đất nước :
“ Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước
………………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
II/ Thân bài :
Thật vậy, sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về đất nước qua những phương diện không
gian- địa lý,thời gian- lịch sử,phong tục- văn hóa …, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến khẳng định :
“ Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước”.
1.Đây là một sự thực mà mỗi người Việt Nam ai cũng đều cảm thấy.Đất nước đã hóa thân vào mỗi con
người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra và lớn lên trên đất nước này.Mỗi người Việt Nam
đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp
cảm,nếp nghĩ và cách sống của mình.
2.Từ việc khẳng định: đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người,nhà thơ tiếp tục nói về
mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước bằng những dòng thơ giàu chất chính luận :
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.
3.Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu và niềm
tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa, nồng thắm”; “vẹn tròn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu
câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (“Khi /Khi; Đất Nước / Đất Nước),nhà thơ muốn gửi đến cho
người đọc bức thông điệp: đất nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc,
giữa cá nhân với cộng đồng.
4.Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, giữa tình yêu cá nhân với tình yêu
lớn của đất nước; nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước :
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Có thể nói, ba dòng thơ đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của
đất nước.Thế hệ sau “con ta lớn lên sẽ mang Đất Nước đi xa- Đến những tháng ngày mơ mộng”.Đất nước sẽ
đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại sẽ trở thành hiện thực ở ngày mai.
Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của đất nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi người :