Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
PHẦN MỞ ĐẦU:
Từ thập niên 90, đặc biệt là sau năm 2000, hầu hết các xu hướng phát triển
kinh tế chủ yếu của thế giới đều vận động theo chiều hướng để tạo dựng nền kinh tế
toàn cầu thống nhất. Hội nhập kinh tế trên quy mô khu vực và toàn cầu là xu thế tất
yếu của kinh tế mỗi nước. Với xu thế toàn cầu như hiện nay thì trong vài thập kỷ tới,
một thị trường toàn cầu không biên giới sẽ xuất hiện. Như đã biết, số nước trong
WTO hiện đã vượt con số 150 thành viên và các nước trong tổ chức này đã giảm
thuế nhập khẩu xuống dưới 5%. Liên minh châu Âu (EU) đã bỏ hàng rào bảo hộ
thương mại trong khối. Các tổ chức khác như: APEC, ASEAN+3, ASEM, khối Nam
Á… đều là các hình thức liên kết, khu vực hóa, quốc tế hóa của nhiều nền kinh tế. Tại
đây, vấn đề được đề cập đến trước hết là liên minh thuế quan, sau đó là đầu tư, và
cuối cùng là đồng tiền chung.
Còn ở nước ta, qua gần 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành
tựu to lớn. Song, để đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, chúng ta phải giải quyết
rất nhiều mâu thuẫn phức tạp. Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn là điều
kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.
Trong khuôn khổ của một tiểu luận, tôi không thể bao quát đánh giá hết nội dung
của nền kinh tế thế giới và công cuộc đổi mới của nước ta và với vốn kiến thức còn
hạn chế, bài viết của tôi khó tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót. Tôi rất mong được
sự hướng dẫn giúp đỡ của quý thầy cô giáo trong khoa để bài viết của tôi được hoàn
chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô giáo.
Trương Thanh Bình
Trang 1
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Lịch sử hình thành toàn cầu hóa kinh tế:
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, toàn cầu hoá nói chung bắt nguồn
từ những giao lưu văn hóa, buôn bán, di dân; từ sự mở rộng các tôn giáo ra ngoài biên
giới các quốc gia, và cho đến nay là sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia, các
ngân hàng, các tổ chức quốc tế, sự trao đổi công nghệ, sự phát triển gắn với hiện đại
hoá… Toàn cầu hoá kinh tế là kết quả của sự quốc tế hoá sản xuất cao độ và phân công
quốc tế, nó xuất hiện và phát triển cùng với thị trường thế giới.
Trong xã hội phong kiến, lực lượng sản xuất phát triển thấp, giao thông kém phát
triển, quy mô sản xuất và trao đổi nhỏ bé, thị trường khép kín, không có thị trường
mang ý nghĩa hiện đại.
Khi nền sản xuất tư bản phát triển, thị trường thế giới mở rộng, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã viết: “Thay cho những nhu cầu cũ được thoả mãn bằng những sản phẩm
trong nước, thì nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thoả mãn bằng những sản
phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về. Thay cho tình trạng cô lập trước kia của
các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ
biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc”[1].
Luận điểm này của C.Mác và Ph.Ăngghen cho thấy, sự quốc tế hoá, toàn cầu hoá
đời sống kinh tế đã được bắt đầu từ khi chủ nghĩa tư bản mở rộng thị trường thế giới,
khi phát hiện ra châu Mỹ cách đây hơn 500 năm. Sự phát triển của quốc tế hoá đời sống
kinh tế lúc đầu còn theo ngành dọc, theo hệ thống thuộc địa của các nước đế quốc thực
dân, trên cơ sở sự phân công quốc tế và xuất khẩu tư bản xuất phát từ các chính quốc
đến các nước thuộc địa, thông qua bạo lực và bóc lột kinh tế. Khi chủ nghĩa đế quốc
xuất hiện, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các thế lực đế quốc trong phân chia
thuộc địa và thị trường thế giới, sự quốc tế hoá đời sống kinh tế đã mở rộng cả theo
chiều ngang. Rồi các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai nổ ra, quan hệ
chính trị và kinh tế thế giới đảo lộn, khủng hoảng và biến động, quá trình quốc tế hoá
đời sống kinh tế bị đẩy lùi.
Sự xuất hiện nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới vào năm 1917 và hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới hình thành sau chiến tranh thế giới lần thứ hai tạo nên
một kiểu quan hệ mới giữa các quốc gia dân tộc. Kiểu quan hệ mới này bước đầu mở ra
kiểu quốc tế hoá đời sống kinh tế mới, dựa trên tính ưu việt của hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa, nhằm khắc phục sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế của chủ nghĩa tư
bản, đặt nền móng cho sự quốc tế hoá chân chính. Song, do những thăng trầm của lịch
Trương Thanh Bình
Trang 2
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
sử, trong những năm 90 của thế kỷ XX, Liên Xô sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan
rã, kiểu quan hệ kinh tế quốc tế này đã kết thúc.
Tuy nhiên, lực lượng sản xuất vẫn ngày càng phát triển. Cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ phát triển như vũ bão, nền kinh tế tri thức hình thành, đời sống kinh
tế quốc tế hoá, toàn cầu hoá; các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển và trở thành lực
lượng chi phối thế giới. Có thể nói, từ sau chiến tranh lạnh, toàn cầu hoá kinh tế dường
như chủ yếu gắn liền với chủ nghĩa tư bản.
Mặc dù vậy, trên thực tế hiện nay vẫn tồn tại một số nước xã hội chủ nghĩa và
những nước này đang phát triển. Do vậy, nghiên cứu toàn cầu hoá kinh tế không thể bác
bỏ một thực tiễn lịch sử là toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra trong bối cảnh hình thành
cục diện kinh tế đa cực, hình thành một trật tự kinh tế, chính trị quốc tế mới, trong đó có
hình thức phát triển, hợp tác, cạnh tranh và cùng nhau phồn vinh của các quốc gia dân
tộc. Và khái niệm toàn cầu hoá hiện đại muốn bàn ở đây là nói đến xu thế khách quan
đang diễn ra trong thời đại hiện nay.
Theo quy luật, chủ nghĩa tư bản sẽ được thay thế bởi hình thái kinh tế xã hội vượt
nó. Song, sự thay thế đó như thế nào, khoa học và thực tiễn sẽ chỉ ra. Thời điểm hiện
nay đặt ra và cho phép chúng ta tính đến khía cạnh toàn cầu hoá kinh tế hiện đại và tác
động của nó đến các mặt chính trị, xã hội, văn hóa toàn cầu, để từ vị trí một nước đang
phát triển, tính đến sự chủ động hội nhập, thúc đẩy hợp tác, phát triển và cạnh tranh, tạo
nên sự phồn vinh của chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thế cùng tồn tại trong hoà bình,
phồn vinh và phát triển của thế giới đương đại.
2. Những thuộc tính cơ bản của quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện đại
Lịch sử của quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế rất lâu dài, và phải thấy
rằng, cơ cấu của toàn cầu hoá bắt đầu từ sự hình thành nhà nước, quốc gia dân tộc và tư
nhân hoá - những cỗ xe đi đến hiện đại. Kết quả tất yếu là sự mở rộng thị trường thế
giới. Mở rộng thị trường thế giới gắn với việc phát triển lực lượng sản xuất của chủ
nghĩa tư bản và cả quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Sự hiện đại hoá lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản dẫn tới toàn cầu hoá. Nó đi trước và
quyết định quá trình toàn cầu hoá. Song, cho đến nay, toàn cầu hoá lại là một trong
những điều kiện để hiện đại hoá thế giới, bất chấp ý muốn của ai. Sự phát triển của
phương Tây thúc đẩy hiện đại hoá, toàn cầu hoá. Bởi vậy, việc hiện đại hoá của thế
giới, trong đó có các nước đang phát triển ở phương Đông không thể bỏ qua một thực tế
là phải hiện đại hoá theo những kinh nghiệm của phương Tây trên nền văn hóa của
phương Đông. Tiếp thu văn hóa, văn minh phương Tây, Việt Nam có cách tiếp cận và
phương pháp luận của chúng ta.
Vậy những gì là cốt lõi của quá trình toàn cầu hoá hiện đại? Có thể nêu mấy điểm
sau đây:
Trương Thanh Bình
Trang 3
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
2.1. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế gia tăng
Các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó và tuỳ thuộc vào nhau, dần dần hình
thành một thể thống nhất, xoá dần đi những ngăn trở và khoảng cách về nhiều phương
diện.
- Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế đã đạt tới
trình độ rất cao, không chỉ giới hạn ở chuyên môn hoá sản phẩm mà đã là chuyên môn
hóa các chi tiết sản phẩm. Với phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của
mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, các nước có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật,
tiền vốn, sức lao động và thị trường của nước khác, từ đó thúc đẩy quốc tế hoá sản xuất
phát triển nhanh chóng. Thí dụ, một loại xe của hãng Toyota sản xuất tại Mỹ có 25%
linh kiện được sản xuất ở ngoài nước Mỹ. Một loại xe ô tô của công ty Ford có 27%
linh kiện do nước khác sản xuất.
- Các công ty xuyên quốc gia phát triển chưa từng có trong lịch sử và đóng vai
trò hết sức quan trọng, nó thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá và khu vực hóa. Theo thống kê
của Liên hợp quốc, năm 1996, thế giới có 44.000 công ty xuyên quốc gia, trong đó
28.000 công ty con có tổng giá trị sản xuất chiếm 40% GDP thế giới, chiếm 50% giá trị
thương mại của thế giới. Tổng kim ngạch tài sản năm 1996 của các công ty xuyên quốc
gia này lên tới 3.200 tỷ USD. Hàng năm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của chúng chiếm
90% đầu tư trực tiếp của thế giới[2].
Năm 1998, các vụ sáp nhập đã lên đến 2.500 tỷ USD.
Năm 1999, riêng 10 vụ sáp nhập các công ty lớn trên thế giới đã lên tới 1.500 tỷ
USD. Vụ sáp nhập 3 ngân hàng lớn ở Nhật Bản vào tháng 8/1999 với 1.200 tỷ USD, đã
bằng tổng giá trị 7.700 vụ sáp nhập năm 1998.
Năm 2000, các cuộc cạnh tranh và sáp nhập các tập đoàn lớn lại diễn ra gay gắt,
quyết liệt với quy mô lớn chưa từng thấy[3].
- Trong quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế,
dẫn đến sự ra đời các tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. Đó là
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB), Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Liên
minh các nước Đông Nam á (ASEAN), Thị trường tự do Nam Mỹ Mercosur, Khối cộng
đồng kinh tế Tây Phi, và hàng chục tổ chức kinh tế khác ở khắp các châu lục.
Thông qua các tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế này, quy mô lưu
thông vốn quốc tế lớn chưa từng thấy, tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới vượt xa tốc
độ tăng trưởng kinh tế; các lĩnh vực hợp tác trong toàn cầu hoá kinh tế không ngừng
phát triển.
Trương Thanh Bình
Trang 4
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
- Quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện đại tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính
trị, dẫn đến sự hình thành các tổ chức chính trị quốc tế mà lớn nhất là Liên hợp quốc.
Liên hợp quốc cùng với các tổ chức của nó như Chương trình phát triển LHQ (UNDP),
Quỹ LHQ về các hoạt động dân số (UNFPA), Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa
của LHQ (UNESCO), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Hội nghị liên hợp quốc tế về
phát triển (UNCTAD), Tổ chức lương thực và nông nghiệp của LHQ (FAO)… đang tác
động mạnh đến tất cả các khu vực, các nước trên phạm vi toàn cầu. Cùng với sự phát
triển của các tổ chức này, luật pháp quốc tế cũng hình thành. Thí dụ: Công ước quốc tế
về luật biển (1982), Công ước quốc tế về quyền trẻ em… Do vậy, có thể nói rằng, toàn
cầu hoá kinh tế hiện đại thúc đẩy sự thẩm thấu lẫn nhau chẳng những của các nền kinh
tế mà còn lan toả ra tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và tất cả các quốc gia trên
thế giới.
2.2. Nền kinh tế mới trong toàn cầu hoá là nền kinh tế công nghệ cao – nền
kinh tế tri thức
Cuối thế kỷ XIX, đã có nhiều phát minh khoa học, một cuộc cách mạng thực sự
đã diễn ra trong vật lý học: phát hiện ra tia Rơn-ghen (1895), hiện tượng phóng xạ
(1896), điện tử (1897), radium (1898) , rồi đến những phát minh mới trong thế giới vi
mô (nguyên tử) và vĩ mô (vũ trụ). Khoa học đã thu thập được một khối lượng khổng lồ
những tri thức về thế giới tự nhiên, tổng hợp lại ở các thuyết cơ bản như thuyết Lượng
tử và thuyết Tương đối…, tạo nền móng cho khoa học hiện nay. Theo tính toán của
nhiều nhà khoa học, toàn bộ lượng thông tin, tri thức trong thế kỷ XX tăng gấp 1.000
lần so với hồi đầu thế kỷ, và vượt trội so với tổng tri thức mà loài người tích luỹ được
trong suốt 19 thế kỷ đã qua.
Khoa học hiện đại ngày càng phát triển, tiến vào lĩnh vực vi mô và vĩ mô, đòi hỏi
sự phát triển trí tuệ ngày càng cao.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đầu thế kỷ XX là cái nguồn tất yếu của
cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, mở đầu từ sau Chiến tranh thế giới
lần thứ hai.
Nền kinh tế toàn thế giới bắt đầu cơ cấu lại, trang bị lại và đòi hỏi phải cơ cấu lại,
trang bị lại. Bên cạnh những ngành kinh tế gắn với nền đại công nghiệp, như các ngành
luyện kim, điện lực, sản xuất ô tô, xi măng, sắt thép… còn có các ngành kinh tế mới
phát triển cực nhanh (điện tử – bán dẫn, máy tính, viễn thông…), trong đó các dịch vụ
liên quan đến thông tin (ngân hàng, tư vấn, thiết kế, bảo hiểm…) phát triển mạnh, thậm
chí ở một số nước, lĩnh vực này chiếm tới trên 70% thu nhập của nền kinh tế quốc dân.
Các ngành công nghệ cao được hình thành và trở thành những mũi nhọn kinh tế
của các quốc gia. Trước hết, phải kể đến công nghệ thông tin vì công nghệ thông tin
đang là cốt lõi của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Nó phản ánh giai
đoạn mới về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong
Trương Thanh Bình
Trang 5
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
sản phẩm. Trong cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, máy móc có thể
thay thế một phần trí tuệ con người, làm cho tốc độ tư duy và năng lực tư duy phức tạp
mở rộng. Công nghệ thông tin bao gồm cả phần cứng, như chế tạo các mạch vi điện tử,
máy vi tính, mạng máy tính… và các phần mềm hệ thống, phần mềm ứng dụng. Ngoài
ra, phải kể đến các loại thiết bị viễn thông, điện tử công nghiệp, điện tử tiêu dùng, điện
tử y tế, điện tử quốc phòng… Đó đều là những bộ phận quan trọng của công nghệ thông
tin. Nền kinh tế mới sẽ được trang bị lại chủ yếu nhờ áp dụng công nghệ thông tin, tạo
ra các bộ não – thần kinh để tích hợp ngày càng rộng trong toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy,
công nghệ thông tin là yếu tố khoa học, là công nghệ cốt lõi tạo ra điều kiện kỹ thuật
của toàn cầu hoá nhờ hệ thống thông tin toàn cầu, bao gồm hệ Internet.
Thứ hai, công nghệ sinh học là bước đột phá vào thế giới đầy bí hiểm của sự
sống.
Khoa học hiện đại đã khám phá ra gen dưới dạng các phân tử hình xoắn kép
(ADN), hiểu rõ được mật mã của sự sống…, đã tạo ra một tiềm năng vô tận cho việc
sản xuất các vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người như lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của
con người. Sự phát triển của công nghệ sinh học, việc tạo ra những sinh vật và nhân
giống chúng một cách tối ưu đã mở ra những triển vọng vô cùng to lớn trong việc tăng
năng suất lao động, giải đáp những vấn đề nhu cầu cuộc sống mà loài người trước đây
chưa từng biết đến.
Thứ ba, nhiều công nghệ mới quan trọng khác như công nghệ vật liệu mới, công
nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ… ra đời, mở ra những tiềm năng
mới, triển vọng mới. Ngày nay, việc sử dụng nguồn điện nguyên tử, thuỷ điện và điện
mặt trời ngày càng nhiều trong đời sống xã hội. Các vật liệu mới như chất dẻo đặc biệt,
vật liệu tổng hợp, sợi quang học… thay thế ngày càng nhiều những nguyên liệu truyền
thống.
Thứ tư, tự động hoá trong sản xuất. Tự động hoá trong sản xuất giải phóng con
người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội,
mở ra triển vọng mới trong sự phát triển.
Nhờ có công nghệ cao và sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế thế giới, sự
tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ làm đảo lộn những dự đoán thông thường của con người.
2.3. Nền kinh tế toàn cầu hiện nay chủ yếu là nền kinh tế của tư bản toàn cầu,
do ba trung tâm kinh tế lớn trên thế giới và các công ty xuyên quốc gia chi phối
Chúng ta không lấy làm lạ khi đọc luận điểm sau đây của nhà kinh tế hàng đầu
của Đức, ngài Hécbơ Giécsơ, viện trưởng lâu năm của Viện Kinh tế thế giới Côlônhơ,
rằng toàn cầu hoá chỉ là một khái niệm mới của một quá trình đang tiếp diễn từ lâu: sự
mở rộng về không gian của phương thức kinh tế tư bản cho đến tận cùng thế giới.
Trương Thanh Bình
Trang 6
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Điều này có thể được minh chứng qua các lý do sau đây:
Một là, đứng về mặt gia tăng các luồng giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư,
vốn, công nghệ, dịch vụ, nhân công, v.v., thì hiện nay các trung tâm tư bản lớn như Bắc
Mỹ, EU và Nhật Bản vẫn đóng vai trò chủ chốt.
Hai là, xét về mặt hình thành và phát triển các thị trường trên phạm vi toàn cầu
và các khu vực, đồng thời với việc hình thành và tăng cường các định chế (luật chơi) và
cơ chế tổ chức để điều chỉnh và quản lý các hoạt động giao dịch quốc tế hiện nay, thì
vai trò của các nước như Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản vẫn là chủ chốt. Sự
quản lý các quá trình này, chi phối quá trình này chủ yếu vẫn là các nước tư bản chủ
nghĩa và các tổ chức, các công ty xuyên quốc gia do các nước ấy khống chế, chi phối.
3.Hệ quả tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá
Như trên đã phân tích, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, có tác động
tương hỗ đến tất cả các mặt của đời sống xã hội, cả về chính trị, văn hóa và xã hội… Do
đó, có thể nêu lên những hệ quả tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá như sau:
3.1. Hệ quả tích cực
3.1.1. Toàn cầu hoá thúc đẩy sự phát triển và xã hội hoá các lực lượng sản
xuất, đem lại sự tăng trưởng kinh tế cao
- Toàn cầu hoá làm tăng nhanh tổng sản phẩm của thế giới, với giá trị hiện nay
ước tính khoảng 30.000 tỷ USD, gấp 23 lần giá trị tổng sản phẩm thế giới vào cuối
những năm 50 của thế kỷ XX (1.300 tỷ USD).
- Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu có những thay đổi cơ bản. Nếu năm
1960, nông, lâm, thuỷ sản chiếm 10,4%; cây công nghiệp chiếm 28,1% và dịch vụ
chiếm 50,4% thì đến năm 1990, cơ cấu GDP của thế giới tương ứng đã là 4,4%; 21,4%
và 62,4%.
- Sự liên kết thị trường thế giới thành một hệ thống ngày càng tăng, với tốc độ
tăng trưởng cao hơn nhiều lần tốc độ tăng trưởng sản xuất.
- Hệ thống thông tin toàn cầu phát triển nhanh chóng, kết nối các vùng địa lý trên
trái đất vào một hệ thống, góp phần tác động có hiệu quả vào các quá trình kinh tế –
chính trị – xã hội – quân sự – văn hóa toàn cầu…
3.1.2. Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại
- Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại sẽ làm giảm hoặc huỷ bỏ
các hàng rào ngăn cách, làm cho hàng hoá của mỗi nước có thị trường tiêu thụ rộng
hơn, do đó kích thích sản xuất phát triển. Nhờ đó sẽ thúc đẩy phân công lao động quốc
Trương Thanh Bình
Trang 7
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
tế theo hướng chuyên môn hoá, làm cho các nguồn lực ở mỗi nước được sử dụng hợp lý
và có hiệu quả hơn.
- Tự do hoá thương mại đặt ra cho các doanh nghiệp phải tiến hành những cải
cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, phát huy lợi thế của mình
và hạn chế những rủi ro, thách thức trong cuộc cạnh tranh quốc tế khốc liệt.
- Tuy vậy, tự do hoá thương mại không đưa lại những kết quả như nhau đối với
các nước. Nhìn chung, các nước phát triển có lợi thế là nền kinh tế của họ đã phát triển
cao, khả năng cạnh tranh lớn, nắm giữ các công nghệ cao, tư bản, đội ngũ lao động có
trình độ cao và công nhân lành nghề đông. Do đó, hàng hoá của họ có chất lượng cao,
hoạt động thương mại nhạy bén, năng động hơn và có sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
trường lớn hơn. Các nước đang phát triển ở vào vị trí khó khăn hơn, vì nền kinh tế kém
phát triển, khả năng cạnh tranh yếu, trình độ công nghệ thấp, thiếu vốn, đội ngũ lao
động có trình độ và công nhân lành nghề nhỏ bé. Song, các nước này nếu biết lợi dụng
những ưu thế của mình, biết phát huy nội lực, tranh thủ kỹ thuật cao, đi tắt đón đầu thì
vẫn đạt được những tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Các nước NICs và những con rồng
châu á là những thí dụ. Có thời kỳ dài, các nước này đã đạt được tốc độ tăng trưởng
kinh tế 6 – 7%/năm, chủ yếu do tận dụng được tự do hoá thương mại và thực hiện chiến
lược hướng vào xuất khẩu.
3.1.3. Toàn cầu hoá làm gia tăng các luồng chuyển giao vốn và công nghệ
- Toàn cầu hoá làm gia tăng các hoạt động đầu tư quốc tế, chủ yếu là FDI, với
những đặc điểm chính là nguồn vốn đầu tư ngày càng tăng; chủ thể đầu tư và chủ thể
thu hút đầu tư ngày càng đa dạng; lượng lưu động vốn cho vay tăng rất nhanh; tự do
hoá đầu tư trở thành mục tiêu, chính sách đầu tư quốc tế của tất cả các nước.
- Toàn cầu hoá thực hiện chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành
tựu của khoa học công nghệ, tổ chức, quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, sản xuất cho
các nước được đầu tư phát triển.
3.1.4. Toàn cầu hoá củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, thúc đẩy sự
xích lại gần nhau giữa các dân tộc
Cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá, các thể chế quốc tế ngày càng
được tăng cường để đảm bảo điều tiết và quản lý các quan hệ quốc tế. Tính đến nay, đã
có khoảng 120 thể chế khu vực và toàn cầu. Hàng trăm tổ chức quốc tế các loại, bao
gồm các tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ… đang hoạt động trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Đó là những sản phẩm của toàn cầu hoá, đồng thời chúng có tác động
làm cho quá trình toàn cầu hoá được tăng cường.
Chính nhờ toàn cầu hoá liên kết các nước lại với nhau, làm tăng sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nước về nhiều mặt, nên lợi ích của mỗi quốc gia gắn với lợi ích của nhiều
Trương Thanh Bình
Trang 8
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
quốc gia. Hơn nữa, các thể chế quốc tế cũng ràng buộc lợi ích và nghĩa vụ của các quốc
gia. Tất cả những điều nói trên giúp hạn chế những hành vi dễ gây xung đột giữa các
nước, góp phần duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.
Qua quá trình giao lưu quốc tế, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc thuộc các
châu lục, giữa con người với con người càng được tăng cường; thông tin cập nhật khắp
vùng, góp phần tác động đến mọi sự kiện trên thế giới.
3.2. Hệ quả tiêu cực
3.2.1. Toàn cầu hoá mở rộng thêm khoảng cách giàu – nghèo trong từng nước
và giữa các nước
- Các mối lợi từ toàn cầu hoá kinh tế được phân phối không đồng đều và không
công bằng. Các quốc gia phát triển thường thu lợi nhiều hơn trong kinh tế, thương
mại…
- Tất cả những thành tựu của toàn cầu hoá kinh tế trong mấy thập kỷ qua không
những không thu hẹp mà còn làm doãng ra khoảng cách về mức sống và trình độ phát
triển kinh tế, khoa học công nghệ giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển,
làm trầm trọng thêm sự bất công trong xã hội; đào sâu hố ngăn cách giàu – nghèo trong
từng nước. Về nhiều mặt, dân chúng ở 85 nước đang phát triển hiện có mức sống thấp
hơn so với cách đây 10 năm. Hiện nay, trên toàn thế giới vẫn còn hơn 1 tỷ người nghèo.
Chênh lệch giữa thu nhập của 20% dân số thuộc tầng lớp người giàu nhất và của 20%
dân số thuộc tầng lớp nghèo nhất trên thế giới trong năm 1960 là 30 lần, đến năm 1990
lên tới 60 lần và năm 1997 là 74 lần. Các nước phát triển với 1/5 dân số thế giới chiếm
tới 86% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 vốn đầu tư nước ngoài; trong khi
đó, các nước nghèo nhất với 1/5 dân số thế giới chỉ tạo ra được 1% GDP thế giới.
3.2.2. Toàn cầu hoá tạo nên sự thách thức mới đối với nền độc lập, chủ quyền
quốc gia, làm xói mòn quyền lực của nhà nước dân tộc
- Toàn cầu hoá làm thay đổi khái niệm độc lập và chủ quyền quốc gia, đặc biệt trong
lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hoá làm suy yếu chức năng kinh tế của nhà nước dân tộc.
- Chủ quyền quốc gia bị hạn chế một cách tương đối, tính độc lập của các quốc gia bị
giảm dần; nhiều quyền lực của nhà nước bị xói mòn, các chính phủ không còn quyền
độc lập tuyệt đối trong việc hoạch định chính sách, vì có nhiều vấn đề vượt khỏi tầm
kiểm soát của nhà nước (các luồng di chuyển vốn, các luồng thông tin, các tập đoàn
xuyên quốc gia, môi trường sinh thái…)
3.2.3. Toàn cầu hoá làm cho nhiều mặt hoạt động và đời sống của con người
trở nên kém an toàn, từ an toàn kinh tế, tài chính đến an toàn văn hóa, xã hội, môi
trường
Trương Thanh Bình
Trang 9
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á (1997 – 1998) đã ảnh hưởng nghiêm
trọng, kéo dài và toàn diện đến các nước này. Tính không an toàn trong đời sống kinh tế
gia tăng: sự đổ vỡ nhiều ngành sản xuất và phá sản hàng loạt xí nghiệp; lạm phát và thất
nghiệp gia tăng; nền sản xuất phải cơ cấu lại, những thể chế bảo hộ xã hội bị phá bỏ; tệ
nạn xã hội gia tăng. Đặc biệt là khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, các tệ nạn ma tuý,
mại dâm và HIV lan tràn.
Toàn cầu hoá làm gia tăng giao lưu quốc tế trong đời sống văn hóa tinh thần,
nhiều tinh hoa văn hóa của các dân tộc được truyền bá, sự thâm nhập lẫn nhau của các
nền văn minh thúc đẩy tiến bộ xã hội. Song, do lợi thế của các nước có nền kinh tế
mạnh nên ảnh hưởng của các nước này đối với các nước đang phát triển rất lớn. Vì vậy,
nhiều giá trị riêng của các dân tộc, đặc biệt là của các nước đang phát triển bị xói mòn;
nhiều truyền thống dân tộc bị huỷ hoại, các quan hệ gia đình bị phá vỡ… Khuynh
hướng đồng nhất ở một góc độ nào đó, cả về văn hóa, đã và đang diễn ra ngày một rõ
hơn… Bởi vậy, vấn đề đặt ra là hội nhập nhưng không để bị hoà tan, không đánh mất
bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, nếu đề cao văn hóa dân tộc một cách thái quá sẽ có
nguy cơ đi đến bài ngoại, đóng cửa và sẽ bị tụt hậu.
Rõ ràng, toàn cầu hoá không chỉ có tác động thuận lợi mà còn có tác động tiêu
cực đối với các nước đang phát triển. Do đó, các nước đang phát triển phải có chiến
lược hội nhập phù hợp với thực tiễn nước mình, để tranh thủ được mặt thuận lợi, và
khắc phục, hạn chế được các mặt tiêu cực.
II. CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Một số nét kinh tế Việt Nam
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Kể
từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế,
chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng
hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc
tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói,
bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo ra khung
pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Năm 1991 Luật doanh
nghiệp tư nhân và Luật công ty ra đời. Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã khẳng định đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật
quan trọng của nền kinh tế thị trường đã được hình thành tại Việt Nam như Luật đất đai,
Luật thuế, Luật phá sản, Luật môi trường, Luật lao động và hàng trăm các văn bản pháp
Trương Thanh Bình
Trang 10
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
lệnh, nghị định của chính phủ đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc thực hiện luật
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước
được hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, nhấn mạnh
quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản lý kinh tế, thành lập hàng
loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng, hình thành các thị trường cơ bản như thị trường
tiền tệ, thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường đất đai… Cải cách hành
chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trường
thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng
trưởng kinh tế. Chiến lược cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 là một quyết tâm
của Chính phủ Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc sửa đổi các thủ tục hành chính, luật
pháp, cơ chế quản lý kinh tế… để tạo ra một thể chế năng động, đáp ứng nhu cầu phát
triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần hai thập kỷ đổi mới vừa
qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Việt Nam
đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động hơn
bao giờ hết. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo
nên tính hiệu quả trong việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng
kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày
càng nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa
xuất khẩu và phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày
càng lớn như du lịch, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiều hối
Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự thay đổi
đáng kể. Từ năm 1990 đến 2005, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp đã giảm từ 38,7%
xuống 20,89% GDP, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ trọng của khu vực công nghiệp
và xây dựng từ 22,7% lên 41,03%, còn khu vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như
không thay đổi: 38,6% năm 1990 và 38,10% năm 2005. Trong từng nhóm ngành, cơ
cấu cũng có sự thay đổi tích cực. Trong khu vực nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông
và lâm nghiệp đã giảm từ 84,4% năm 1990 xuống 77,7% năm 2003, phần còn lại là tỷ
trọng ngày càng tăng của ngành thủy sản. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng của ngành
công nghiệp chế biến tăng từ 12,3% năm 1990 lên 20,8% năm 2003, chất lượng sản
phẩm ngày càng được nâng cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo hướng tăng
nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, du lịch…
Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa
bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng
đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền
Trương Thanh Bình
Trang 11
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm
giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Khi sửa đổi Luật doanh nghiệp (năm 2000), các doanh nghiệp tư nhân đã có điều
kiện thuận lợi để phát triển. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh của các
cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm, dỡ bỏ những rào cản về
hành chính đang làm trở ngại đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp
giấy phép, thủ tục, các loại phí… Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh
nghiệp tư nhân đăng ký mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm
2004, đã có 150.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với
tổng số vốn điều lệ là 182.000 tỷ đồng. Từ năm 1991 đến năm 2003, tỷ trọng của khu
vực kinh tế tư nhân trong GDP đã tăng từ 3,1% lên 4,1%, kinh tế ngoài quốc doanh
khác từ 4,4% lên 4,5%, kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống 31,2%, và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài tăng từ 6,4% lên 14%. Từ 1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp
dụng chung cho cả doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa
hẹn sự lớn mạnh của các doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của
các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu.
Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp điều
chỉnh, sắp xếp lại doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản lý tài chính của
công ty nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, hay việc
chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần theo tinh thần cải cách mạnh mẽ
hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, ngày càng được coi trọng nhằm nâng cao tính hiệu
quả cho khu vực kinh tế quốc doanh. Với chính sách xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm đi, từ 40,1%
GDP năm 1991 xuống còn 38,3% năm 2003, kinh tế tập thể giảm từ 10,2% xuống 7,9%
trong thời gian tương ứng. Trong các năm 2002-2003, có 1.655 doanh nghiệp nhà nước
được đưa vào chương trình sắp xếp và đổi mới, năm 2004 là 882 doanh nghiệp và năm
2005 dự kiến sẽ là 413 doanh nghiệp.
Việt Nam đã sử dụng một cách hiệu quả các thành tựu kinh tế vào mục tiêu phát
triển xã hội như phân chia một cách tương đối đồng đều các lợi ích của đổi mới cho đại
đa số dân chúng; gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát
triển y tế, giáo dục; nâng chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam từ vị trí thứ
120/174 nước năm 1994, lên vị trí thứ 108/177 nước trên thế giới năm 2005; tăng tuổi
thọ trung bình của người dân từ 50 tuổi trong những năm 1960 lên 72 tuổi năm 2005,
giảm tỷ lệ số hộ đói nghèo từ trên 70% đầu những năm 1980 xuống dưới 7% năm 2005.
2. Chính sách chủ động hội nhập của Việt Nam
Sự nghiệp đổi mới đất nước trong hơn 16 năm qua đã tạo thế và lực mới cho
nước ta trong quá trình hội nhập, bảo đảm điều kiện để nước ta đẩy mạnh công nghiệp
Trương Thanh Bình
Trang 12
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
hoá, hiện đại hoá đất nước. Song, trên thực tế phải thấy rằng nền kinh tế nước ta còn
kém phát triển, sức cạnh tranh còn rất thấp; lực lượng lao động tuy dồi dào, song trình
độ kỹ thuật và kỹ năng còn thấp; hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập; hệ thống tài
chính, ngân hàng còn yếu kém nên khả năng đương đầu với xu hướng tự do hoá kinh tế,
tài chính toàn cầu rất khó khăn; chưa đuổi kịp sự phát triển nhanh chóng của hệ thống
thông tin – viễn thông toàn cầu.
Quá trình toàn cầu hoá, phát triển sự hợp tác đa phương và song phương với các
nước tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá sang
các nước. Tất nhiên, vấn đề này còn gắn với cuộc cạnh tranh, vừa hợp tác vừa đấu tranh
rất phức tạp. Chúng ta cần tranh thủ các nguồn vốn đầu tư, nhập khẩu kỹ thuật cao,
tranh thủ kinh nghiệm quản lý của thế giới, mở rộng thị trường để nhanh chóng đi tắt,
đón đầu, xây dựng nền kinh tế mới phù hợp với sự phát triển chung và thực tiễn nền
kinh tế Việt Nam.
Những khó khăn, thách thức rất to lớn đang đặt ra trước chúng ta. Bởi vậy, chúng
ta phải trên cơ sở kinh nghiệm của mình trong những năm đổi mới và kinh nghiệm của
các nước đang phát triển mà thúc đẩy sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của nước
ta. Chiến lược hội nhập quốc tế của nước ta là chiến lược chủ động hội nhập, nhằm
tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, khai thác tốt nhất nội lực của ta để phát triển đất
nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chiến lược chủ động hội nhập của nước ta
xuất phát từ việc thừa nhận lợi ích to lớn của hội nhập; đồng thời ý thức rằng sự hội
nhập đó cũng đưa lại những thách thức to lớn, những nguy cơ không thể xem thường.
Thời cơ và nguy cơ thường đan xen với nhau, do đó phải hết sức tỉnh táo để bảo
đảm hội nhập và giữ được bản sắc văn hóa dân tộc; hội nhập và giữ vững độc lập tự
chủ; hội nhập và bảo vệ được lợi ích dân tộc; hội nhập và góp phần vào cuộc đấu tranh
vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân loại. Chúng ta chủ động hội
nhập quốc tế để phát triển bền vững, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh./.
III. THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM:
Qua gần 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của nhân dân trong việc hiện thực hoá đường lối đó, chúng ta đã đạt
dược những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng. Nền dân chủ XHCN với Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định trên những đường nét cơ bản. Nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự thống nhất trong đa dạng đã hình thành. Khối
đại đoàn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng được củng cố, thực sự trở thành một động lực
quan trọng của đổi mới đất nước.
Trương Thanh Bình
Trang 13
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân với lực lượng vũ trang nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại ngày càng đủ mạnh để bảo vệ Tổ
quốc và cuộc sống yên lành của nhân dân. Nền ngoại giao độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam sắn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, không
ngừng mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao uy tín và vị thế của nước ta trên trường
quốc tế đã phát huy vai trò to lớn của mình trong đổi mới đất nước. Công cuộc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, đủ sức gánh
vác được sứ mệnh lịch sử mà dân tộc ta giao phó. Những thành tựu đó đã làm cho sức
mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều, vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao.
Những bài học được rút ra từ 20 năm đổi mới giúp chúng ta hoàn thiện hơn nữa
đường lối, chủ trương, chính sách và cách thức triển khai trong tổ chức thực tiễn sẽ góp
phần đẩy mạnh hơn sự phát triển của đất nước. Sắp tới, việc tham gia WTO là bước hội
nhập kinh tế quốc tế ở tầm cao nhất về cấp đối tác sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho sự
phát triển
Đó là những yếu tố quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp
đổi mới nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Song, bên cạnh những thành tựu, tiến bộ đã đạt được sau gần 20 năm đổi mới,
vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm làm gay gắt những mâu thuẫn của quá trình phát
triển.
Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp. Khó khăn này sẽ tăng lên rất lớn, đặc biệt là đối với doanh nghiệp, khi AFTA có
hiệu lực đầy đủ đối với nước ta và nước ta chính thức gia nhập WTO. Nhiều nguồn lực
và tiềm năng trong nước để phát triển kinh tế chưa được huy động và sử dụng tốt. Thất
thoát, lãng phí trong quản lý kinh tế, đặc biệt trong quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ
bản, quản lý doanh nghiệp Nhà nước còn rất nghiêm trọng. Cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và cải cách hành chính trong hệ thống chính quyền chưa đạt yêu cầu đề
ra. Nhiều nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, việc thực hiện luật pháp, kỷ
cương không nghiêm. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm hoặc chưa giải quyết tốt.
Từ đó, có thể thấy, để đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, chúng ta phải giải
quyết rất nhiều mâu thuẫn phức tạp, trong đó nổi lên những mâu thuẫn sau:
1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất cập của
cơ chế, chính sách khai thác nguồn lực hiện nay.
Để đạt mục tiêu đến năm 2010 thoát khỏi tình trạng một nước kém phát triển, tốc
độ phát triển kinh tế thời gian tới phải đạt mức trung bình khoảng 8%/năm
(1)
. Chỉ bằng
Trương Thanh Bình
Trang 14
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
cơ chế, chính sách như hiện nay, chúng ta khó có thể thực hiện phát triển đột biến về
khả năng khai thác những tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động trong nước, về khả
năng tận dụng những cơ hội quốc tế để gia tăng mạnh và sử dụng tốt các nguồn lực từ
bên ngoài. Nền kinh tế hiện vẫn rất dễ bị tổn thương trước tác động không lớn lắm của
những biến đổi kinh tế bên ngoài. Khoảng cách về kinh tế giữa nước ta với nhiều nước
trong khu vực và thế giới ngày càng mở rộng. Sự tụt hậu trên lĩnh vực này chưa được
ngăn chặn.
2. Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh hướng
XHCN với những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách khắc phục mặt trái của
kinh tế thị trường.
Tính ưu việt của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phải được thể hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở khả năng bảo đảm
sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa tìm được những giải pháp hữu hiệu để
giải quyết những hậu quả xã hội do tác động tiêu cực của những mặt trái thuộc kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu hướng ngày
càng gay gắt. Đặc biệt, điều làm cho nhân dân hết sức bất bình, lo lắng là tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chất
đạo đức, lối sống của .một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Văn
hoá lai căng có xu hướng phát triển. Hiện tượng ma chay, cưới xin, hội hè với nhiều hủ
tục được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình xuống cấp. Tình huống mất ổn
định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều hơn, mức độ phức tạp của tình hình gia tăng
hơn Chúng ta chưa tìm được những phương hướng ngăn chặn có hiệu quả tình trạng
đó.
3. Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng thuận xã
hội trong đổi đất nước với sự tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài
nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân là một điều kiện tất yếu
để đưa công cuộc đổi mới tiến lên mạnh mẽ hơn. Nhưng, cùng với những yếu kém của
chính chúng ta, thì sự tác động của các thế lực thù địch nhằm thực hiện chiến lược “diễn
biến hoà bình" đối với nước ta bằng nhiều con đường, nhiều biện pháp và phương tiện,
cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua một số phần tử cơ hội về chính trị để chống phá trên lĩnh
vực tư tưởng -lý luận đã làm cho một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân phân
tâm Chúng ta có phần còn lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực
này.
4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối sống thực
dụng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trương Thanh Bình
Trang 15
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Trong khi cuộc sống đòi hỏi phải thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhân dân,
phát huy đóng góp của nhân dân vào việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện đường lối đổi
mới, thì tình trạng thờ Ơ chính trị, chỉ lo vun vén cho lợi ích của bản thân và gia đình,
lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân
có chiều hướng gia tăng. Chúng ta chưa tìm được cách để khắc phục tình hình này với
hiệu quả cao.
5. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị với sự thiếu
hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh vực này.
Công cuộc đổi mới kinh tế đã phát triển tới mức đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa
việc đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, sự kết hợp hài hoà
hơn nữa giữa các bộ phận cấu thành hệ thống đó, song, chúng ta chưa có những đột phá
trên lĩnh vực này. Đã có nhiều nghị quyết, nhiều chủ trương chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, nhưng hiệu quả thực tiễn còn thấp. Bộ máy của hệ thống chính trị còn
quá cồng kềnh, cơ chế vận hành chưa thật khoa học, tình trạng lẫn lộn chức năng,
nhiệm vụ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị còn xuất hiện ở nhiều cấp,
nhiều địa phương. Việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không nghiêm. Nhiều nơi còn vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đủ mạnh, phương
pháp hoạt động của nhiều cán bộ đảng, đoàn thể còn trong tình trạng viên chức hoá
Sự yếu kém đó, nếu không được khắc phục có hiệu quả, thì một số phương diện của hệ
thống chính trị sẽ trở thành lực cản lớn đối với đổi mới trên lĩnh vực kinh tế.
6. Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng thiếu giá đỡ
về lý luận và thực tiễn cho quá trình đó.
Dân chủ hoá đời sống xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới.
Nhưng chúng ta chưa tìm được những giải pháp tất nhất để xác lập vững chắc quan
điểm khoa học về dân chủ phù hợp với điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, không
đa nguyên về chính trị, không tổ chức quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc phân quyền,
chưa tìm được những cơ chế và hình thức thực hiện dân chủ thích hợp với truyền thống
văn hoá chính trị, với trình độ dân trí, trình độ văn hoá chung của nhân dân. Dân chủ
trong Đảng, trong xã hội và ở cơ sở tuy đã được nhấn mạnh trong nhiều nghị quyết, chỉ
thị của Đảng và các văn bản pháp quy của Nhà nước, nhưng kết quả đạt được trên thực
tế còn nhiều hạn chế. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả
thấp. Chưa có cơ chế để bảo đảm quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, vai
trò giám sát thực hiện quyền kiểm tra của nhân dân đối với chính quyền và cán bộ,
Đảng viên còn mờ nhạt.
7. Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khả năng
giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập và khắc phục những tác động tiêu cực của
hội nhập.
Trương Thanh Bình
Trang 16
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là một nhân tố tất yếu để phát triển, nhưng
chúng ta còn thiếu nhất quán và lúng túng, bị động trong việc xử lý mối quan hệ giữa
mặt tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữa độc lập tự chủ về
kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, lúng túng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
hội nhập đồng thời nhiều cấp độ hơn, sâu hơn, rộng hơn, đa dạng hơn với việc giữ
vững bản sắc văn hoá dân tộc.
8. Mâu thuẫn giữa việc giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
nhân tố quyết định thành công sự nghiệp đổi mới với tình trạng một số mặt của
Đảng chưa thật ngang tầm trước đòi hỏi của tình hình.
Để đổi mới thành công, điều kiện tiên quyết là phải giữ vững và tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng. Điều đó chỉ có được duy trì được với tiền đề: Đảng phải vững
vàng về chính trị - tư tưởng, mạnh về tổ chức và cán bộ, trong sạch về đạo đức, lối
sống, đứng ở tầm cao về trí tuệ, có phương thức lãnh đạo thực sự khoa học. Yêu cầu đó
đặt ra trong tình hình Đảng đang đứng trước sự bất cập không nhỏ trên hầu hết các
phương diện đó.
Đảng ta nói chung, hầu hết cán bộ, đảng viên nói riêng kiên định mục tiêu xã hội
chủ nghĩa đã lựa chọn, kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, kiên trì đổi mới vì chủ nghĩa xã hội song, cũng có một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, thậm chí cả một bộ phận tổ chức đảng phai nhạt lý tưởng, rơi
vào dòng xoáy của thị trường, bệnh tham nhũng chưa có dấu hiệu suy giảm, một bộ
phận sa đoạ về đạo đúc, lối sống. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt
yêu cầu đề ra. Những yếu kém này đã và đang làm suy giảm một cách đáng kể mềm tin
của một bộ phận nhân dân vào tiền đồ của đổi mới, vào vị trí của Đảng ta. Đó là nguy
cơ lớn đe dọa sự sống còn của Đảng, của chế độ.
Sự tiên phong về lý luận là biểu hiện tập trung nhất sự tiên phong của Đảng.
Nhưng, ngay trên lĩnh vực quan trọng này cũng có những hẫng hụt không nhỏ. Sự phát
triển lý luận chưa đủ cung cấp cơ sở khoa học cho việc tìm ra những lời giải đáp đúng
đắn, kịp thời nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn trên đây
đang là một trở ngại lớn cho việc tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Tuy sau 20 năm đổi mới, nhiều vấn đề lý luận về CNXH và con
dường đi lên CNXH ở nước ta đã được làm sáng tỏ hơn, song cũng còn không ít vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu. Chẳng hạn:
Toàn cầu hoá kinh tế kéo theo toàn cầu hoá trên nhiều lĩnh vực khác. Hội nhập
kinh tế đòi hỏi phải hội nhập trên nhiều lĩnh vực khác, kể cả lĩnh vực văn hoá, chính trị.
Chẳng hạn, để làm ăn kinh tế với nhau, chúng ta phải điều chỉnh hệ chuẩn pháp luật
kinh tế, làm cho nó tương thích với hệ chuẩn kinh tế của nước đối tác mà phần lớn là tư
bản chủ nghĩa: Từ giác độ lý luận, độc lập, tự chủ trên các lĩnh vực này được hiểu như
thế nào, từ đó, thiết kế thực tiễn ra sao?
Trương Thanh Bình
Trang 17
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Những yếu tố quan trọng nhất quyết định tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh
tế thị trường ở nước ta là gì? Phải chăng, đó là: mục tiêu phát triển vì con người, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lại có ý kiến cho rằng, tiến bộ
và công bằng xã hội là mục tiêu quan trọng nhất, thể hiện tính chất xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phải đảm bảo công bằng xã hội trong tiếp cận các cơ
hội và nguồn lực để phát triển, trong phân bổ nguồn lực quốc gia, phân phối kết quả làm
ra, thực hiện điều tiết xã hội và phân phối lại.
Có cái gọi là những cơ chế vận hành có tính quy luật, tất yếu của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN không, hay chỉ có những cơ chế vận hành có tính quy luật,
tất yếu của nền kinh tế thị trường, không tuỳ thuộc vào chế độ xã hội? Nếu có sự phụ
thuộc vào tính chất xã hội, thì tính đặc thù của những cơ chế đó ở nước ta là gì?
Nhà nước đóng vai trò như thế nào trong quản lý nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN? Phải chăng, Nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo
môi trường kinh doanh thuận lợi và phát huy các nguồn lực đầu tư phát triển hay còn
phải trực tiếp quản lý doanh nghiệp Nhà nước và phần Nhà nước trong các loại doanh
nghiệp khác?
Sở hữu và thành phần kinh tế vẫn là vấn đề lớn. Phân định sở hữu như thế nào, 3
hình thức (toàn dân, tập thể, tư nhân) hay 4 hình thức (toàn dân, tập thể, tư nhân, hỗn
hợp), thậm chí là 5 hình thức (toàn dân, tập thể, tư nhân, hỗn hợp, sở hữu của nước
ngoài đang đầu tư ở nước ta, trong đó có thể có phần thuộc sở hữu Nhà nước của nước
ngoài)? Hơn nữa, nên gọi là "sở hữu toàn dân" hay để làm rõ trách nhiệm và quyền hạn
của người sở hữu, nên xác định là "sở hữu Nhà nước"? Có nên phân định thành phần
kinh tế, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân không? Hay nên phân định khu vực kinh tế,
hoặc phân định theo quy mô sản xuất - kinh doanh để dễ quản lý Nhà nước như hiện
nay bên Nhà nước vẫn phân định? Giải quyết như thế nào yêu cầu xoá bỏ triệt để mọi
hình thức phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế với tính tất yếu phải "đỡ đầu”
cho một số loại doanh nghiệp thiết yếu cần cho quốc kế dân sinh nhưng hiệu quả kinh tế
thấp?
Ngoài vai trò của các nhân tố chính trị, không có vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước thì không giữ vững được định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường. Nhưng, hiểu như thế nào về vai trò "chủ đạo" của kinh tế Nhà nước, khi mà ở
khu vực này, rất nhiều doanh nghiệp làm ăn với hiệu quả và sức cạnh tranh thấp? Điều
đó không chỉ ở nước ta, mà là hiện tượng tương đối phổ biến ở ngay những nước có nền
kinh tế phát triển thuần thục như những nước tư bản phát triển. Đây vẫn tiếp tục là vấn
đề trọng đại và bức xúc của đất nước trong nhiệm kỳ Đại hội X, vì nhiều doanh nghiệp
Nhà nước, hợp tác xã vẫn đang trong tình trạng làm ăn kém hiệu quả, tham nhũng nặng
nề và tình trạng mất đoàn kết trong bộ máy quản lý đang là phổ biến.
Trương Thanh Bình
Trang 18
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Hướng phát triển tới là thu hẹp hơn nữa diện doanh nghiệp Nhà nước, tập trung
vào một số lĩnh vực mà doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Song, trên
hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nếu doanh nghiệp tư nhân được làm thì phần lớn lại có
hiệu quả cao hơn. Vậy, về mặt lý luận, giải quyết vấn đề này như thế nào?
Thực tiễn 20 năm đổi mới cho thấy rằng, kinh tế tư nhân là một động lực khai
thác có hiệu quả mọi nguồn lực tiềm tàng trong xã hội để phát triển kinh tế, tạo việc
làm, xoá đói, giảm nghèo, là một động lực rất quan trọng để phát triển nền kinh tế nước
ta. Song, giải quyết như thế nào về mối quan hệ, sự tương hợp giữa kinh tế tư nhân là
phổ biến với chế độ chính trị XHCN, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân?
Đại hội IX đã xác định mục tiêu: "Đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Nhưng, điều chưa rõ là lấy những tiêu chí nào
để có thể xếp một nước vào hàng ngũ các nước công nghiệp hay hàng ngũ các nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, và đến đâu thì có thể coi là cơ bản trở thành một nước
công nghiệp hay một nước công nghiệp theo hướng hiện đại? Nếu không làm rõ vấn đề
này, ít nhất là về những tiêu chí chính, thì sẽ không có cơ sở để Đại hội X xác định
được mục tiêu cụ thể cho năm 2010 thoát khỏi nước nghèo, kém phát triển, "tạo nền
tảng" để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp và bước đi
cho các giai đoạn từ 2010 đến 2020.
Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả cao hơn, vấn đề hàng đầu đặt
ra là cần làm rõ hơn những yêu cầu, nội dung của nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế là thế nào? Đặc biệt là cần xác định cụ thể hai nhóm vấn
đề then chốt liên quan đến phạm vi và mức độ của tính độc lập tự chủ trong hội nhập
kinh tế quốc tế là: những vấn đề gì là những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh
cần cương quyết giữ vững, không được phép nhân nhượng trong các quan hệ hợp tác,
liên kết kinh tế quốc tế, những vấn đề gì, mặc dù cũng rất quan trọng, nhưng có thể
nhân nhượng có mức độ đủ phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế để đem lại lợi ích
cho đất nước? Hơn nữa, có nên thay khái niệm "nền kinh tế độc lập tự chủ" bằng khái
niệm "nền kinh tế tự chủ" không, khi khái niệm "độc lập” thường chỉ dùng theo nghĩa
về mặt chính trị.
Để tăng trưởng và phát triển kinh tế, cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực,
những vùng có điều kiện phát triển thuận lợi, thù lao cao cho người làm ăn có hiệu
quả Nhưng, vì vấn đề xã hội, có khi lại không thể làm như thế. Vậy, giải quyết như
thề nào mối quan hệ này để vừa có sự phát triền kinh tế thị trường nhanh, vừa giải quyết
tốt vấn đề xã hội? Tổng quát hơn, những điều kiện cơ bản bảo đảm tăng trưởng kinh tế
đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển ở nước ta là gì? Xử lý như thế nào mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và phân hoá giàu nghèo trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta?
Trương Thanh Bình
Trang 19
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn và những vấn đề có tính mâu thuẫn
trên đây là một điều kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa
nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
Trương Thanh Bình
Trang 20
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa nền kinh tế là xu hướng của thế giới, nếu không tham gia vào
tiến trình toàn cầu hóa thì sẽ trở thành người ngoài cuộc sẽ bị phân biệt đối xử trong
tiếp cận thị trường về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, sẽ rất khó khăn trong việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là trong bối cảnh
thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng kỹ thuật - công nghệ lần thứ 3. Điều quan trọng
nữa là quốc gia nào không tham gia vào tiến trình này, quốc gia đó sẽ không có địa vị
bình đẳng trong việc bàn thảo và xây dựng định chế của nền thương mại thế giới,
không có điều kiện để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình.
Nhận thức được vấn đề đó, Đảng và nhà nước ta đã tiến hành cải cách kinh tế,
mở cửa với bên ngoài, tham gia các vòng đàm phán để tiến đến gia nhập vào WTO
ngày 7/11/2006.Tuy nhiên, do những tác động của kinh tế thế giới và những bất cập,
yếu kém trong quản lý, điều hành kết hợp với các nguyên nhân nội sinh từ nền kinh
tế đã làm cho tình hình kinh tế của nước ta trong thời gian qua có những diễn biến
bất lợi như: Lạm phát cao, giá tiêu dùng tăng; nhập khẩu tăng mạnh, chênh lệch xuất
- nhập khẩu lên cao. Tình hình đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển sản xuất và
đời sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là những người làm công ăn lương và
người nghèo, đe doạ đến ổn định vĩ mô, tác động không thuận đến môi trường đầu
tư, kinh doanh.
Đứng trước tình hình này, chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng
tâm trong tình hình hiện nay là: Phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.
Có thể nói rằng: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn
đấu, chủ động tạo bước chuyển biến mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt
qua những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực
bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, nhất định đất
Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình tới các thầy cô giáo
trong khoa Kinh tế, Học viện báo chí và Tuyên truyền đã hướng dẫn và chỉ bảo để tôi
hoàn thành được tiểu luận này.
Trương Thanh Bình
Trang 21
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Bước đầu tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, xuất bản năm 2003, NXB
Chính trị quốc gia.
2- Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam:
3- Trang thông tin điện tử Bộ Công Thương:
Trương Thanh Bình
Trang 22
Tiểu luận: Xu hướng phát triển kinh tế thế giới, công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ
góc độ mâu thuẫn của quá trình phát triển.
MỤC LỤC
Tiêu đề Trang
Trương Thanh Bình
Trang 23