Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tìm hiểu Luật ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.78 KB, 16 trang )

Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

MỤC LỤC
Tiêu Đề

Trang

ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................................2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.......................................................................................2
I. Những vấn đề chung về ly thân...................................................................2
1.1. Nguồn gốc và quan điểm của các nước về ly thân...............................3
1.2. Căn cứ ly thân và hậu quả pháp lý của ly thân....................................4
II. Vấn đề ly thân trong pháp luật Các nước và Việt Nam..........................5
2.1.Vấn đề ly thân theo pháp luật một số nước...........................................5
2.1.1 . Pháp luật của Pháp........................................................................5
2.1.2. Pháp luật của Thái Lan.................................................................7
2.1.3. Pháp luật của Canađa.....................................................................8
2.2.Vấn đề ly thân trong pháp luật Việt Nam.............................................8
III. Pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam có cần thiết phải quy định
ly thân trong pháp luật hay không?.............................................................13
3.1.Ý kiến tham khảo..................................................................................13
3.2.Ý kiến cá nhân.......................................................................................14
KẾT THÚC VẤN ĐỀ........................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................16

SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

1


Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

ĐẶT VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Những vấn đề chung về ly thân
Ly thân là dấu hiệu căn bản của khủng hoảng hơn nhân. Sống ly thân
khơng phải khi nào cũng có ý nghĩa là một trong hai người đi ở chỗ khác. Trong
cùng một căn hộ người ta vẫn có thể sống ly thân bằng cách ăn riêng, ngủ
riêng.v.v… Có lẽ đó là hình thức hay gặp nhất của ly thân vì nó đơn giản và
khơng ồn ào, lại khó bị người khác phát hiện. Do vậy quy mô của hiện tượng này
không thể xác định được dù chỉ bằng số liệu tương đối.
1.1. Nguồn gốc và quan điểm của các nước về ly thân
Ly thân là chấm dứt nghĩa vụ sống chung giữa vợ chồng trong khi quan hệ
hôn nhân không chấm dứt.
Theo học thuyết Mác – Lênin về hôn nhân và gia đình thì vấn đề ly thân
có nguồn gốc từ tôn giáo. Theo quan điểm của hội Thiên chúa, việc lấy vợ, lấy
chồng của nam, nữ là do “Chúa” tạo lập, hơn nhân có tính “bất khả đoạn tiêu”,
vợ chồng phải “ăn đời ở kiếp” với nhau, không được ruồng bỏ nhau, quan điểm
của giáo hội thường cấm vợ chồng ly hôn. Tuy nhiên, hôn nhân là hiện tượng xã
hội có nội dung khá đa dạng. Trong thực tế cuộc sống chung giữa vợ và chồng
có nhiều trường hợp vì nhiều ngun nhân, lí do, động cơ mà nảy sinh xung đột,
mâu thuẫn sâu sắc, vợ chồng không muốn hoặc không thể sống chung. Pháp luật
theo quan điểm tôn giáo thường cấm vợ chồng ly hôn và chế định ly thân được

SV: Nguyễn Vũ Phương Dung


2

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

quy định trong luật với mục đích ban đầu coi ly thân là giải pháp nhằm giải tỏa
xung đột trong đời sống vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ chồng “sống riêng”.
Ly thân được đặt ra để giải quyết mối quan hệ vợ chồng của những người
theo công giáo khi giữa vợ chồng đã có những mâu thuẫn mà khơng thế sống
chung vì luật giáo hội cấm ly hơn. Mặc dù vậy, ly thân không phải là chỉ để áp
dụng riêng cho những người theo cơng giáo. Do đó, nhiều người khơng theo
công giáo cũng lựa chọn giái pháp ly thân để giải quyết quan hệ vợ chồng khi
cuộc sống chung không được như ý. Dần dần, chế định ly thân được áp dụng
rộng rãi, một số nước áp dụng chế định ly thân như một giai đoạn chuyển tiếp
trước khi đi đến ly hơn.
Hiện nay trên thế giới có nhiều nước công nhận quyền được ly thân của vợ
chồng và quy định về ly thân. Một số nước phân biệt ly thân về pháp lý với ly
thân thực tế. Ly thân về pháp lý là trường hợp vợ chồng yêu cầu ly thân và Tịa
án ra quyết định cơng nhận ly thân. Ly thân thực tế là trường hợp vợ chồng tự
nguyện sống riêng mà chưa có quyết định của một có quan thẩm quyền . Pháp
luật một số nước quy định ly thân thực tế là một trong những căn cứ để giải
quyết cho vợ chồng ly hơn, ví dụ: pháp luật Singapore, Philippin, Pháp,
Canađa… Pháp luật một số nước không quy định ly thân như: Việt Nam, Trung
Quốc , Nhật Bản…


1.2. Căn cứ ly thân và hậu quả pháp lý của ly thân
Pháp luật của mỗi quốc gia quy định về căn cứ ly thân có khác nhau. Nhìn
chung, pháp luật các nước đều quy định căn cứ ly thân giống như căn cứ ly hôn.
Hậu quả pháp lý về ly thân về bản chất là hoàn toàn khác với hậu quả pháp
lý về ly hôn. Ly thân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng mà chỉ chấm dứt
SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

3

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

việc sống chung. Tuy nhiên, do vợ chồng không cùng sống chung với nhau nên
phát sinh vấn đề là giải quyết về tài sản và con chung. Những nước mà pháp luật
quy định vợ và chồng có tài sản chung thì khi ly thân tài sản chung được chia.
Nguyên tắc chia tài sản chung giống như khi vợ chồng ly hôn. Một nguyên tắc
mà các quốc gia đều áp dụng là ly thân sẽ dẫn đến biệt sản. Về vấn đề con chung
thì các nước đều quy định phương thức giải quyết giống như khi vợ chồng ly
hôn. Ly thân chấm dứt khi vợ chồng về chung sống với nhau. Trong trường hợp
này thì chế độ biệt sản chỉ chấm dứt khi vợ chồng có thỏa thuận bằng văn bản
(hợp đồng). Nếu bản án ly thân đã được chuyển thành bản án ly hôn theo yêu cầu
của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật thì các bên chấm dứt quan hệ vợ
chồng. Các vấn đề về tài sản, về con chung giải quyết theo quy định chung về ly
hôn.

II. Vấn đề ly thân trong pháp luật Các nước và Việt Nam

2.1.Vấn đề ly thân theo pháp luật một số nước
2.1.1 . Pháp luật của Pháp
Có thể tuyên bố ly thân theo yêu cầu của một bên hoặc của hai vợ chồng
trong những trường hợp có các căn cứ giống ly hơn. Người bị kiện trong vụ ly
hơn có thể có đơn phản tố xin ly thân, người bị kiện trong vụ ly thân có thể có
đơn phản tố xin ly hôn. Nếu nhận được cả đơn ly hôn và ly thân thì thẩm phán
tun bố cho ly hơn do lỗi của cả hai bên. Các thủ tục ly thân có thể áp dụng
theo thủ tục ly hôn.
Hậu quả pháp lý của ly thân là không chấm dứt hôn nhân nhưng chấm dứt
nghĩa vụ ở chung. Nếu vợ mang tên chồng thì có thể vẫn được giữ tên đó, nếu
chồng ghi họ của vợ liền tên mình thì vợ có thể yêu cầu không cho chồng dùng
SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

4

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

họ của mình nữa. Nếu ly thân do hai người cùng yêu cầu thì họ có thể ghi trong
bản thỏa thuận khước từ quyền thừa kế mà họ được hưởng theo quy định của
pháp luật. Ly thân dẫn đến tách riêng về tài sản. Thời điểm có hiệu lực của ly
thân giống như ly hơn. Khi ly thân, một bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho bên có
khó khăn, túng thiếu mà khơng tính đến lỗi của bên nào. Các vấn đề khác giống
như hậu quả của ly hôn.
Chấm dứt hôn nhân: Nếu vợ chồng tự nguyện về vơi nhau thì ly thân
chấm dứt. Phải có cơng chứng thư xác nhận sự quay về chung sống vơi nhau.

Chế đọ tài sản vẫn riêng biệt, trừ khi vợ chồng thỏa thuận một chế đọ tài sản
trong hôn nhân mới. Theo yêu cầu của vợ chồng , bản ly thân sẽ được chuyển
thanh ly hôn nếu việc ly thân kéo dài 3 năm. Trong mọi trường hợp việc ly thân
có thể chuyển thành ly hôn theo yêu cầu của hai vợ chồng.
Điều 255 Bộ Luật dân sự của nước Cộng hòa Pháp: Thẩm phán có thể
cho phép:
1. Cho phép vợ chồng ở riêng;
2. Giao cho một bên sử dụng nhà ở và đồ đạc của gia đình; hoặc phân
chia việc sử dụng đó cho cả 2 bên;
3. Ra lệnh giao lại cho mỗi bên quần áo và vật dụng cá nhân;
4. Ấn định tiền cấp dưỡng và khoản tạm ứng về lệ phí tư pháp mà một bên
phải trả cho bên kia;
5. Cấp cho mỗi bên khoản tạm ứng về phần của họ được hưởng trong khối
tài sản chung, nếu thấy cần thiết.
Thông thường, pháp luật của nhà nước tư sản quy định về ly thân và hậu
quả pháp lí của ly thân rất chặt chẽ. Tòa án giải quyết ly thân thường dựa trên cơ
sở lỗi của vợ, chồng. Hậu quả pháp lí của ly thân không làm chấm dứt quan hệ

SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

5

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

vợ chồng trước pháp luật, chỉ tạm thời chấm dứt một số quyền và nghĩa vụ giữa

vợ chồng theo luật định. Khi ly thân, vợ chồng rơi vào tình trạng “biệt cư” họ
được miễn nghĩa vụ “đồng cư” trong nhà, vợ chồng khơng cịn sống chung với
nhau, họ được quyền ở riêng. Hậu quả pháp lí của ly thân đặt vợ chồng rơi vào
tình trạng “biệt sản”. Khi ly thân, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia mỗi
bên vợ, chồng được nhận một phần tài sản trong khối tài sản chung theo quyết
định của tòa án; phần tài sau này thuộc quyền sở hữu riêng của vợ, chồng; tức là
chế độ cộng đồng tài sản (tài sản chung của vợ chồng) chấm dứt khi vợ chồng
sống ly thân. Tuy nhiên, ly thân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước
pháp luật, giữa vợ và chồng vẫn ràng buộc trách nhiệm đối với nhau và với con
chung: Vợ chồng vẫn phải chung thủy với nhau, không được kết hôn với người
khác, phải có nghĩa vụ đóng góp phí tổn vào nhu cầu đời sống chung của gia
đình, nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng con chung…
Sau một thời gian vợ chồng sống ly thân, nếu xung đột, mâu thuẫn vợ
chồng đã được dàn xếp, vợ chồng có quyền u cầu tịa án hủy bỏ bản án ly thân
trước đây và tái hợp chung sống bình thường. Nếu khơng thể tái hợp được trong
thời gian sống ly thân (thông thường theo quy định của pháp luật là từ 3 năm đến
5 năm), vợ chồng có quyền u cầu tịa án sửa đổi án ly thân trước đây thành án
ly hôn để được chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật.
2.1.2. Pháp luật của Thái Lan
Pháp luật Thái Lan quy định về ly thân hết sức mờ nhạt. Trong Chương
quy định về quan hệ vợ chồng chỉ có một Điều có liên quan đến ly thân, Bộ
Luật Dân sự Thái Lan Điều 1462 có quy định: “Khi sức khỏe về thể xác hoặc
tinh thần hoặc hạnh phúc của vợ chồng bị lâm nguy, nếu cứ tiếp tục chung sống,

SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

6

Lớp:KT33B1- N01.



Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

thì cặp vợ chồng bị lâm nguy đó có thể yêu cầu Tịa án cho phép ly thân khi cịn
hiểm họa đó đe dọa; và trong trường hợp này, Tịa án có thể ra quyết định là vợ
hoặc chồng phải cung cấp một số tiền vừa phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể để
phụng dưỡng người kia”. Theo Điều luật này thi khi sức khỏe (thể xác và tinh
thần) hoặc hạnh phúc của vợ hoặc chồng bị lâm nguy nếu cứ tiếp tục sống chung
thì vợ chồng có quyền u cầu Tòa án cho phép ly thân khi còn bị hiểm họ đó đe
dọa. Khi tun bố ly thân Tịa án có thể quy định hoặc một người phải cung cấp
một số tiền vừa phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể để phụng dương người kia.
2.1.3. Pháp luật của Canađa
Tòa án tuyên bố ly thân khi ý nguyện sống chung của vợ chồng đã bị vi
phạm nghiêm trọng như: vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng đưa ra chứng cứ có
nhiều sự việc làm cho việc duy trì cuộc sống chung khó chấp nhận; hoặc khi vợ
chồng đã ở riêng hoặc một trong hai người thấy không thể sống chung được vơi
người kia; hoặc vợ chồng cùng có đơn u cầu thuận tình ly thân thì khơng cần
đưa ra lý do, Tòa án tuyên bố cho ly thân nếu thấy sự thỏa thuận đó là có thật và
bảo đảm được lợi ích của hai bên và của con cái.
Hiệu lực của ly thân: Vợ chồng khơng có nghĩa vụ sống chung, chia tài
sản của vợ, chồng; Tòa án căn cứ vào hoàn cảnh của hai người để tuyên bố việc
tặng cho của hai vợ chồng khi kết hôn không còn hiệu lực; một bên phải cấp
dưỡng cho bên kia theo quyết định của Tịa án căn cứ vào hồn cảnh, nhu cầu,
năng lực của mỗi bên, những thỏa thuận giữa họ , tình trạng sức khỏe, nghĩa vụ
gia đình, khả năng tìm việc…Các bên có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và
con. Tuy nhiên, Tòa án quy định việc trơng nom, ni dưỡng giáo dục con vì lợi
ích của con cái có căn cứ vào sự thỏa thuận của cha mẹ.


SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

7

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

Việc chấm dứt ly thân khi cả hai người tự nguyện trở lại sống chung vơi
nhau, khi đó , chế độ tài sản riêng biệt vẫn tồn tại trừ khi vợ chồng chọn một chế
đọ tài sản khác bằng hôn ước.

2.2.Vấn đề ly thân trong pháp luật Việt Nam
Trong pháp luật phong kiến Việt Nam, vấn đề ly thân hồn tồn khơng
được dự liệu vì nó trái với tập qn truyền thống của gia đình Việt Nam. Theo
tập quán truyền thống của gia đình Việt Nam, quan hệ hơn nhân được xác lập
dựa trên cơ sở tình cảm u thương chân chính của nam và nữ; vợ chồng yêu
thương nhau, cùng nhau thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với gia đình, với con
cái. Ngun tắc khơng bình đẳng giữa vợ và chồng của pháp luật phong kiến
Việt Nam đã cột chặt người phụ nữ, người vợ vào gia đình nhà chồng theo quan
điểm “thuyền theo lái, gái theo chồng”; người vợ thường vô năng lực chỉ được ở
riêng nếu chồng cho phép.
Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, trước năm 1945, chính quyền bù
nhìn đã ban hành ba bộ luật dân sự, áp dụng riêng trên ba miền Bắc – Trung –
Nam. Chế độ hơn nhân và gia đình theo ba bộ luật dân luật này phần nhiều dựa
trên Bộ dân luật Pháp (1804). Tuy nhiên, vấn đề ly thân chỉ được quy định một
cách giản đơn trong Bộ dân luật giản yếu (1883) ở Nam Kì. Bộ dân luật Bắc Kì

(1931) và Bộ dân luật Trung Kì (1936) khơng quy định về ly thân. Trong thiên
thứ VI về ly hôn của Bộ dân luật giản yếu (1883) nêu rõ: “Trong các trường hợp
có thể xin ly hơn được, vợ chồng cũng có thể xin ly thân. Đơn ấy sẽ được thẩm
cứu và xử như trong vụ ly hôn. Sau này cũng có thể khởi tố xin ly hơn và căn cứ
vào duyên cớ đã nại ra để xin ly thân”.
Ở miền Nam nước ta trước ngày giải phóng (từ năm 1945 – 1975), chế độ
ngụy quyền Sài Gòn cũng ban hành một số văn bản luật, trong đó có quy định
SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

8

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

vấn đề ly thân dưới thời Ngơ Đình Diệm như: Luật gia đình năm 1959 và Sắc
luật 1964.
Bộ luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngơ Đình Diệm, tại Điều 55
đã quy định rõ cấm vợ chồng không được ly hôn, việc ly hôn chỉ đặt ra trong
trường hợp đặc biệt và phải do chính tổng thống quyết định. Từ điều 56 đến Điều
69 của Bộ luật này có quy định việc ly thân: những duyên cớ có (lỗi) để vợ
chồng yêu cầu ly thân và hiệu lực của việc ly thân. Sắc luật số 15/64 ngày
23/7/1964 quy định về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng thay thế Bộ luật gia
đình dưới chế độ Ngơ Đình Diệm. Sắc luật này vừa chấp nhận cho vợ chồng ly
thân đồng thời công nhận quyền ly hôn của vợ chồng (chương II từ Điều 62 đến
Điều 99 đã quy định về ly thân, ly hôn). Theo các văn bản pháp luật này thì vợ
chồng muốn ly thân khi có các căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật. Khi

bản án tuyên bố cho vợ chồng ly thân có hiệu lực pháp luật thì vợ chồng chấm
dứt nghĩa vụ “đồng cư”, tức là vợ chồng khơng cịn nghĩa vụ sống chung với
nhau trong khi quan hệ hôn nhân giữa họ vẫn tồn tại. Mặc dù pháp luật quy định
về ly thân nhưng chế định này ít được áp dụng trong thực tế, bởi vì quy định này
khơng phù hợp với phong tục Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay thuật ngữ “ly
thân” lại được sử dụng khá phổ biến trong đời sống, mặc dù không đúng nghĩa
pháp lý của thuật ngữ này. Thuật ngữ “ly thân” thường được sử dụng để chỉ
những trường hợp vợ chồng do có mâu thuẫn nên đã ở riêng hay thậm chí có
trường hợp vợ chồng vẫn ở chung với nhau nhưng “khơng có quan hệ vợ chồng”
với nhau. Thực ra, trong trường hợp này là “ly thân” trên cơ sở thực tế
Bộ luật Dân sự ngày 20/12/1972 của ngụy quyền Sài Gòn thay thế Sắc luật
số 15/64. Bộ dân luật này cũng quy định cho vợ chồng vừa được li hơn vừa có
quyền u cầu li thân. Điều 170 của Bộ luật này đã quy định các duyên cớ (lỗi)

SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

9

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

để vợ chồng xin li hôn hoặc li thân. Trong tiết III nói về li thân, từ Điều 202 đến
điều 206 quy định thủ tục; hậu quả của li thân.
Hệ thống pháp luật Dân sự và Hơn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ
cách mạng tháng Tám (1945) đến nay khơng quy định vấn đề ly thân của vợ
chồng. Vì vậy, nếu thực tế vợ chồng yêu cầu Tòa án cơng nhận ly thân thì tịa án

bác u cầu của họ. Có một số quan điểm cho rằng quy định tại Điều 18 Luật
Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 1986 chấp nhận việc ly thân của vợ chồng.
Tuy nhiên, điều luật này chỉ quy định việc thanh toán tài sản chung của vợ chồng
khi hôn nhân đang tồn tại, nếu vợ chồng có u cầu và có lí do chính đáng. Quy
định này xuất phát từ thực tế khách quan, có một số trường hợp vì một lí do nào
đó dẫn tới việc vợ chồng có xung đột nhưng không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở
riêng và có yêu cầu chia tài sản chung (Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 20/01/1988
của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, hướng dẫn TAND các cấp áp dụng một
số quy định của luật Hơn nhân và gia đình 1986). Quy định này đã góp phần giải
quyết ổn thỏa một số mâu thuẫn gia đình, đảm bảo quyền lợi chính đáng về tài
sản của vợ, chồng. Tuy nhiên, hạn chế của Điều 18 Luật hơn nhân và gia đình
Việt Nam năm 1986 là chưa định rõ hậu quả pháp lí; các quyền và nghĩa vụ về
nhân thân và tài sản của vợ chồng được hiểu và áp dụng thế nào sau khi tòa án đã
chia tài sản chung của vợ chồng. Cũng có nhiều quan điểm cho rằng luật Hơn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 đã gián tiếp thừa nhận chế định ly thân
giữa vợ và chồng của chế độ cũ bằng việc cho phép chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kì hơn nhân quy định tại “Điều 29: Chia tài sản chung trong
thời kì hơn nhân
1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh
riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lí do chính đáng khác thì vợ

SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

10

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì


Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập
thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền u cầu Tịa án giải
quyết.
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa
vụ về tài sản không được pháp luật cơng nhận.”
Nhưng quan điểm này là hồn tồn sai lầm bởi bản chất của ly thân và
chia tài sản chung vợ chồng trong thời kì hơn nhân là hồn tồn khác nhau. Mặc
dù giữa ly thân và chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hơn nhân của
Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 có một số điểm giống nhau như:
quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng không chấm dứt, vợ chồng không được kết
hơn với người khác nhưng có điểm khác nhau cơ bản:
Thứ nhất: Về điều kiện áp dụng
Chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại chỉ có thể thực
hiện được trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa
vụ dân sự riêng, hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận
chia tài sản chung dưới hình thức văn bản, nếu khơng thỏa thuận được thì có
quyền u cầu Tịa án giải quyết cịn lí do ly thân chỉ dựa vào yếu tố lỗi để làm
căn cứ giải quyết vấn đề ly thân.
Thứ hai: về hậu quả pháp lí
Theo luật Điều 30 Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, vợ
chồng có quyền yêu cầu chia một phần hoặc toàn bộ khối tài sản chung. Chỉ
những phần đã chia thuộc tài sản riêng của vợ, chồng. Phần tài sản còn lại ko
chia vẫn thuộc tài sản chung của vợ chồng. Điều này cho thấy chế độ sở hữu
chung của vợ chồng khơng chấm dứt. Cịn vấn đề ly thân, theo Điều 168 Dân
luật Sài Gịn thì “cộng đồng tài sản chấm dứt vì án ly thân hay biệt sản”. Như

SV: Nguyễn Vũ Phương Dung


11

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

vậy, khi ly thân thì tài sản của vợ chồng được tách biệt hoàn toàn và thuộc sở
hữu riêng của mỗi người.
Thứ ba: Pháp luật dưới chế độ cũ coi ly thân như một bước quá độ trước
khi ly hôn. Khoảng thời gian ly thân chính là giải pháp để vợ chồng có thể hàn
gắn lại cuộc sống chung. Sau 3 năm có án ly thân, mỗi bên vợ chồng có thể xin
hốn cái ốn ấy thành ly hơn mà khơng cần phải xét đến lí do ly hơn nữa (Điều
99 Bộ Dân luật Sài Gịn. Như vậy, ly thân có thể là lý do để được ly hôn. Lý do
xin chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hơn nhân không phải là căn cứ
để vợ chồng thể được ly hơn. Khi có đơn xin ly hơn thì Tịa án căn cứ vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích hơn nhân khơng
đạt được… để giải quyết cho ly hôn hay không (Điều 89 Luật Hơn nhân và gia
đình Việt Nam).
Thứ tư: mục đích
Mục đích của ly thân là giải pháp tạm thời giải tỏa xung đột vợ chồng, tạo
cho vợ chồng có khoảng thời gian sống riêng cần thiết để cân nhắc kỹ lại mối
quan hệ của họ trước khi đi đến quyết định li hơn cịn chia tài sản chung trong
thời kì hôn nhân là nhằm ổn định quan hệ hôn nhân khi chưa cần thiết phải ly
hôn, đảm bảo quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ chồng, các thành viên trong
gia đình của người khác.
Như vậy, mặc dù có một số điểm giống nhau nhưng mục đích và bản chất
thì hồn tồn khác nhau. Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy

định khơng phải là gián tiếp quy định về ly thân.

III. Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam có cần thiết phải
quy định ly thân trong pháp luật hay không?
SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

12

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

3.1.Ý kiến tham khảo
Trong tạp chí Luật học số 6 năm 1997, TS. Nguyễn Văn Cừ nêu ý kiến về
việc có nên cho ly thân vào Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam hay khơng.
Ơng đã viết như sau:
“Ngay từ khi mới ra đời, những văn bản pháp luật đầu tiên mà Nhà nước
ta ban hành đã ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ (Điều 9 – Hiến pháp 1946),
xóa bỏ quyền “trừng giới” của người gia trưởng, công nhận và thực hiện quyền
bình đẳng giữa vợ chồng. Từ đó đến nay, sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã đạt
được những thành tựu vĩ đại trong xã hội ta. Trong quan hệ pháp luật giữa vợ và
chồng, vợ chồng có quyền ở chung hay ở riêng, “Chỗ ở của vợ chồng do vợ
chồng lựa chọn, không bị ràng buộc bởi phong tục tập qn” (Điều 13 Luật Hơn
nhân và gia đình năm 1986); “Nơi cư trú của vợ chồng là nơi vợ chồng sống
chung, vợ chồng có thể có nơi cư trú khác nhau, nếu có thỏa thuận”(Điều 51
BLDS của nước Cộng hịa XHCN Việt Nam).Vợ chồng trước tiên là cơng dân có
quyền lựa chọn chỗ ở. Vấn đề ở chung hay ở riêng là quyền của vợ, chồng bình

đẳng khơng bị lệ thuộc vào ý chí của nhau hay ý chí của người khác. Điều này
cịn phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh nghề nghiệp của từng cặp vợ chồng, có
thể vợ ở nơi này, chồng ở nơi khác, vợ chồng ở riêng hay ở chung là thuộc quyền
nhân thân của vợ chồng. cũng có vợ chồng ở chung nhưng giận hờn, mâu thuẫn
nhỏ mong muốn ở riêng thì vợ chồng lại phải yêu cầu tòa án cho họ được ly
thân, sau đó nếu tái hợp sống chung với nhau vợ chồng lại cần phải yêu cầu tòa
án hủy bỏ bản án ly thân

Như vậy theo chúng tôi không nhất thiết phải đưa ly thân vào Luật hôn nhân và
gia đình … ”.

SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

13

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

3.2.Ý kiến cá nhân
“Ly thân” mang nghĩa mỗi vợ chồng một nơi, tạm thời không cùng chung
sống trong một ngôi nhà nhưng họ chưa chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp
luật. Thực tế hiện nay nhiều cặp vợ chồng sống chung một ngơi nhà như các cặp
vợ chồng bình thường khác nhưng cũng trong tình trạng “ly thân”, khơng thực
hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của vợ chồng đối với nhau vì nhiều lý do khác
nhau (như vì con chung hay vì chức vụ của mình khơng muốn mọi người bàn
tán,…). Hơn nữa cũng có vợ chồng vì điều kiện hồn cảnh, nghề nghiệp mà

không thể cùng chung sống mà phải trong tình trạng “mỗi người một nơi”, mỗi
người có quyền bình đẳng và tự do cá nhân riêng khơng thể ép buộc họ cùng
chung sống được. Do có lí do nhất định nào đó nên họ khơng chọn giải pháp
chấm dứt hoàn toàn quan hệ vợ chồng trước pháp luật nên theo ý kiến cá nhân
em không nhất thiết phải đưa ly thân vào Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trong cuộc sống hôn nhân, thực trạng cịn nhiều vấn đề giữa hai vợ chồng
mà khơng nhất thiết luật pháp cần can thiệp. Nó mang ý muốn chung của cả hai
người và họ có thể tự thỏa thuận được với nhau. Ly thân là một trong số những

SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

14

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

vấn đề đó. Hơn nữa ly thân có thể giúp cho mâu thuẫn của cặp vợ chồng được
hòa giải. Theo thống kê tìm hiểu thì 70% các cặp vợ chồng hiện nay ly hơn rồi
lại có ý muốn tái hợp cùng người vợ, chồng cũ. Như vậy nếu hai vợ chồng tự
thỏa thuận lựa chọn giải pháp ly thân cũng là tự mở cho cuộc hơn nhân của mình
một lối thốt.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS Ngô Thị Hường. Tập bài giảng: Pháp luật hơn nhân và gia đình một

số nước trên thế giới.
2. TS Nguyễn Văn Cừ. Tạp chí luật học số 6 năm 1997

SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

15

Lớp:KT33B1- N01.


Bài Tập Lớn Học Kì

Mơn: Luật HN&GĐ Việt Nam.

3. Nhà pháp luật Việt – Pháp, Bộ Luật Dân sự của nước cộng hịa pháp,
Nxb Chính Trị Quốc Gia năm 1998
4. Bộ Luật Dân sự và thương mại Thái Lan, Nxb Chính Trị Quốc Gia năm
1995 (các quyển I – VI)
5. Một số trang internet có nội dung liên quan.

SV: Nguyễn Vũ Phương Dung

16

Lớp:KT33B1- N01.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×