Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Việc thực hiện pháp luật ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.28 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT............................................................................................................2
1.1. Một số khái niệm cơ bản về thực hiện pháp luật...........................2
1.1.1. Pháp luật......................................................................................2
1.1.2. Thực hiện pháp luật.....................................................................2
1.2. Những đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của pháp luật trong khoa học
pháp lý......................................................................................................2
1.2.1. Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện:.............2
1.2.2. Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự
mang tính bắt buộc chung:....................................................................3
1.2.3. Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức:.......................3
1.3. Các hình thức thực hiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu
quả của hoạt động thực hiện pháp luật.................................................4
1.3.1. Các hình thức thực hiện pháp luận..............................................4
1.3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp
luật.........................................................................................................6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỦA SINH
VIÊN HIỆN NAY........................................................................................7
2.1. Đánh giá chung thực tiễn việc thực hiện pháp luật ở nước ta
hiện nay....................................................................................................7
2.1.1. Một số thành tựu đạt được trong công tác thực hiện pháp luật ở
nước ta hiện nay....................................................................................7
i


2.1.2. Một số hạn chế tồn tại trong công tác thực hiện pháp luật ở nước
ta hiện nay.............................................................................................9
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật của sinh viên hiện nay.............10


2.2.1. Đánh giá chung thực trạng thực hiện pháp luật của sinh viên
hiện nay...............................................................................................10
2.2.2. Mặt tích cực trong cơng tác thực hiện pháp luật của sinh viên
hiện nay...............................................................................................12
2.2.3. Mặt hạn chế trong công tác thực hiện pháp luật của sinh viên
hiện nay...............................................................................................13
CHƯƠNG III: CÁC ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN ĐỂ TIẾP TỤC
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO Ý THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỦA SINH
VIÊN VIỆT NAM..................................................................................13
3.1. Các định hướng cơ bản để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp
luật..........................................................................................................13
3.1.1. Cần cụ hóa tư tưởng về việc hồn thiện hệ thống pháp luật trong
điều kiện tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 14
3.1.2. Cần đổi mới tư duy trong quá trình xây dựng pháp luật theo
hướng hệ thống pháp luật kiến tạo phát triển......................................15
3.1.3. Đổi mới quy trình xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu của xây
dựng Nhà nước pháp quyền kiến tạo phát triển..................................16
3.1.4. Hoàn thiện các yếu tố cấu thành hệ thống pháp luật tiếp cận từ
góc độ hiện đại....................................................................................17
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức thực hiện pháp luật của
Sinh viên Việt Nam................................................................................18

ii


3.2.1. Đổi mới, hồn thiện nội dung, chương trình, bổ sung tài liệu
giáo dục pháp luật cho sinh viên.........................................................18
3.2.2. Tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục pháp luật cho học sinh,
sinh viên..............................................................................................18

3.2.3. Đổi mới việc kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục.....................19
3.2.4. Phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong cơng tác giáo
dục pháp luật cho sinh viên.................................................................19
3.2.5. Tăng cường sự phối hợp giữa giảng viên bộ mơn, cố vấn học
tập, Phịng Cơng tác học sinh, sinh viên, Ban.....................................21
3.2.6. Phát huy vai trò tự giáo dục của sinh viên trong công tác giáo
dục pháp luật.......................................................................................21
KẾT LUẬN....................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................24

iii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật xuất hiện trong mọi mặt của đời sống và là công cụ quan
trọng để Nhà nước thực hiện việc tổ chức và quản lí xã hội. Thông qua pháp
luật, con người được sống và làm việc trong một mơi trường an tồn và có kỷ
luật. Vai trị của pháp luật có thể được xem xét ở nhiều góc độ, mức độ, nhiều
khía cạnh và nhiều chiều khác nhau. Bất cứ một quốc gia nào cũng cần ngày
càng hoàn thiện hệ thống pháp luật để nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ cơ
bản của con người cũng như sự phát triển của đất nước mình.
Giáo dục pháp luật cho sinh viên hiện nay là một hoạt động giáo dục cụ
thể, gắn với hoạt động giáo dục nói chung. Đây là hoạt động có định hướng,
có tổ chức và có chủ đích của Nhà trường thơng qua các hoạt động giáo dục
chính khóa và ngoại khóa, bằng các phương pháp giáo dục khác nhau. Hoạt
động này nhằm trang bị tri thức pháp luật cơ bản, định hướng, phát triển nhân
cách và tư cách công dân, nâng cao nhận thức, góp phần điều chỉnh hành vi,
hình thành thói quen tự giác chấp hành đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ
pháp luật và có tri thức pháp luật về chuyên môn nghiệp vụ, ngành nghề, lĩnh
vực được đào tạo.

Trong những năm qua, Các trường Đại học luôn chú trọng tới công tác
giáo dục pháp luật cho sinh viên , xem đó là nhiệm vụ quan trọng gắn bó chặt
chẽ với nhiệm vụ chủ yếu của chiến lược phát triển của nhà trường. Vì thế,
phần lớn Sinh viên nhà trường hiện nay có ý thức tơn trọng, chấp hành nội
quy, quy định của nhà trường, chấp hành tốt các quy định của pháp luật. Tuy
vậy, cũng có nhiều trường hợp còn thiếu hiểu biết pháp luật, ý thức chấp
hành pháp luật cịn hạn chế,… Do đó, tác giả đã thực hiện đề tài “ Việc thực
hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay” Với mục đích chỉ rõ thực trạng trên và
đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao ý thức pháp luật.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT
1.1. Một số khái niệm cơ bản về thực hiện pháp luật
1.1.1. Pháp luật
Pháp luật “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban
hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị
trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội để bảo vệ lợi ích, thực
hiện mục đích của giai cấp thống trị, đồng thời duy trì sự tồn tại, phát triển và
vì lợi ích của cả xã hội” (Bộ GD-ĐT, 2013, tr 77).
1.1.2. Thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không
hành động) được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật,
tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định.
Thực hiện pháp luật có thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến
hành bằng một thao tác nhất đính nhưng đó cũng có thể là một xử sự có tính
thụ động, tức là khơng tiến hành vượt xử sự bị pháp luật cấm.

1.2. Những đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của pháp luật trong khoa học
pháp lý
Những đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của pháp luật là công cụ điều chỉnh các
quan hệ xã hội, pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau đây:
1.2.1. Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện:
Pháp luật do Nhà nước ban hành thông qua rất nhiều những trình tự thủ
tục chặt chẽ và phức tạp với sự tham gia của rất nhiều các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, các tổ chức và các cá nhân nên pháp luật ln có tính khoa
học, chặt ché, chính xác trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
2


Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp,
trong đó các biện pháp cưỡng chế nhà nước rất nghiêm khắc như phạt tiền,
phạt tù có thời hạn, tù chung thân … Với sự bảo đảm của nhà nước đã làm
cho pháp luật luôn được các tổ chức và cá nhân tôn trọng và thực hiện nghiêm
chỉnh, có hiệu quả trong đời sống xã hội.
1.2.2. Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung:
Pháp luật gồm các quy tắc xử sự chung, được thể hiện trong những
hình thức xác định, có kết cấu loorrich rất chặt chẽ và được đặt ra không phải
xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà là sự khái quát hóa từ rất nhiều những
trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Điều này đã làm cho quy định pháp
luật có tính khái qt hóa cao, là những khn mẫu điển hình để các chủ thể
(tổ chức, cá nhân) thực hiện theo khi gặp phải những tình huống mà pháp luật
đã dự liệu.
Pháp luật mang tính băt buộc chung, các quy định pháp luật được dự
liệu không phải cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức
và cá nhân có liên quan. Xuất phát từ vị trí, vai trị của nhà nước trong xã hội
(tổ chức đại diện chính thức cho tồn xã hội), nên pháp luật là bắt buộc đối

với tất cả, việc thực hiện pháp luật
1.2.3. Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức:
Pháp luật ln được thể hiện dưới những hình thức phải nhất định, nói
cách khác, những quy định pháp luật phải được chứa đựng trong các nguồn
luật như tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật … Sự xác
định chặt chẽ về hình thức là điều kiện để phân biệt giữa pháp luật với những
quy định không phải là pháp luật, đồng thời, cũng tạo nên sự thống nhất, chặt
chẽ, rõ ràng, chính xác về nội dung của pháp luật.

3


1.3. Các hình thức thực hiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả
của hoạt động thực hiện pháp luật
1.3.1. Các hình thức thực hiện pháp luận
Hệ thống pháp luật rất đa dạng, bao gồm các loại quy phạm pháp luật
cho phép, bắt buộc, ngăn cấm, bởi vậy, cách thức thực hiện chúng cũng khác
nhau. Chủ thể thực hiện pháp luật cũng rất đa dạng, bao gồm các cơ quan nhà
nước, nhà chức trách có thẩm quyền cũng như mọi cá nhân, tổ chức trong xã
hội. Từ đó, khoa học pháp lí xác định có bốn hình thức thực hiện pháp luật đó
là:
Tuân theo pháp luật (tuân thủ pháp luật) là hình thức thực hiện pháp
luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành các hoạt động
mà pháp luật cấm.
Sự kiềm chế của các chủ thể pháp luật được hiểu là khi pháp luật quy
định cấm làm một điều gì đó thì họ khơng tiến hành hoạt động này mặc dù họ
có cơ hội để thực hiện một hành vi bị cấm. Ở hình thức này, hành vi của chủ
thể pháp luật được thể hiện dưới dạng không hành động. Chẳng hạn, sinh viên
không trao đổi bài trong khi làm bài kiểm tra.
Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật) là hình thức thực hiện pháp

luật, trong đó các chủ thể pháp luật tiến hành các hoạt động mà pháp luật
buộc phải làm.
Chủ thể pháp luật phải tiến hành các hoạt động bắt buộc là khi họ ở
trong điều kiện mà pháp luật quy định thì phải làm những việc mà nhà nước
yêu cầu, họ khơng thể viện lí do để từ chối. Sự địi hỏi của nhà nước đối với
các chủ thể là phải tích cực tiến hành những hoạt động nhất định. Ở hình thức
này, hành vi của chủ thể thi hành pháp luật được thể hiện dưới dạng hành
động. Chẳng hạn, một người bơi lội giỏi đã thực hiện hành vi cứu giúp người
gặp nạn, sắp bị chết đuối.
4


Sử dụng pháp luật (vận dụng pháp luật) là hình thức thực hiện pháp
luật, trong đó các chủ thể pháp luật tiến hành những hoạt động mà pháp luật
cho phép
Đây là hình thức chủ thể pháp luật thực hiện các quyền theo quy định
của pháp luật. Nhà nước tạo khả năng cho chủ thể pháp luật có thể được
hưởng những quyền nào đó và họ đã căn cứ vào mong muốn, điều kiện của
mình để thực hiện các quyền này. Chẳng hạn, một người làm di chúc để lại tài
sản của mình cho những người thừa kế.
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật của các cơ quan
nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc tổ chức xã hội được nhà nước
trao quyền. Đây là hình thức các chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định
giải quyết các vụ việc cụ thể xảy ra trong đời sống, nhằm xác định quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lí... cho các chủ thể cụ thể, trong những trường
hợp cụ thể.
Áp dụng pháp luật có một số đặc điểm sau đây cần phải chú ý:
+ Hình thức áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước, được thực hiện bằng quyền lực của Nhà nước.
+ Hình thức áp dụng pháp luật là hoạt động có thủ tục phức tạp và chặt

chẽ được pháp luật quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật liên quan.
+ Hình thức áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo.
+ Hình thức áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt cho từng
quan hệ xã hội nhất định.
Thực tế đối với việc phân chia thực hiện pháp luật thành bốn hình thức
thực hiện pháp luật nêu trên chỉ có tính chất tương đối, có ý nghĩa chính về
mặt lý luận bởi các hình thức thực hiện pháp luật nêu trên thường không tồn
tại một cách riêng lẻ, mà sẽ được tiến hành đồng thời, có những trường hợp
5


các hình thức này lại bao gồm cả hình thức khác khi các chủ thể thực thi
quyền, nghĩa vụ của mình trong từng mối quan hệ pháp luật.
1.3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp luật
Ngày nay, để đảm bảo hiệu quả đối với hoạt động thực hiện pháp luật ở
nước ta còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên ta cũng có
thể khái quát một số biện pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện pháp luật như
sau đó là:
– Trên các trang thơng tin điện tử chính thống của Bộ, các cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát, ủy ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,…cần thường xuyên đăng tải các thông tin
pháp luật.
– Các cơ quan có thẩm quyền cần có những buổi họp báo, thơng cáo
báo chí về các văn bản pháp luật mới được ban hành nhằm nêu rõ sự cần thiết,
mục đích ban hành và các nội dung cơ bản của văn bản quy phạm pháp luật.
– Một biện pháp cũng khá phổ biến được sử dụng để nâng cao hiệu quả
đối với hoạt động thực hiện pháp luật ở nước ta đó chính là kết hợp với việc
phổ biến, giáo dục, tuyên truyền pháp luật trên các phương tiện thông tin đại
chúng hay trực tiếp tại các địa phương hoặc trực tiếp thông qua công tác xét
xử, xử lý vi phạm hành chính hay hoạt động tiếp cơng dân, giải quyết khiếu

nại, tó cáo.
– Các cơ quan có thẩm quyền hay các cá nhân hiểu biết về pháp luật
cũng có thể tư vấn, hướng dẫn người dân tìm hiểu pháp luật, cung cấp các
thơng tin và tài liệu pháp luật miễn phí cho người dân cũng được khuyến
khích.

6


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỦA
SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1. Đánh giá chung thực tiễn việc thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay
2.1.1. Một số thành tựu đạt được trong công tác thực hiện pháp luật ở nước
ta hiện nay
Việt Nam đang trên con đường phát triển kinh tế xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, tạo những điều kiện thuận lợi nhất định đối với đời
sống vật chất, tinh thần của người dân cũng như các hoạt động thực hiện pháp
luật của họ.
Có thể nói rằng, thực tiễn thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay có
biểu hiện tương đối tốt. Thực hiện Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam,
chính sách của nhà nước, sự quan tâm chỉ đạo của các ban cấp lãnh đạo, công
tác tuyên truyền pháp luật của các cơ quan chức năng; tất cả những nhân tố đó
đã tạo cho người dân một cái nhìn tổng quan và chính xác nhất về pháp luật,
từ đó, người dân chấp hành, tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách tự giác,
chủ động và nghiêm chỉnh. Ví dụ như có nhiều vụ tham nhũng của các cán bộ
công chức nhà nước như tham nhũng về đất, tiền đóng góp của người dân. . .
đã bị người dân khiếu nại, tố cáo. Nhân dân ủng hộ nhiệt tình với các chủ
trương của chính phủ trong việc giải quyết dứt khốt, khơng tránh né dù đối
tượng có cương vị, trọng trách cao đến đâu, cũng có nghĩa rằng nhu cầu cơng
bằng xã hội được dư luận xã hội quan tâm, tán thành, ủng hộ. Không chỉ đem

lại quyền lợi cho người dân mà thể hiện tính dân chủ của nhà nước. Điều này
cũng cho thấy nhận thức về pháp luật của người dân đã được củng cố và nâng
cao.
Sự phát triển về kinh tế với những chính sách kinh tế thuận lợi; đường
lối chính trị đúng đắn, định hướng nhân cách con người; nét đẹp truyền thống
và những đổi mới theo hướng tích cực, lối sống văn hóa cùng với các hệ
thống pháp lý chặt chẽ đã tạo điều kiện cho người dân thực hiện pháp luật
7


một cách hiệu quả nhất. Nhìn chung, xã hội hiện nay tương đối ổn định, có
điều kiện phát triển kinh tế xã hội; để có được điều này là nhờ có hoạt động
thực hiện pháp luật của con người được đảm bảo, duy trì và giữ vững.
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực pháp luật ở Việt Nam hiện nay ngày
càng được chú trọng. Trong phạm vi cả nước, tính đến tháng 3/2021 có
khoảng 95 cơ sở đào tạo luật, trong đó có những cơ sở đào tạo uy tín được
Đảng, Nhà nước xác định mục tiêu xây dựng thành cơ sở đào tạo luật trọng
điểm cả nước như Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh;
xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư
pháp.
Hệ thống pháp luật của nước ta khơng ngừng hồn thiện và phát triển
cơ bản cân đối trên mọi lĩnh vực. Trước năm 2005, hệ thống pháp luật chủ
yếu được chú trọng xây dựng trong lĩnh vực kinh tế, nhưng đến nay, hầu hết
các lĩnh vực của đời sống xã hội đều có văn bản quy phạm pháp luật ở tầm
luật điều chỉnh, cơ bản thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn đường lối, chủ trương
của Đảng, khơng chỉ góp phần đáp ứng u cầu phát triển kinh tế - xã hội, mà
còn bảo đảm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tôn
trọng, bảo vệ quyền con người, chủ động hội nhập quốc tế của đất nước.
Chất lượng của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có nhiều chuyển
biến tích cực, cơ bản đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ. Các văn bản quy

phạm pháp luật đều được đánh giá về tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống
nhất, đồng bộ trước khi ban hành. Tính cơng khai, minh bạch của hệ thống
pháp luật từng bước được nâng lên. Công tác xây dựng pháp luật đã được đổi
mới. Quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có thay
đổi bảo đảm tính thống nhất cho cả Trung ương và địa phương, từng bước
nâng cao tính cơng khai, minh bạch trong xây dựng chính sách, pháp luật; vai
trò tham gia của xã hội vào quy trình xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà
nước được quy định cụ thể; pháp luật về hợp nhất, pháp điển văn bản quy
8


phạm pháp luật góp phần bảo đảm cho hệ thống văn bản pháp luật đơn giản,
rõ ràng, dễ tra cứu, tiếp cận, dễ sử dụng, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.
Bên cạnh việc coi trọng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, Việt
Nam vẫn tiếp tục thừa nhận nguồn tập quán pháp và tạo điều kiện cho loại
nguồn này phát triển để bổ trợ cho những khiếm khuyết của văn bản quy
phạm pháp luật. Ngoài ra, kể từ năm 2014, Việt Nam đã chính thức thừa nhận
án lệ là loại nguồn cơ bản của nước ta. Đây là những thành cơng đáng kể
trong q trình hồn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế.
2.1.2. Một số hạn chế tồn tại trong công tác thực hiện pháp luật ở nước ta
hiện nay
Bên cạnh những mặt tích cực trong thực tiễn hoạt động thực hiện pháp
luật ở nước ta hiện nay thì trong thực tế vẫn còn tồn đọng một số hạn chế, bất
cập trong quá trình thực hiện pháp luật. Mặc dù có sự chỉ đạo của các cơ quan
chức năng có thẩm quyền, đường lối chính trị đúng đắn của nhà nước, tuy
nhiên, trong xã hội vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ thực hiện pháp luật trái
với quy định nhà nước, có thể gọi là vi phạm pháp luật và tội phạm. Điều này
cho thấy ý thức pháp luật của những bộ phận này chưa cao, kém hiểu biết và
ảnh hưởng xấu tới sự ổn định và trật tự xã hội.

Chưa có thể chế pháp lý đầy đủ cho công tác tổ chức thi hành pháp
luật, cụ thể là chưa có luật về tổ chức thi hành pháp luật. Thực tế mới chỉ
dừng lại ở việc ban hành nghị định, thơng tư về theo dõi tình hình thi hành
pháp luật…
Cơng tác rà sốt, hệ thống hóa và pháp điển hóa chưa được triển khai
hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật chưa
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cụ thể, đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm
công tác xây dựng pháp luật tại các bộ, ngành và địa phương còn thiếu ổn
9


định; những người làm ở các đơn vị khác thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ
quan chuyên môn cấp tỉnh chủ yếu các chuyên ngành khác, ngành luật chỉ
chiếm 27% tổng số cán bộ, công chức tham gia xây dựng chính sách, soạn
thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật ở các bộ, cơ quan ngang bộ và
15% ở các cơ quan chuyên môn thuộc của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong xây dựng và tổ
chức thi hành pháp luật chưa đồng bộ, có lúc cịn phân tán, có nơi cịn cục bộ.
Cơ chế để nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật
và giám sát thi hành pháp luật chưa được phát huy.
Nguồn nhân lực đặc biệt trong công tác xây dựng pháp luật và tổ chức
thi hành pháp luật của nước ta còn “mỏng”; số cán bộ được đào tạo bàn bản
các hoạt động nghiệp vụ vể xây dựng, tổ chức thực hiện, bảo vệ pháp luật
nhìn chung cịn thiếu; vấn đề đào tạo nguồn nhân lực pháp luật còn chưa thực
sự được chú trọng, đặc biệt là phẩm chất chính trị và năng lực thực tiễn; thậm
chí ý thức của người dân về vấn đề sử dụng pháp luật còn hạn chế… Tất cả
những hạn chế đó đều gây những khó khăn, cản trở nhất định cho q trình
hồn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng lối sống theo pháp luật, tinh thần
thượng tôn pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật của sinh viên hiện nay

2.2.1. Đánh giá chung thực trạng thực hiện pháp luật của sinh viên hiện nay
Trong q trình đào tạo, các trường Đại học ln qn triệt, lồng ghép
tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng chính sách pháp luật của
nhà nước và đặc biệt bổ sung kiến thức pháp luật cho người học. Tuân thủ các
quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Bộ Công Thương về việc tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho sinh
viên trong các cơ sở giáo dục đào tạo. Nhà trường đưa vào chương trình đào
tạo nhiều học phần như: Pháp luật Đại cương, Luật Kinh tế, Luật Lao động,
10


Luật Dân sự, Luật Sở hữu Trí tuệ, Luật Du lịch…cho sinh viên toàn trường
nhằm giúp các em được hiểu hơn về lĩnh vực mình làm việc khi ra trường.
Những năm qua, ý thức pháp luật của sinh viên đã được nâng cao, số
sinh viên vi phạm pháp luật giảm, khơng có những vi phạm pháp luật nghiêm
trọng. Theo thống kê của Phịng Cơng tác Học sinh sinh viên số sinh viên vi
phạm pháp luật phải xử lý buộc thôi học chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong số sinh viên
toàn trường. Mặc dù sinh viên đã được nâng cao về hiểu biết pháp luật và
thực hiện pháp luật, song vẫn cịn có nội dung sinh viên chưa nắm chắc, chưa
hiểu sâu, hiểu khơng đầy đủ và hạn hẹp. Vẫn cịn hiện tượng sinh viên vi
phạm kỷ luật của nhà trường và vi phạm pháp luật ngoài xã hội như: Vi phạm
luật giao thông, học hộ thi hộ, trộm cắp vặt,…Điều đó cho thấy ý thức pháp
luật và kiến thức pháp luật của một bộ phận sinh viên còn thấp, phần nào ảnh
hưởng đến chất lượng đào tạo, văn hóa học đường và nhân cách, đạo đức,
tương lai.
Chương trình giáo dục pháp luật chính khóa hiện nay, có học phần
pháp luật đại cương hoặc các học phần liên quan đến pháp luật. Bên cạnh việc
triển khai giảng dạy các kiến thức pháp luật đại cương, một số trường đại học
đã đưa các nội dung pháp luật chuyên ngành vào chương trình đào tạo, nhằm
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn ngành nghề như Luật Kinh tế, Luật Xây

dựng… Cùng với quá trình đổi mới giáo dục đại học, thì hình thức, phương
pháp giáo dục pháp luật trong chương trình giáo dục chính khóa tại các
trường đại học trong thời gian qua đã có những thay đổi theo hướng đa dạng
hóa và chuyển dần từ truyền thụ một chiều sang phát huy tính tích cực của
sinh viên. Nhiều giảng viên đã đưa ra những tình huống cụ thể và sáng tạo
những phương pháp mới nhằm tăng cường tính tích cực, sáng tạo của sinh
viên trong học tập, tạo hứng thú và nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật.
Tuy nhiên nội dung giảng dạy chưa kết hợp hài hòa giữa trang bị kiến
thức pháp luật với việc hình thành kỹ năng, hành vi và thói quen pháp luật
11


cũng như kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi của sinh viên. Đặc biệt,
còn thiếu phương thức hướng dẫn sinh viên rèn luyện, tu dưỡng nhân cách
theo những chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Mặc dù, trong thời gian qua
phương pháp giảng dạy pháp luật trong các trường đại học đã có những thay
đổi, tuy nhiên, phương pháp giảng dạy tương tác hai chiều kiểu thảo luận,
tranh luận nêu các tình huống pháp luật thực tế cịn ít được vận dụng, chủ yếu
vẫn là phương pháp thuyết trình, truyền thụ một chiều, thụ động. Một số
giảng viên chưa tính đến các quy luật nhận thức và điều kiện phát triển của
sinh viên trong hoạt động giáo dục, thiếu sự quan tâm đến đặc điểm tâm sinh
lý của các em, nên chưa chú trọng đến giáo dục những chuẩn mực cần thiết và
những kỹ năng quan trọng trong đời sống xã hội.
2.2.2. Mặt tích cực trong cơng tác thực hiện pháp luật của sinh viên hiện nay
Một là, công tác giáo dục pháp luật thời gian qua nhận được sự quan
tâm sâu sát của Sở GD-ĐT, của các cấp ủy Đảng, Ban Giám hiệu nhà trường.
Nhà trường cũng tăng cường cơng tác quản lí sinh viên, chú trọng cơng tác
phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội để nâng cao chất lượng quản lí,
giáo dục pháp luật cho các em. Nhà trường đã có nhiều chủ trương, chính
sách, chế độ ưu tiên, ưu đãi cho người đi học nhằm khuyến khích tinh thần

học tập, rèn luyện của sinh viên như: chính sách miễn, giảm học phí, chính
sách cho vay tiền học tập với lãi suất thấp, học bổng khuyến khích học tập,
…, qua đó giúp các em yên tâm, cố gắng phấn đấu, tu dưỡng, học tập và rèn
luyện tốt hơn
Hai là, chất lượng đội ngũ giảng viên làm công tác giáo dục pháp luật
cho sinh viên ngày càng được nâng cao. Hiện nay, các giảng viên đều có học
vị tiến sĩ, thạc sĩ và có kinh nghiệm giảng dạy môn pháp luật nhiều năm. Các
thầy cô nhận thức rất rõ vai trò và ý nghĩa to lớn của nhiệm vụ này; luôn tâm
huyết, yêu nghề, nhiệt tình, tận tụy với cơng việc và là những tấm gương
sáng trong việc thực hiện, tuân thủ pháp luật. Ba là, đa phần sinh viên khi vào
12


học tại trường đều đã ý thức được về ngành học và sự định hướng tương lai
cho mình sau khi ra trường. Các em xác định rõ động cơ, mục đích học tập
của mình và chăm chỉ, say mê học tập và rèn luyện. Các em cũng biết sống
có trách nhiệm đối với gia đình và bạn bè. Điều này cũng là những yếu tố tác
động tích cực trong cơng tác giáo dục ý thức pháp luật và chấp hành pháp
luật cho sinh viên trong trường.
2.2.3. Mặt hạn chế trong công tác thực hiện pháp luật của sinh viên hiện nay
Một là, đơi lúc nhà trường cịn thiếu sự phối hợp, đồng bộ, xuyên suốt
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai và thực hiện nhiệm vụ giáo dục
pháp luật cho sinh viên. Hơn nữa, có một số ngành nghề được đào tạo tại
trường chưa theo kịp đòi hỏi của thị trường lao động trong khu vực. Công tác
liên hệ việc làm cho sinh viên sau khi ra trường chưa thường xuyên nên
nhiều em khi ra trường còn làm trái ngành hoặc chưa xin được việc làm.
Chính điều này cũng làm ảnh hưởng tới tâm lí của sinh viên, làm cho các em
nhiều lúc cảm thấy không hứng thú với ngành mình đang theo học. Hai là,
một số sinh viên ý thức tổ chức kỉ luật chưa cao, bố trí thời gian khơng hợp lí,
nhiều lúc cịn ỷ lại thầy cô, bạn bè, làm ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập và

rèn luyện của bản thân. Các em cịn thiếu ý chí quyết tâm, thiếu tính chủ
động, sáng tạo trong học tập và rèn luyện, còn lười biếng, cịn có tư tưởng học
đối phó, gian lận trong thi cử, đi muộn, bỏ giờ, vi phạm về đầu tóc, trang
phục, vi phạm luật giao thông,… Một số sinh viên khác cịn có biểu hiện ăn
chơi, đua địi, tiêm nhiễm những thơng tin sai lệch, các loại văn hóa thiếu
lành mạnh, làm lãng phí tiền bạc của gia đình. Những nguyên nhân này đã và
đang hàng ngày, hàng giờ tác động, ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả của công
tác giáo dục pháp luật cho sinh viên trong trường.

13


CHƯƠNG III: CÁC ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN ĐỂ TIẾP TỤC HOÀN
THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
Ý THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM
3.1. Các định hướng cơ bản để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật Việt Nam kể từ thời điểm đổi mới đất nước năm
1986 đến nay đã phát triển không ngừng và liên tục được hoàn thiện. Với mục
tiêu xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện đại, một nước Việt
Nam hùng cường, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh, hệ thống pháp luật cho tương lai cần phải được xây dựng thành một hệ
thống pháp luật có đặc trưng chủ đạo là hội nhập và kiến tạo phát triển. Để
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật mang những đặc trưng to lớn nêu
trên, cần phải:
3.1.1. Cần cụ hóa tư tưởng về việc hồn thiện hệ thống pháp luật trong điều
kiện tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việc ban hành “Chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật giai đoạn
2025 - 2035, tầm nhìn đến 2045” có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật trong công cuộc xây dựng Nhà nước
pháp quyền giai đoạn mới. Muốn xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền,

trong đó đặc trưng cơ bản là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và kiến
tạo phát triển bằng pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân thì
phải lấy pháp luật làm trung tâm; nhiệm vụ xây dựng và hồn thiện thể chế
phải ln luôn được đặt lên hàng đầu. Trong bối cảnh thế giới có rất nhiều
biến động, đặc biệt là tác động vô cùng to lớn của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư mà tại thời điểm hiện nay chúng ta chưa thể lường hết được
thì khó có thể trong một vài năm có thể xây dựng được một Chiến lược có
tầm nhìn dài hạn như nêu trên.
Do vậy, Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết
49-NQ/TW nên cân nhắc trình Bộ Chính trị ban hành Kết luận về việc tiếp tục
14


thực hiện có bổ sung các quan điểm, định hướng về hoàn thiện hệ thống pháp
luật và cải cách tư pháp của Nghị quyết 48-NQ/TW và Nghị quyết
49-NQ/TW cho giai đoạn 2021 - 2025; đồng thời, cần nghiên cứu, xây dựng
“Chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn 2025 - 2035,
tầm nhìn 2045”… trình Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XIII ban hành.
Mặt khác, nội hàm của Chiến lược này cần bao gồm cả nội dung tổ chức thi
hành pháp luật và cả cải cách tư pháp[12]. Nghị quyết mới ban hành có thể
xây dựng trên cơ sở kế thừa cấu trúc của Nghị quyết 48-NQ/TW, Nghị quyết
49-NQ/TW nhưng phát triển trên tinh thần khắc phục những điểm hạn chế
của hai nghị quyết nêu trên, tiếp tục thực hiện các vấn đề mà hai nghị quyết
trên đã nêu nhưng chưa triển khai hoặc triển khai chưa hiệu quả và triệt để.
Chẳng hạn, vấn đề về tổ chức thi hành pháp luật đã nêu trong Nghị quyết 48NQ/TW về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhưng thực tiễn tổ
chức thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW cho thấy, mảng tổ chức thi hành pháp
luật còn bị coi nhẹ, chưa có những giải pháp thực sự đột phá trong tổ chức
thực thi, hiệu quả còn rất thấp. Chiến lược về vấn đề này cho giai đoạn tới cần
đưa ra những giải pháp và công cụ thực tế hơn, đem lại hiệu quả rõ ràng hơn
trong tổ chức thi hành pháp luật.

3.1.2. Cần đổi mới tư duy trong quá trình xây dựng pháp luật theo hướng hệ
thống pháp luật kiến tạo phát triển
Nhà nước kiến tạo phát triển là Nhà nước pháp quyền, quản trị đất nước
bằng pháp luật, bảo đảm các quyền con người và quyền cơng dân, ít can thiệp
hành chính vào đời sống xã hội. Nói cách khác, muốn xây dựng một nhà nước
kiến tạo phát triển thì việc trước nhất và cơ bản nhất mà Nhà nước cần làm là
phải xây dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu
phát triển của hiện tại cũng như phải phù hợp với xu thế phát triển của tương
lai. Hệ thống pháp luật đó cần phải được xây dựng và hoàn thiện bằng một tư

15


duy mới đó là làm luật vì mục tiêu tạo dựng cho phát triển chứ không phải là
để quản lý, giám sát theo nghĩa cai trị.
Nói đúng hơn, làm luật không phải chỉ để quản lý, để bảo đảm an toàn
xã hội một cách thuần túy và cứng nhắc mà phải hướng đến việc tạo dựng một
môi trường, một hành lang pháp lý an toàn, thuận lợi cho sự phát triển của xã
hội. Với chủ trương xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển như nêu trên thì
mục tiêu kiến tạo phát triển của pháp luật cũng phải được nhận thức là mục
tiêu chủ yếu. Từ đó, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy pháp luật theo quan
điểm: Pháp luật khơng chỉ thiết lập sự an tồn cho quản lý mà điều quan trọng
hơn là kiến tạo một môi trường, một hành lang thuận lợi, dẫn dắt và thúc đẩy
phát triển. Mục tiêu cuối cùng của quản lý nhà nước phải là phục vụ nhân dân
và kiến tạo phát triển, không phải chỉ đơn thuần là sự an tồn cứng nhắc của
xã hội.
3.1.3. Đổi mới quy trình xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu của xây dựng
Nhà nước pháp quyền kiến tạo phát triển
Nhà nước pháp quyền kiến tạo phát triển, liêm chính thì cũng cần có
một hệ thống pháp luật được ban hành theo hướng bảo đảm tính khách quan,

hiệu quả; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho mọi người dân trong xã hội.
Muốn làm được điều đó, thiết nghĩ quy trình xây dựng luật cần phải có sự đổi
mới theo hướng linh hoạt hơn, đáp ứng nhu cầu của xã hội nhiều hơn.
Chẳng hạn, Điều 73 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy
định rõ Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại một
hoặc hai kỳ họp Quốc hội; trường hợp dự án luật lớn, nhiều điều, khoản có
tính chất phức tạp thì Quốc hội có thể xem xét, thơng qua tại ba kỳ họp. Tuy
nhiên, trên thực tế thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngay từ khi ban hành nghị
quyết về triển khai nghị quyết của Quốc hội về chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh hằng năm đều xác định trước là hầu hết các dự án luật đều được
trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại hai kỳ họp. Cũng từ đó sinh ra quy
16


trình cắt khúc thành hai giai đoạn trong quá trình soạn thảo và trình dự án
luật. Và như vậy, nhiều nhà khoa học cho rằng “… một dự án luật có thể được
xem xét, thơng qua ngay trong một kỳ họp của Quốc hội hay hai kỳ, thậm chí
ba kỳ là quyền của Quốc hội, không nên được xắp đặt ngay từ khi lập chương
trình như hiện nay. Tất cả là ở chất lượng dự án luật và yêu cầu của thực tiễn,
và hãy để điều đó cho Quốc hội xem xét, quyết định”.
3.1.4. Hoàn thiện các yếu tố cấu thành hệ thống pháp luật tiếp cận từ góc độ
hiện đại
Nâng cao hiệu quả sử dụng hệ thống nguồn pháp luật ở Việt Nam hiện
nay đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền kiểu mới - kiến tạo phát triển.
Theo đó, cần có sự đa dạng hóa, mở rộng các loại nguồn pháp luật hiện nay.
Không chỉ dừng ở việc coi trọng, thừa nhận, sử dụng rộng rãi hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật mà cần nghiên cứu việc áp dụng nguồn án lệ vào
thực tiễn Việt Nam; nghiên cứu thừa nhận và sử dụng các nguồn khác như lẽ
phải, sự công bằng, hoặc các tập quán quốc tế… trong một số trường hợp cần
thiết.

Tiếp tục có những giải pháp cụ thể bảo đảm việc xây dựng hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật có sự hồn thiện về chất lượng, kỹ thuật lập
pháp, tính ổn định, đồng bộ, khả thi… đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan
hệ xã hội trong giai đoạn mới, chẳng hạn, tăng cường cơng tác rà sốt, hệ
thống hóa mà đặc biệt là pháp điển hóa nhằm mục đích “làm sạch”, loại bỏ
những “hạt sạn” trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo điều kiện
thuận tiện nhất cho quá trình áp dụng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền
cũng như hoạt động thực hiện pháp luật của mọi người dân trong xã hội.
Hoàn thiện hệ thống thể chế, thiết chế về tổ chức thi hành pháp luật ở
Việt Nam hiện nay bằng việc ban hành luật và các văn bản quy phạm pháp
luật khác điều chỉnh phù hợp. Chú trọng công tác tổ chức thi hành pháp luật
và mối quan hệ giữa tổ chức thi hành pháp luật với xây dựng, hoàn thiện hệ
17



×