Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phạm luật hình sự về tội trộm cắp tài sản và thực tiễn tại địa bàn huyện điện bàn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.46 KB, 21 trang )

bìa


MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CẤU
THÀNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN...........................................2
1.1. Khái niệm trộm cắp tài sản.............................................................2
1.2. Cấu thành tội và khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản...2
1.2.1. Cấu thành tội...............................................................................2
1.2.1. Khung hình phạt đối với trộm cắp tài sản...................................3
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC TIỄN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT ĐỂ XỬ LÝ TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM................................................................4
2.1. Thực trạng phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
...................................................................................................................4
2.2. Nguyên nhân của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam...........................................................................................................6
2.2.1. Nguyên nhân về kinh tế-xã hội:..................................................6
2.2.2. Nguyên nhân về văn hóa, giáo dục:............................................6
2.2.3. Ngun nhân từ phía gia đình:....................................................7
2.2.4. Từ phía nhà trường:.....................................................................8
2.2.5. Từ phía xã hội:............................................................................9
2.2.6. Nguyên nhân về chính pháp luật:................................................9
2.2.7. Nguyên nhân về phía cơ quan bảo vệ pháp luật........................10

i


CHƯƠNG III: Có thể rút ra những vướng mắc, khó khăn gì trong


hoạt động định tội danh, từ đó đưa ra kiến nghị hồn thiện luật hình
sự Việt Nam về tội phạm trộm cắp tài sản..............................................12
3.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài
sản...........................................................................................................12
3.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm
cắp tài sản...............................................................................................13
3.3. Nâng cao năng lực của các chủ thể áp dụng pháp luật về tội
trộm cắp tài sản.....................................................................................14
KẾT LUẬN....................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................16

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Việt Nam, với mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là
một trong những yếu tố hàng đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.
Phương châm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã làm cho quan hệ
pháp luật về kinh tế, dân sự, hình sự…. ngày càng đa dạng, phong phú. Kinh
tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, bên cạnh sự phát triển đó, nền
kinh tế thị trưởng đã làm nảy sinh những mặt trái, đó là sự tha hóa, biến chất
về đạo đức và nhân phẩm của một số bộ phận con người, làm phát sinh tệ nan
xã hội, dẫn đến tình hình chính trị, an ninh và trật tự xã hội đi theo khuynh
hướng xấu.
Tội phạm ngày một gia tăng, tính chất, mức độ hành vi phạm tội ngày
càng nguy hiểm, tinh vi hơn, trong dó có các loại tội phạm như: tội cướp giật
tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lợi dụng sự tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,
trôm cắp tài sản,… xảy ra phức tạp dưới nhiều hình thức. Nó xâm phạm trực
tiếp đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo hộ, đó là quyền sở hữu của

con người, sở hữu của nhà nước đã được ghi nhận tại Hiến Pháp. Đây là một
quyền cơ bản gắn liền với lợi ích cá nhân của mỗi con người, có đảm bảo
được quyền này thì mới khích lệ, động viên mọi người vận dụng hết khả năng
của mình để cống hiến cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Nhận thấy được vai trò và tầm quan trọng của đề tài trong thực tiễn, với
những kiến thức đã tích lũy được trong q trình học tập tại nhà trường và
những kiến thức thực tế ngoài xã hội, tác giả đã chọn đề tài “ Pháp luật hình
sự về tội trộm cắp tài sản và thực tiễn tại địa bàn huyện điện bàn tỉnh
Quảng Nam” để có cái nhìn sâu và rộng hơn về vấn đề.

1


2


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CẤU
THÀNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm trộm cắp tài sản
Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của người khác với mục
đích chiếm đoạt. Đặc điểm nổi bật của tội trộm cắp tài sản so với các tội xâm
phạm quyền sở hữu khác là người phạm tội có hành vi lén lút, bí mật di
chuyển bất hợp pháp tài sản của người khác nhằm mục đích chiếm đoạt tài
sản này. “Lén lút” được xem là đặc điểm mang tính riêng biệt của tội trộm
cắp tài sản.
1.2. Cấu thành tội và khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản
1.2.1. Cấu thành tội
Xét về mặt nguyên tắc thì những tài sản thuộc đối tượng của tội trộm
cắp tài sản phải là vật có thực, có giá trị và đang ở trong sự chiếm hữu, quản

lý của người khác. Tài sản này thơng thường là những vật có thể dễ dàng di
chuyển, lén lút lấy cắp như tiền, vàng, giấy tờ có giá,… Và hiển nhiên những
loại tài sản như bất động sản khơng thể di dời như cơng trình kiên cố, đất đai
thì khơng thể là đối tượng của tội phạm này.
Quan hệ sở hữu được xác lập giữa chủ tài sản, người khác có nghĩa vụ
tơn trọng quyền của chủ sở hữu tài sản. Hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở
hữu này phải kể đến là xâm hại đến quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản.
Động cơ phạm tội là vì vụ lợi, với mục đích là chiếm đoạt tài sản của người
khác.
Người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định bị
truy cứu trách nhiệm khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Người có năng
lực trách nhiệm hình sự được hiểu là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội có khả năng nhận thức tính nguy hiểm của hành vi này và tự điều
3


khiển hành vi của bản thân. Căn cứ Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 người
từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm mọi tội phạm. Người từ đủ 14 đến
dưới 16 tuổi phạm tội trộm cắp tài sản chịu trách nhiệm hình sự đối với hành
vi phạm tội tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 173 tội trộm cắp tài sản.
Tội trộm cắp tài sản là tội có cấu thành tội phạm vật chất nên dầu hiệu
hậu quả nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
Do đó, khi định tội cần phải chứng minh hậu quả gây thiệt hại cho quan hệ sở
hữu là kết quả của hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác.
1.2.1. Khung hình phạt đối với trộm cắp tài sản
Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 thì tài sản có giá trị
từ 2 triệu đồng trở lên, nếu dưới 2 triệu thì phải kèm theo 1 trong 4 dấu hiệu
là: đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh; tài sản là vật kiếm sống chính của chủ sở hữu; tài sản là di
vật cổ vật.

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000
đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà
còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các
điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa
án tích mà cịn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ;
4


đ) Tài sản là di vật, cổ vật.”
Đối với trường hợp có hành vi trộm cắp tài sản giá trị dưới 2 triệu đồng
và không thuộc dấu hiệu tại điểm a, b, c, d, đ nêu trên thì khơng bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Thay vào đó sẽ bị xử phạt hành chính theo Điều 15 Nghị
định 167/2013/NĐ-CP quy định về mức xử phạt hành chính đối với hành vi
trộm cắp tài sản.
Hình phạt chính của tội trộm cắp tài sản là cải tạo không giam giữ hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc
nghiêm trọng. Điều 173 quy định mức hình phạt tù đối với trường hợp phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng tại khoản 4 là từ 12 năm đến 20 năm tù. Ngồi ra,
hình phạt bổ sung kèm theo có thể là phạt tiền.

CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC TIỄN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT ĐỂ XỬ LÝ TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Thực trạng phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Phịng ngừa tình hình tội phạm là q trình sử dụng tổng hợp các biện
pháp để ngăn chặn khơng cho tội phạm phát sinh, phát triển nhằm xố bỏ các
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, không để tội phạm xảy ra gây hậu quả
thiệt hại cho con người và cho xã hội.
Đối với tội phạm trộm cắp tài sản được xác định là một bộ phận trong
cơ cấu tội phạm nói chung. Vì vậy, cơng tác phịng ngừa loại tội phạm này
không thể tách rời công tác phịng ngừa tội phạm nói chung. Việc phịng ngừa
tội phạm trộm cắp tài sản có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc, đồng thời giữ
vai trò quan trọng đối với công tác bảo vệ an ninh trật tự.
Theo thống kê của các cơ quan chức năng, tình hình tội trộm cắp tài sản
trong những năm gần đây chiếm tỷ lệ rất cao (30%) trong tổng số tội phạm
5


hình sự xảy ra trên tồn quốc. Tỉnh Quảng Nam đứng thứ 7 cả nước về số vụ
phạm tội hình sự và riêng tội trộm cắp tài sản chiếm 3,4% trong tổng số tội
trộm cắp cả nước trong 5 năm qua. Vì vậy, nếu làm tốt cơng tác phịng ngừa
sẽ góp phần quan trọng làm giảm tình hình tội phạm nói chung và tình hình
tội trộm cắp tài sản nói riêng là đòi hỏi tất yếu và phải được sự quan tâm của
toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp, các đoàn thể quần chúng, tổ
chức xã hội. Đồng thời là nhiệm vụ của mỗi công dân trong công tác phòng
ngừa tội phạm, để thực hiện mục tiêu từng bước hạn chế hoặc xoá bỏ những
nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời
sống xã hội.
Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam đã có Chỉ thị số về thực hiện
Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm trên địa bàn Tỉnh, Giám đốc
Cơng an tỉnh Quảng Nam đã có quyết định về việc thành lập Ban chủ nhiệm
các đề án thực hiện chương trình quốc gia phịng chống tội phạm. về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết và chương trình quốc gia phòng chống tội phạm đến

năm 2025.
Tỉnh Ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quán triệt những văn
bản này đến tồn thể chính quyền, đồn thể, các tổ chức ban ngành và người
dân tham gia thực hiện tốt việc tăng cường trách nhiệm của các cơ quan trong
cơng tác phịng ngừa tội phạm, bên cạnh đó phát động quần chúng nhân dân
xây dựng phong trào toàn dân phòng ngừa, phát hiện, tố giác đấu tranh chống
tội phạm và các tệ nạn xã hội; xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp ngăn
ngừa tội phạm trong gia đình, nhà trường và xã hội. Gắn việc thực hiện các kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội với đấu tranh phịng, chống tội phạm bảo
đảm an tồn trật tự xã hội, nâng cao chất lượng hiệu quả đối với công tác phát
hiện, điều tra, xét xử tội phạm. Thực hiện tốt việc tuyên truyền giáo dục pháp
luật cho công dân đảm bảo an ninh trật tự. Ủy ban nhân dân tỉnh cũng đã phân
công nhiệm vụ cho các chủ thể có trách nhiệm trong cơng tác phịng ngừa tình
6


hình tội phạm nói chung trong đó có tình hình tội trộm cắp tài sản. Ngoài các
cơ quan trực tiếp đấu tranh phịng ngừa tội phạm thì các tổ chức xã hội, tổ
chức chính trị-xã hội, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên,
Sở Giáo dục đào tạo, Sở Văn hóa thơng tin… tham gia phụ trách công tác
tuyên truyền, vận động sâu rộng trong quần chúng các chương trình phịng
ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, đẩy mạnh phong trào toàn dân
tham gia phát hiện tố giác tội phạm, cảm hóa giáo dục người phạm tội tại gia
đình và cộng đồng dân cư, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong tham
gia đấu tranh phòng, chống tội phạm; Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
có trách nhiệm theo dõi tham mưu về chương trình giải quyết việc làm cho
đối tượng là phạm nhân, đối tượng thuộc trường Giáo dưỡng và cơ sở giáo
dục hết hạn về địa phương…Hội Cựu chiến binh tham mưu về công tác tuyên
truyền giáo dục trong hệ thống tổ chức của Hội từ tỉnh đến cơ sở xã, phường,
thị trấn, phát động phong trào thi đua ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo

hiền.
2.2. Nguyên nhân của tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Nguyên nhân về kinh tế-xã hội:
Bước vào giai đoạn hội nhập và phát triển đất nước, đất nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế xã hội để
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Kéo theo hệ lụy của sự
phát triền đó là những tiềm ẩn mà nền kinh tế thị trường tạo ra đó là sự phân
hóa giàu nghèo, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống….Chính điều đó đã dẫn
đến mâu thuẫn về lợi ích kinh tế,mâu thuẫn xã hộ tăng cao giữa các tầng lớp
dân cư. Đây chính là nguyên nhân cơ bản đẫn đến hành vi phạm tội nói chung
và hành vi trộm cắp tài sản nói riêng.
2.2.2. Nguyên nhân về văn hóa, giáo dục:
Do ảnh hưởng của cơ chế thị trường, khát vọng làm giàu bằng mọi cách
cũng tác động đến tâm lý của con người, kể cả những việc trái với pháp luật,
7


trái với phong tục, tập quán, đạo đức của dân tộc. Như vậy, mặt trái của cơ
chế thị trường chính là ở chỗ nó khơng chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến lĩnh vục
kinh tế - xã hội mà còn đe dọa đến nền văn hóa của đất nước. Đó là sự xuống
cấp nghiêm trọng về đạo đức ảnh hưởng đến tâm lý và suy nghĩ của quần
chúng đặc biệt là lớp trẻ ngày nay.
Bên cạnh sự xuống cấp về đạo đức,văn hóa thì vấn đề về giáo dục cũng
cần phải chú trọng và quan tâm. Quản lý và giáo dục của gia đình nhà trường
và xã hội cung ảnh hưởng đến nhận thức và cách hành xử của thế hệ trẻ.
Nhưng đồng thời những thiếu sót và sai lầm trong việc giáo dục con cái, học
sinh, sinh viên cũng là những nguyên nhân làm gia tăng tội phạm nói chung
và tội trộm cắp tài sản nói riêng.
Với tình hình internet, sách báo, có nội dung kích động,văn hóa phẩm
độc hại tràn lan như hiện nay nếu không biết cách tiếp thu một cách chọn lọc

thì nó là ngun nhân ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống, đạo đức của nhân dân
mà đặc biệt là thế hệ trẻ của đất nước.
2.2.3. Ngun nhân từ phía gia đình:
Gia đình là tế bào của xã hội là cái gốc của mỗi người. Đây là nguyên
nhân đầu tiên và chủ yếu, bởi môi trường sống trong gia đình có tác động đầu
tiên và ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển của trẻ em.Vai trị của gia
đình trong việc giáo dục, quản lý trẻ em đặc biệt là vai trò của cha mẹ là hết
sức quan trọng. Quản lý và giáo dục của gia đình là một quá trình liên tục và
lâu dài từ khi đứa trẻ đó sinh ra cho đến khi trưởng thành đủ khả năng về nhận
thức hành vi của mình. Gia đình là cái nơi ni dưỡng tâm hồn, giáo dục con
cái có lối sống đạo đức, trong sáng ,lành mạnh,có ích cho xã hội. Ngược lại,
mơi trường giáo dục trong gia đình khơng tốt sẽ là ngun nhân dẫn con cái
đến con đường tệ nạn, suy thoái đạo đức, vi phạm pháp luật. Những thiếu sót
từ phía gia đình có thể là do:
8


+ Là sự lựa chọn phương pháp quản lý, giáo dục của cha mẹ không đúng,
như: thảo mãn và đáp ứng yêu cầu vật chất của con cái khi yêu cầu đó là
khơng chính đáng, khơng phù hợp với lứa tuổi hoặc điều kiện gia đình khơng
cho phép. Sự nng chiều thái quá, không bắt lao động, coi nhẹ hoặc bỏ qua
lỗi lầm, bỏ qua nghĩa vụ của con cái phải làm từ đó tạo ra thói quen, tâm lý
địi hỏi hưởng thụ, ham chơi, đua địi, sống ích kỷ, ỷ lại vào điều kiện của bố
mẹ không chịu suy nghĩ, lười lao động. Có những gia đình do bố mẹ thiếu sự
hiểu biết nên khi thấy con có lỗi đã không biết cách khuyên ngăn, giáo dục
đúng đắn mà lại đánh đập,đe dọa điều này vơ tình làm cho trẻ trở nên hung
hăng, bạo lực và mất kiểm soát hành vi. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến nguyên nhân vi phạm pháp luật của người chưa thành niên.
+ Gia đình thiếu trách nhiệm, khơng quan tâm đến việc giáo, dục quản lý
con cái, ỷ lại cho nhà trường và xã hội, như: bố mẹ lo làm ăn buôn bán, do

phải đi công tác xa thường xuyên, bố mẹ ốm đau bệnh tật không quản lý việc
học tập, sinh hoặt của con cái, bố mẹ đi làm ăn xa như xuất khẩu lao động
phải sống với ông bà, Có những trường hợp con cái bỏ học hàng tháng, đi
chơi qua đêm, nghiện hút, nghiện game, bài bạc,cá cược, lô đề, trộm cắp, sa
vào tệ nạn, lập hội, băng nhóm phạm tội,...mà bố mẹ khơng hề hay biết, chỉ
đến khi nhận được thông báo của cơ quan chức năng, bạn bè, hàng xóm mách
bảo thì mới ngả ngửa ra và căm ghét chính đứa con của mình. Điều đó nói
nên nền tảng gia đình và cánh hành sử của bố mẹ ảnh hưởng rất lớn đến việc
hình thành nhận thức tư duy và hành động của con cái.
2.2.4. Từ phía nhà trường:
Việc giáo dục về các chương trình pháp luật trong nhà trường là điều
kiện cần và là điều kiện đủ để học sinh – sinh viên hình thành nhận thức, hành
động đúng theo chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Thế nhưng, viêc giáo dục
trong nhà trường về các chương trình giáo dục đạo đức, pháp luật chưa được
chú trọng, quan tâm đúng mức. Đặc biệt, đối với học sinh – sinh viên cá biệt
9


nếu khơng được sự quan tâm của gia đình và sự chặt chẽ trong quản lý,giáo
dục của nhà trường thì họ rất dễ đi vào con đường phạm tội.
Ngoài ra, sự phối hợp trao đổi thông tin, liên lạc giữa nhà trường và gia
đình vẫn chưa được thường xuyên. Nhiều trường hợp con đã bỏ học mà bố
mẹ không hề hay biết.
2.2.5. Từ phía xã hội:
Do những tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường cùng vơi những
thiếu sót trong việc quản lý văn hóa – xã hội của các cơ quan nhà nước các tổ
chức xã hội, vì vậy chúng ta chưa đánh giứa hết tính chất phức tạp, nhiêm
trọng của tình hình tội phạm để đề ra những chủ trương, biệt pháp phòng ngừa
ngăn chặn và đấu tranh phù hợp.
Hệ thống pháp luật về trẻ em và người chưa thành niên thiếu đồng bộ,

việc thi hành chưa nghiêm. Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan bảo vệ
pháp luật còn thiếu chặt chẽ, các ngành các cấp, các chính quyền chưa coi
trọng đúng mức và chưa thực hiện đúng trách nhiệm của mình trong cơng tác
phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên, coi đó là trách
nhiệm chủ yếu của gia đình và nhà trường.
2.2.6. Nguyên nhân về chính pháp luật:
Nhà nước Việt Nam XHCN đang bước vào thời kỳ đổi mới, đánh dấu
bước phát triển về kinh tế, chính tri, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên đây cũng là
lúc các chính sách quản lý của nhà nước thể hiện nhiều cơ hở, thiếu sót. Cơ
chế quản lý, chính sách pháp luật chưa có sự thay đổi để thích ứng với cơ chế
thị trường. Mặc dù hệ thống pháp luật đã có nhiều số lượng và thay đổi về
chất lượng nhưng chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm của
xã hội, thiếu tính ổn định, đồng bộ. trước ngưỡng cửa gia nhập vào nền kinh
tế thế giới, chúng ta cần phải có hệ thống pháp luật đầy đủ để điều chỉnh mọi

10


mặt của đời sống xã hội, phục vụ cho quản lý kinh tế và xã hội để ngăn ngừa
và hạn chế các sự gia tăng của các loại tội phạm.
Mặt khác, chính sách pháp luật của nước ta cịn thiếu tính thực tế, chưa
có tính bao qt lâu dài mà chỉ thường chạy theo giải quyết các vấn đề bức
xúc trước mắt. Vai trò của các cơ quan cá nhân, tổ chức, cơ quan hành chính
có nhiệm vụ quản lý cị hạn chế, cịn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm quản lý
cho các cấp, các ngành. Công tác quản lý ở nhiều ngành, nhiều cấp cịn mang
nặng tính hành chính, quan liêu xa rời với thực tiễn. Tình trạng trên đây là
một trong những nguyên nhân và điều kiện thuận lợi cho tình trạng nói chung
và tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng phát triển. Việc nâng cao trách
nhiệm cho cơ quan nhà nước và các tổ chức trong việc thiết lập chính sách
pháp luật chặt chẽ là tất yếu.

2.2.7. Nguyên nhân về phía cơ quan bảo vệ pháp luật
Việc thực thi pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng bị hạn chế là
nguyên nhân và điều kiện cho tội trộm cắp tài sản ngày một gia tăng cũng như
về số lượng và quy mơ, tính chất. Cơng tác quản lý nhà nước vẫn cịn nhiều
tồn tại để người phạm tội trộm cắp tài sản lợi dụng trong quá trình gây án, tiêu
thụ và trốn tránh pháp luật.
Ngồi những ngun nhân trên, tình hình tội trộm cắp tài sản gia tăng
trên địa bàn huyện còn xuất phát từ chính những ngun nhân, điều kiện xét
dưới góc độ tâm lý xã hội của cán bộ, công chức nhà nước:
Thói quen vơ tổ chức kỷ luật, khơng tơn trọng kỷ luật, trật tự, kỷ cương
phép nước, lòng tham lam, thói vị kỷ, vụ lợi, khát vọng làm giàu bằng mọi
cách kể cả vi phạm pháp luật, trái với phong tục, tập quán, đạo đức của dân
tộc.
Cái tôi, cái cá nhân có cơ hội phát triển mạnh trong cơ chế thị trường
khi mà ý thức và trách nhiệm của công dân chưa được hình thành tồn diện
11


dẫn đến một số cán bộ có lối sống vị kỷ, vụ lợi cá nhân lo cho mình trước mà
dẫm, đạp lên lợi ích của cả nhà nước, xã hội, thờ ơ với trách nhiệm mà nhân
dân giao cho mình.
Như vậy, việc dẫn đến tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Tỉnh Quảng Nam
nhưng năm vừa qua xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Song, để
hạn chế được những nguyên nhân đó cần có sự vào cuộc của các cơ quan
chức năng cũng như sự quản lý của gia đình, nhà trường…hơn nữa để hạn chế
sự gia tăng của loại tội phạm này.
Tóm lại : Dẫn đến tình trạng phạm tội trộm cắp tài sản bao gồm rất nhiều
nguyên nhân . Trong đó những nguyên nhân đã nêu trên là những nguyên
nhân chủ yếu nhất . Có thể trong trường hợp do một nguyên nhân cụ thể cũng
có thể do nhiều nguyên nhân đan xen kết hợp tác động cùng một lúc dẫn đến

một người phạm tội này . Từ những ngyên nhân đó cho ta thấy biện pháp cần
khắc phục thật hiệu quả ngăn chặn mọi hành vi phạm pháp xâm phạm đến
quyền sở hữu của nhân dân.

12


CHƯƠNG III: Có thể rút ra những vướng mắc, khó khăn gì trong
hoạt động định tội danh, từ đó đưa ra kiến nghị hồn thiện luật
hình sự Việt Nam về tội phạm trộm cắp tài sản
3.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản
Quy định của BLHS hiện hành về tội trộm cắp tài sản vẫn còn gặp một
số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, đặt ra yêu cầu đối với nhà làm luật là
phải nghiên cứu, sửa đổi cho phù hợp nhằm đảm bảo những đòi hỏi của
nguyên tắc pháp chế, cũng như sự thống nhất về lơgíc pháp lý và sự chặt chẽ
về kỹ thuật lập pháp trong luật hình sự. Từ đó, có những hướng dẫn cụ thể,
chính xác để các cơ quan áp dụng pháp luật có thể áp dụng thống nhất, hiệu
quả hơn.
Thứ nhất, cần quy định khái niệm tội trộm cắp tài sản và tên điều
luật
Trong số các tội có tính chất chiếm đoạt từ Điều 133 đến Điều 140
BLHS thì TTCTS là 01 trong 03 tội Đó là các tội cướp giật tài sản (Điều 136),
TTCTS (Điều 138) và công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137) chưa được
nêu khái niệm (mô tả hành vi) trong Điều luật. Đây cũng là nguyên nhân có
nhiều ý kiến khác nhau khi đánh giá hành vi chiếm đoạt trong thực tiễn liên
quan đến 03 tội này và có sự nhầm lẫn giữa tội trộm cắp tài sản với một số tội
có tính chất chiếm đoạt khác.
Thứ hai, tình tiết phạm tội nhiều lần không được quy định trực tiếp trong
Điều 138 BLHS
Phạm tội nhiều lần thể hiện sự nguy hiểm của người phạm tội cho xã

hội, phạm tội nhiều lần để lại hậu quả lớn hơn cho xã hội so với những trường
hợp thông thường, thể hiện sự thiếu hiệu quả trong việc giáo dục, cải tạo
người phạm tội. Việc đưa tình tiết này trở thành một dấu hiệu định khung là
cần thiết nhằm đáp ứng đầy đủ hơn hiệu quả của sự phân hóa TNHS, thể hiện
tính nghiêm minh của pháp luật.
13


Việc dấu hiệu "phạm tội nhiều lần" được quy định trong rất nhiều điều
luật đã thể hiện sự quan trọng và cần thiết phải có quy định này.
3.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài
sản
Để hoàn thiện về mặt nội dung quy định của pháp luật cũng như công
tác áp dụng vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này địi hỏi
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tiếp tục rà soát các văn bản cũng
như tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng đối với các cơ quan tiến hành tố
tụng để việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự nêu trên đạt hiểu quả cao
nhất.
Thứ nhất, cần có tổng kết và hướng dẫn áp dụng hình phạt tiền đối
với tội trộm cắp tài sản và tội xâm phạm sở hữu khác.
Đây là một bất cập cần khắc phục vì: với tính chất là hình phạt bổ sung,
hình phạt tiền sẽ tăng khả năng trừng trị và giáo dục đối với người phạm tội
trộm cắp tài sản, bởi người phạm tội trộm cắp tài sản khi thực hiện hành vi
phạm tội đã thể hiên thái độ coi thường tài sản của người khác. Trong luật
hình sự phong kiến Việt Nam trước đây, hình phạt tiền được áp dụng đối với
người phạm tội trộm cắp tài sản căn cứ vào giá trị tài sản bị chiếm đoạt và
hình phạt tiền được coi là hình phạt chính đối với người phạm tội xâm phạm
sở hữu và quy định đó đã phát huy tác dụng tích cực trong viêc hạn chế tội
trộm cắp tài sản ở giai đoạn đó. Để thống nhất trong nhận thức và hành động
cần có tổng kết và hướng dẫn của cơ quan tư pháp về áp dụng hình phạt tiền

đối với người phạm tội trộm cắp tài sản và các tội xâm phạm sở hữu khác.
Thứ hai, cần giải thích rõ tình tiết “hành hung để tẩu thốt” và
chuyển hóa từ tội trộm cắp tài sản sang tội cướp tài sản.
Quy định này nhằm xử lý hành vi của người phạm tội cố ý giữ tài sản
chiếm đoạt mặc dù đã bị phát hiện và giữ lại tài sản. Tuy nhiên, như đã phân
14


tích, việc áp dụng quy định này có một số vướng mắc. Trên thực tế nếu chỉ áp
dụng các quy định tại mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02 khi thời gian từ
khi chiếm đoạt được đến khi bị phát hiện, bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ
hoặc bị giành lại không được kéo dài, bởi vì khi đó, tội phạm đã hồn thành
và hành vi chống trả của người phạm tội đối với việc bị phát hiện, bắt giữ
hoặc bị bao vây bắt giữ hoặc bị giành lại khơng cịn ý nghĩa. Do đó, văn bản
này cần sửa đổi theo hướng: thay cụm từ “đã chiếm đoạt được tài sản” bằng
cụm từ “ngay sau khi chiếm đoạt tài sản” hoặc là bỏ hẳn cụm từ “đã chiếm
đoạt được tài sản” để tránh gây khó khăn trong việc áp dụng.
3.3. Nâng cao năng lực của các chủ thể áp dụng pháp luật về tội trộm
cắp tài sản
Tăng cường, nâng cao năng lực cán bộ để đáp ứng yêu cầu của cải cách
tư pháp và hội nhập quốc tế là một địi hỏi cấp bách trong tình hình hiện nay.
Cần coi trọng việc đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ
năng tiến hành tố tụng, giải quyết các vụ án là nhiệm vụ quan trọng của toàn
hệ thống các cơ quan tư pháp, quan tâm hơn nữa đến việc tập huấn, bồi dưỡng
nâng cao năng lực về nghiệp vụ, trình độ chính trị cho các cán bộ của các cơ
quan tư pháp.
Do số lượng các vụ án trộm cắp tài sản phải thụ lý và giải quyết ngày
càng tăng và dự báo thời gian tới nước ta hội nhập ngày càng sâu, rộng vào
các mối quan hệ quốc tế, kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì số lượng án
thụ lý càng tăng nhanh. Vì vậy địi hỏi các cơ quan tư pháp cần rà sốt, đánh

giá dự báo đúng tình hình để xây dựng đề án, chính sách cụ thể để thu hút,
tuyển dụng cán bộ cho các đơn vị.

15


KẾT LUẬN
Nạn trộm cắp trên địa bàn tỉnh đang trở nên nhức nhối và khó kiểm
sốt trên địa bàn tỉnh gây ra nhiều bức xúc trong quần chúng nhân dân và hậu
quả nó để lại cũng hết sức đau lịng. Nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân
người phạm tội do ham chơi, lười lao động, nghiện ngập, bế tắc trong cuộc
sống bên cạnh đó thì ngun nhân về phía gia đình, nhà trường và xã hội có
ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách của trẻ, để phịng ngừa tận gốc được
nạn trộm cắp thì phải đánh trực tiếp vào chỗ này, khi trẻ có nhận thức khơng
đúng đắn thì sẽ sa vào con đường phạm tội. Khó khăn về kinh tế, kiểm sốt
khơng chặt chẽ người nhập cư cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến trộm
cắp tài sản.
Để khắc phục những nguyên nhân làm hạn chế kết quả của cuộc đấu
tranh phòng chống tội trộm cắp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, chúng ta cần
thực hiện tốt các biện pháp như: phát triển kinh tế gắn với các chính sách xã
hội; nâng cao chất lượng giáo dục trong trường học cả về trình độ văn hóa,
pháp luật; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về an ninh trật tự, xây dựng
hệ thống pháp luật hoàn thiện và có tính pháp chế cao.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Ban Chấp hành Trung ương - Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số

08/NQ/TW, ngày 02/01/2002 về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới.
2.

Ban chỉ đạo 138 của Chính phủ (1999), Kế hoạch số 01/BCĐ 138/CP,

ngày 10/12/1998 của Chính phủ và Chương trình quốc gia phịng, chống tội
phạm.
3.

Ban chỉ đạo 138 của Chính phủ (2012), Kế hoạch số 271/KH - BCĐ

138/CP ngày 20/11/2012 về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phòng,
chống tội phạm giai đoạn 2012 - 2015.
4.

Ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia phịng chống tội phạm, Đề án II

Xây dựng và hồn thiện pháp luật về phịng, chống tội phạm; tăng cường
tuyên truyền giáo dục pháp luật và trách nhiệm công dân về bảo vệ an ninh
trật tự.
5.

Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
6.


Bộ chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tội phạm trong
tình hình mới.
7.

Bộ Cơng an (1999), Kế hoạch số 358/KH-BCA ngày 12/4/1999 thực

hiện Nghị quyết 09/CP và Chương trình quốc gia phịng, chống tội phạm của
Chính phủ.
8.

Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/CP ngày 31/7/1998 về tăng cường

công tác phịng, chống tội phạm trong tình hình mới.
9.

Chính phủ (2011), Nghị định 80/2011/NĐ-CP Quy định Các biện pháp

bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù.
17



×