Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Đề cương ôn tập môn triết học mác – lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.85 KB, 31 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
PHẦN I: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Câu 1: Phân tích đặc điểm và những giá trị của triết học Hy Lạp cổ đại?
Trả lời:
1. Khái quát chung về Hy Lạp
Triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại là một trong những điểm xuất phát của lịch sử
triết học thế giới. Cho đến nay triết học Hy Lạp-La Mã vẫn sáng lên ánh hào quang
của những trí tuệ bách khoa kỳ diệu, của những khả năng tư duy triết học thiên tài
như Mác nói: “Người Hy Lạp mãi mãi vẫn là bậc thầy của chúng ta”.
Hy Lạp cổ đại là trung tâm của một nền văn minh, quê hương của một nền triết
học. Hy Lạp cổ đại có vị trí địa lý thuận lợi gồm toàn bộ bán đảo Bancăng thuộc châu
âu, cộng nhiều hòn đảo và ven biển Tiểu Á. Vị trí nằm trên con đường giao lưu trao
đổi hàng hố, phát triển thương nghiệp từ rất sớm, làm cho kinh tế Hy Lạp nhanh
chóng phồn thịnh, nhất là vào thế kỷ thứ 5,6 TCN đạt tới mức hoàn thiện, và Triết
học ra đời trong hoàn cảnh này. Xã hội Hy Lạp được tổ chức theo các thành bang
nằm trong quốc gia Hy lạp trong đó có hai thành bang mạnh nhất là thành bang Aten
và thành bang Spac. Các thành bang mâu thuẫn với nhau dẫn đến cuộc chiến tranh
Pôlôpône gần một thế kỷ, điều này đã làm cho Hy Lạp bị suy yếu. Do vậy, khi chiến
tranh xảy ra Hy Lạp không thể chống đỡ nổi, Hy Lạp bị La Mã thơn tính.
Chính sự sơi động của kinh tế và chiến tranh giữa các thành bang làm lịch sử
Hy lạp hết sức sôi động. Để tồn tại được trong lịch sử khẳng định mình, Hy Lạp đã
gồng mình lên phát triển tri thức, xây dựng cho mình một nền văn minh riêng với rất
nhiêu thành tưụ từ toán học, thiên văn học, vật lý học, triết học..
Tư tưởng triết học ra đời rất sớm ở Hy Lạp cổ đại, nhưng với tư cách là một hệ
thống (một nền) triết học hồn chỉnh, nó xuất hiện khoảng thế kỷ VII đến đầu thế kỷ
VI tr.CN.
Hy Lạp còn là quê hương của tốn học, văn học, thần thoại, của phong trào
Ơlimpíc. Những điều này cũng là nhân tố thúc đẩy cho triết học Hy Lạp cổ đại ra đời
và phát triển.
Do sự phát triển của kinh tế, nên sự phân công lao động diễn ra khá sâu sắc.
Điều này đã góp phần hình thành tầng lớp trí thức. Đây là yếu tố quan trọng thúc đẩy


sự phát triển của khoa học nói chung và triết học Hy Lạp cổ đại nói riêng. Trong xã
hội có hai giai cấp chủ yếu là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Trong giai cấp chủ nơ
sau này cũng có sự phân hóa thành chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc. Chính cuộc
đấu tranh giữa chủ nơ dân chủ và chủ nơ q tộc đã là những điều kiện chính trị quan
trọng cho cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học
Hy Lạp cổ đại nói riêng cũng như sự ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
nói chung.
2. Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
Dựa trên điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và sự phát triển của khoa học cũng
như chính sự phát triển của bản thân triết học Hy Lạp cổ đại. Có thể thấy, triết học
Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm cơ bản sau:
1. Triết học Hy Lạp là thế giới quan, ý thức hệ của giai cấp chủ nơ nhằm duy
trì xã hội theo kiểu chiếm hữu nô lệ, bảo vệ giai cấp chủ nô. Triết học của chủ nô, các
thành phần khác khơng có triết học.

1


Triết học Hy Lạp cổ đại là triết học của giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội
Hy Lạp khi ấy. Cho nên, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi mới ra đời đã mang tính
đảng, tính giai cấp sâu sắc. Điều này thể hiện ở cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm; giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình; giữa quan điểm
“có thể biết” và “khơng thể biết”... Dù là duy vật hay duy tâm nhưng tất cả các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại đều thuộc giai cấp chủ nô, đều bảo vệ chế độ chiếm hữu nô
lệ.
Triết học thể hiện khả năng tư duy, trừu tượng hoá, khái qt hố cao, do vậy
nó thể hiện một trình độ nhất định, phải có thời gian nghiền ngẫm, nghiên cứu, suy
tư… Điều này chỉ có giai cấp chủ nơ mới có điều kiện(kinh tế+tri thức+thời gian)…
do vậy triết học là triết học của giai cấp chủ nô, thể hiện thế giới quan và ý thức hệ
của giai cấp chủ nơ.

Trong xã hội chiếm hữu nơ lệ có hai giai cấp chính là chủ nơ và người nơ lệ.
Nơ lệ bị bóc lột trà đạp, bị chủ nơ coi là tài sản, là động vật biết nói, cơng cụ lao động
biết nói, họ bị đánh đập, bị bắt lao động, họ khơng có thời gian điều kiện, có tri thức
để mà suy tư, đưa ra lập luận để bảo vệ giai cấp mình. Họ bị giai cấp chủ nơ thống trị
cả về vật chât lẫn tinh thần.
2. Nội dung cơ bản của triết học Hy Lạp là cuộc đấu tranh giữa CNDV và
CNDT, giữa vô thần và hữu thần, giữa khoa học và tôn giáo tiêu biểu là cuộc đấu
tranh giữa đường lối Đêmơcrit và đường lối Platon
Cuộc đấu tranh hình thành các trường phái triết học, mỗi trường phái đại diện
cho mỗi tập đoàn xã hội nhất định. Tầng lớp chủ nô dân chủ đứng trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật, vô thần, đấu tranh thúc đẩy xã hội tiến lên. Cịn tầng lớp chủ nơ
q tộc đứng trên lập trường duy tâm tôn giáo, lạc hậu, chống lại tầng lớp chủ nơ dân
chủ nhằm duy trì trật tự xã hội và địa vị của mình.
Đấu tranh giữa quan điểm duy vật của Đêmơcrít và quan điểm duy tâm của
Platon. Triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi mới ra đời đã đề cập đến nhiều vấn đề
khác nhau thuộc về thế giới quan của người Hy Lạp cổ đại. Trước hết là những vấn
đề: Tồn tại là gì? Nguồn gốc của thế giới là gì? Cuộc đời và số phận con người như
thế nào?... và những vấn đề này luôn được giải quyết theo hai quan điểm trái ngược
nhau: hoặc là duy vật, hoặc là duy tâm.
3. Triết học Hy Lạp cổ đại chứa đựng mầm mống của nhiều thế giới quan hiện
đại sau này. Có đặc điểm này bởi triết học Hy Lạp cổ đại được nảy sinh từ nhiều
vùng khác nhau thuộc Hy Lạp cổ đại và nó phát triển đa dạng, phong phú, mang tính
“cách mạng đột biến”.
4. Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó chặt chẽ với khoa học đương thời. Các nhà
triết học đồng thời là các nhà khoa học. Vì vậy, đã xuất hiện quan điểm sai lầm cho
rằng: “triết học là khoa học của các khoa học”.
5. Trong triết học Hy Lạp cổ đại đã có tư tưởng biện chứng. Đỉnh cao là phép
biện chứng của Hêraclít. Mặc dù phép biện chứng này cịn ngây thơ, chất phác nhưng
đã là hình thức lịch sử đầu tiên của phép biện chứng duy vật và có ý nghĩa to lớn đối
với sự phát triển của tư duy biện chứng của nhân loại. Bởi ngay từ khi mới ra đời, nó

đã tìm cách giải thích thế giới như một chỉnh thể thống nhất trong đó các sự vật vận
động và biến đổi khơng ngừng. Hêraclít đã nhận ra một chân lý nổi tiếng: trong cùng
một thời điểm sự vật đồng thời là nó lại vừa là cái khác. Vì vậy, “khơng thể tắm hai

2


lần trong cùng một dịng sơng”. Mặc dù vậy, phép biện chứng cũng mới chỉ được
hiểu như là nghệ thuật tranh luận. Hoạt động thực tiễn của con người hầu như không
được bàn đến.
6. Triết học Hy Lạp cổ đại đề cập đến nhiều vấn đề con người và số phận con
người. Mặc dù các nhà triết học cịn có những ý kiến khác nhau về bản chất con
người, nhưng họ đều coi trọng con người, coi con người là tinh hoa cao quý của tạo
hóa, con người cần chinh phục tự nhiên để phục vụ cho mình. Chẳng hạn, Pitago cho
rằng: “Con người là thước đo của tất thảy mọi vật”. Tuy nhiên, con người thời kỳ cổ
đại được nhìn nhận chủ yếu với tổ chức cá thể; giá trị con người chủ yếu chỉ được
bàn đến ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp, nhận thức luận.
3. Giá trị
Những đặc điểm này không chỉ là cái phân biệt giữa hai nền triết học Đơng Tây cổ đại mà cịn tác động tới các giai đoạn phát triển của triết học Tây Âu sau này.
Ngồi ra nó cịn nói lên vị trí vai trị của nền triết học Hy Lạp cổ đại đối với lịch sử
triết học thế giới, nó làm phong phú tư duy triết học, chính nó đặt nền tảng cho sự
phát triển của triết chọ Tây Âu sau này.
Như vậy nền triết học Hi Lạp cổ đại đã được hình thành trên một hồn cảnh
lịch sử hết sức độc đáo và riêng biệt.Đó là một nrrnf triết học phong phú, rực rỡ,
nhiều màu sắc, nhiều trường phái và nhiều triết gia tiêu biểu.Chính vì vậy mà
Ăngghen đã nhận xét : “Từ những hình thức mn hình mn vẻ của triết học Hi Lạp
đã có mầm mống và đang nảy sinh hầu hết tất cả thế giới quan sau này”.

3



Câu 2: Đặc điểm và giá trị của triết học Ấn Độ cổ đại?
Trả lời:
1. Khái quát chung về Ấn Độ cổ đại
Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Triết học Ấn
Độ suy cho cùng là sự phản ánh xã hội Ấn Độ cổ đại – xã hội rất coi trọng và đề cao
tôn giáo, một xã hội rất mê triết lý.
Triết học Ấn Độ ra đời và phát cũng như các nền triết học khác đều dựa trên
những cơ sở nhất định:
Thứ nhất, điều kiện địa lý của môi trường của Ấn Độ rất đa dạng, phức tạp như
núi non hiểm trở, sa mạc khơ cằn, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hạn hán liên miên;
thêm vào đó, chiến tranh liên tục xảy ra đã làm cho dân cư và các bộ tộc ở Ấn Độ bị
phân hóa hết sức phức tạp. Đây là những yếu tố tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống, tâm tư, tình cảm của người dân Ấn Độ; điều đó đã buộc họ phải tìm đến, cầu
xin các lực lượng siêu nhiên, bên ngoài là Thượng đế cứu giúp. Các vấn đề tôn giáo,
tâm linh nảy sinh, tồn tại và phát triển trên mảnh đất hiện thực này.
Thứ hai, sự tồn tại dai dẳng của công xã nơng thơn và chế độ quốc hữu hóa
ruộng đất là hai đặc điểm lớn nhất, chi phối và ảnh hưởng tới toàn bộ các mặt lịch sử
của Ấn Độ, nhất là ảnh hưởng đến sự phát của văn hóa và triết học. Trên cơ sở
“phương thức sản xuất châu Á”, xã hội Ấn Độ được kết cấuvới ba nhóm cơ bản:
nhóm (thực chất là quan hệ gia đình, dịng họ), cộng đồng tự trị làng – xã và bang
(tiểu quốc) với chế độ đẳng cấp ngặt nghèo. Xét trong điều kiện tồn tại xã hội như
vậy thì triết học của Ấn Độ gắn chặt với vấn đề tôn giáo và tâm linh cũng là yếu tố
khách quan.
Thứ ba, quan hệ đẳng cấp ở Ấn Độ đã đã làm cho kết cấu xã hội - giai cấp
thêm phức tạp. Theo kinh điển Bàlamôn và Bộ luật Manu của Ấn Độ, trong xã hội có
bốn đặc cấp lớn: Tăng lữ; các đạo sỹ (Brahman); quý tộc; vương công, tướng sĩ, võ
sư (Ksatriya); tự do: thương nhân, điền chủ, thường dân (Vaisya); nơ lệ và tiện dân
(Ksudra). Ngồi ra cịn có hạng “cùng đinh” được coi là ngoài lề xã hội (Paria).
Thứ tư, triết học Ấn Độ không chỉ nảy sinh từ những cơ sở nêu trên mà còn

gắn với các thành tựu của khoa học, kỹ thuật và văn hóa của Ấn Độ. Tuy nhiên, do
các điều kiện về tự nhiên, về con người, về xã hội, về kinh tế, chính trị, văn hóa và
tơn giáo, tâm linh, nền triết học Ấn Độ đã có những đặc điểm đặc trưng riêng có.
Triết học Ấn Độ có nguồn gốc từ rất xa xưa và đến thế kỷ thứ VIII – thế kỷ VI
tr.CN, nó được tập trung trong Upanishad, sau đó nó phát triển rất mạnh mẽ và được
phân ra làm nhiều trường phái, khuynh hướng vừa đấu tranh vừa bổ sung cho nhau
tạo nên bức tranh nhiều màu sắc rực rỡ.
2. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại
Đặc điểm chung của triết học Ấn Độ được thể hiện:
1. Triết học Ấn Độ quan tâm đến nhiều vấn đề, nhưng vấn đề chủ yếu là vấn đề
con người, bởi vậy, nó là triết lý nhân sinh. Đặc điểm đặc biệt trong triết học Ấn Độ
là nó phân con người thành những yếu tố cấu thành, trong đó cái tâm có ý nghĩa
quyết định, từ đó hướng chủ yếu của nó là đi sâu nghiên cứu, phân tích cái tâm của
con người. Triết học Ấn Độ cho rằng muốn hiểu được thế giới thế giới trước hết phải
hiểu mình đã và khi đã hiểu mình thì hiểu tất cả vì bản thể vũ trụ có trong mỗi con
người.

4


2. Mục đích của triết học Ấn Độ là để đạt đến sự giải thoát, trừ bỏ chủ nghĩa
duy vật. Với mục đích giải thốt nên mỗi hệ thống triết học Ấn Độ là những con
đường khác nhau để đi đến giải thoát. Như vậy, triết học Ấn Độ giống như ngón tay
chỉ mặt trăng, như con đị để đưa lữ khách qua sơng. Do đó, triết học Ấn Độ là triết lý
sống, nó gắn liền với tơn giáo, tâm linh, là triết học của tôn giáo.
3. Nếu như nhận thức trong triết học phương Tây nhìn chung bắt đầu từ học
hỏi, tích lũy kiến thức và đi theo con đường từ đơn giản đến phức tạp, từ hiện tượng
đến bản chất, từ cảm tính đến lý tính... thì nhận thức trong triết học Ấn Độ lại bắt đầu
từ luân lý đạo đức (thanh lọc thân tâm), sau đó để tập trung tư tưởng (định), rồi mới
đến tuệ. Như vậy, trong triết học Ấn Độ, nhận thức gắn liền với đạo đức. Trong nhận

thức, triết học Ấn Độ lại đề cao việc tự nhận thức, tự hiểu. Điều này quy định tính
chất trực nhận, trức giác trong triết học Ấn Độ. Từ đó, một lơgic kéo theo là cơng cụ,
phương tiện nhận thức trong triết học Ấn Độ lại nghiêng về ẩn dụ hình ảnh; trong khi
đó, cơng cụ nhận thức của triết học phương Tây lại chủ yếu là khái niệm.
4. Triết học Ấn Độ vừa mang tính thống nhất, vừa mang tính đa dạng. Thống
nhất ở chỗ dù trực tiếp hay gián tiếp nó đều bị chi phối bởi quan niệm đồng nhất thể
của Upanishad; hầu hết các trường phái đều hướng đến giải thoát; một số nguyên lý
chung có ở nhiều trường phái. Đa dạng ở chỗ triết học Ấn Độ chia thành nhiều
khuynh hướng, nhiều nhánh nhỏ; trừ chủ nghĩa duy vật, mỗi trường phái là những
con đường khác nhau để đi đến giải thoát; nhiều vấn đề khác nhau được đặt ra ở
những trường phái khác nhau.
Trong thời kỳ này toàn bộ hệ thống triết học Ấn Độ được chia thành 9 trường
phái:
• Sáu trường phái “chính thống” là:
- Vedanta
- Mimansa
- Samkhya
- Yoga
- Vaisesika
- Nyaya
• Ba trường phái “khơng chính thống” là:
- Lokayata
- Jaina
- Buddha (Phật giáo)
5. Sự phát triển của triết học Ấn Độ là sự đấu tranh giữa các trường phái và suy
cho cùng nó phản ánh nhu cầu của đời sống xã hội trong đó tơn giáo là trung tâm
điểm. Mặt khác, sự phát triển của triết học Ấn Độ chủ yếu đi theo hướng tuần tự thay
đổi về lượng, tức những nguyên lý nền tảng đã được đặt ra từ thời cổ xưa, về sau chỉ
phát triển, bổ sung, hoàn thiện.
6. Biện chứng trong triết học Ấn Độ mang tính chất ngây thơ, duy tâm; sự phát

triển đi theo vòng tròn, tuần hồn. Điều này do cơng xã nơng thơn biệt lập, khép kín ở
Ấn Độ quy định.
7. Khác với triết học Trung Quốc, tư duy trong triết học Ấn Độ không trọng cái
cụ thể, hữu hạn; họ muốn vượt cái này để đi đến cái tuyệt đối.

5


3. Giá trị
Tóm lại, những đặc điểm cơ bản trên của triết học Ấn Độ là do điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội của Ấn Độ cổ đại quy định. Do các điều kiện tự nhiên, về con
người, về xã hội, về kinh tế, chính trị, văn hóa và tôn giáo, tâm linh, nền triết học Ấn
Độ đã trải qua nhiều bước thăng trầm, tạo nên nét đặc sắc mang bản chất rất Ấn Độ,
rất phương Đông.

6


Câu 3: Đặc điểm và giá trị của triết học cổ điển Đức?
Trả lời:
1. Khái quát chung
Vào thế kỷ 18 hầu hết các quốc gia Tây Âu đều phát triển theo con đường tư
bản chủ nghĩa riêng nước Đức vẫn là một quốc gia phong kiến điển hình, đức chia
thành 30 quốc gia riêng nhỏ lẻ, làm chậm lại, cản trở sự phát triển của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nó làm cản trở sự hợp nhất của giai cấp tư sản thành một
giai cấp thống nhất, cản trở sự phát triển chung của nước Đức.
Chiến tranh giữa các lãnh địa phong kiến, chiến tranh giữa Đức với nước bên
ngồi nổ ra liên miên. Triều đình TW (phong kiến tập quyền vua Phổ) tăng cường
đàn áp nhân dân bóp chết mầm mống cách mạng ở trong nước. Trong khi đó, thiên
tai mất mùa xảy ra dẫn đến hình ảnh một nước Đức kém phát triển, trì trệ, lạc hậu, già

cỗi, năng suất lao động kém phát triển,đời sống nhân dân vơ cùng khó khăn, cả nước
chìm trong bầu khơng khí bất bình của quần chúng.
Các nhà tư tưởng chỉ có thể làm cuộc cách mạng trong tư tưởng.
Thế kỷ 18, khoa học tự nhiên phát triển với các phát minh quan trọng như định
luật bảo toàn năng lượng, phát hiện bản chất dòng điện, hiện tượng điện phân, khám
phá từ trường xung quanh vật mang điện tích….Điều này đã chứng tỏ tính chất biện
chứng vốn có của thế giới, chứng tỏ các sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn vận
động không ngừng, liên hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Phương pháp siêu hình tỏ ra bất lực khi nghiên cứu những vấn đề này, phải
nghiên cứu thế giới bằng phương pháp biện chứng, đặt ra nhu cầu thúc ép ra đời một
phương pháp nghiên cứu mới phương pháp tư duy biện chứng.
2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Thứ nhất là, triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai tư sản
Đức cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức thể hiện nguyện vọng đấu tranh cho một trật tự xã hội
mới ở Đức, mong muốn sự phồn thịnh và thống nhất đất nước. Nhưng tính cách mạng
và khoa học về tư tưởng ấy mâu thuẫn với sự bảo thủ, cải lương về lập trường chính
trị - xã hội.
Giai cấp tư sản Đức ra đời trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội đặc biệt của
nước Đức, lực lượng còn nhỏ bé, yếu ớt, manh nha, họ mơ tưởng về cuộc cách mạng
tư sản ở Anh, Pháp, nhưng họ không dám làm cuộc cách mạng trong thực tế, họ chỉ
dám suy tư, mơ tưởng về cách mạng, chỉ dám thực hiện cuộc cách mạng trong đầu
óc, tinh thần, tư tưởng. Các tư tưởng Đức đặt lý tưởng vào sự hoà giải giữa chế độ cũ
và chế độ mới, vào chỗ thay đổi trật tự cũ một cách tiệm tiến, vào chỗ đổi mới bằng
con đường cải lương. Họ phủ nhận sự cải tạo xã hội bằng cách mạng.
Thứ hai là, triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trị tích cực của hoạt động
còn người, coi con người là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết họ.
Các nhà triết học cổ điển Đức theo những cách khác nhau, họ đều khẳng định
con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của q trình hoạt động của chính mình, tư
duy và ý thức của con người chỉ phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải

tạo thế giới. Tuy nhiên, họ đề cao sức mạnh của trí tuệ con người, thần thánh hóa con

7


người đến mức coi con người là chúa tể của tự nhiên, bản thân giới tự nhiên cũng chỉ
là kết quả hoạt động của con người (trong triết học của Kant), ý thức con người đã
được thần thánh hóa biến thành lực lượng siêu nhiên chi phối toàn vũ trụ (trong triết
học của Hêghen), tình yêu con người trở thành cơng cụ, phương tiện giải phóng (triết
học Phoiơbắc). Đây là một trong những nguyên nhân làm cho triết học cổ điển Đức
có tính duy tâm. Hơn nữa, triết học Đức khơng phản ánh trực tiếp hiện thực của mình,
các ngun lý triết học là kết quả suy lý chủ quan thuần túy. Những điều đó đẩy triết
học cổ điển Đức rơi vào lập trường duy tâm.
Mặc dù vậy, quan niệm khẳng định lịch sử là phương thức tồn tại của con
người, mỗi cá nhân hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình (Cantơ), con người là một
sản phẩm của một thời đại nhất định, mang bản chất xã hội (Hêghen), con người là
sản phẩm của con người, của văn hóa và lịch sử (Phoiơbắc)… là những quan niệm
mang tầm vóc khác hẳn triết học của các giai đoạn trước đó.
Thứ ba, phép biện chứng là thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức.
Trong triết học cổ điển Đức tư tưởng biện chứng đã được diễn đạt dưới dạng
những khái niệm, phạm trù, quy luật và chúng được sắp xếp theo một logic nội tại
của hệ thống tạo ra phép biện chứng. Phép biện chứng cổ điển Đức có những đặc
điểm sau: nó coi tri thức là một dịng chảy liên tục, có kế thừa và phủ định để tiến
lên; coi việc chia nhỏ thế giới ra để nghiên cứu một cách sâu sắc hơn là cần thiết,
song những tri thức riêng lẻ phải được tổng hợp lại để hiểu thế giới trong chỉnh thể;
nó địi hỏi tư duy phải vượt qua trình độ siêu hình, những thói quen của tư duy thơng
thường, địi hỏi tư duy phải vượt qua trình độ trực quan, cảm tính…; phép biện chứng
của triết học cổ điển Đức đặc biệt phép biện chứng của Heghen bao quát mọi lĩnh vực
của thế giới. Tuy nhiên phép biện chứng của triết học cổ điển Đức là phép biện chứng
chưa triệt để.

Thứ tư, hầu hết các hệ thống triết học đều mang tính chất duy tâm, tự biện.
Ngoại trừ triết học Phoiơbắc (mặc dù triết học này cũng duy tâm về mặt xã hội)
thì thế giới quan của các nhà triết học Đức hầu hết là chủ nghĩa duy tâm. Họ thường
sáng tạo ra những hệ thống triết học rất trừu tượng thần bí, tách khỏi đời sống hiện
thực, nó khơng phản ánh hiện thực đất nước, chỉ là cuộc cách mạng diễn ra trong tư
tưởng. Hơn nữa việc tuyệt đối hố khả năng trí tuệ, sùng bái lý tính cũng dẫn tới kết
quả tự nhiên là một chủ nghĩa duy tâm trong lý giải tự nhiên và xã hội.
Thứ năm, các hệ thống triết học cổ điển Đức đều được xây dựng trên cơ sở hệ
thống hố tồn bộ tri thức của nhân loại, coi triết học là khoa học của các khoa học.
Các triết gia cổ điển Đức đã tiếp thu di sản tư tưởng phong phú của các nhà
khai sáng Anh, Pháp…khắc phục những sai lầm của họ, đặc biệt là sai lầm về phương
pháp. Những tinh tuý của triết học nhân loại gắn với xôcrat, hêracrit, platon.. được
xem như những chất liệu tiền đề trên các phương diện bản thể luận, nhận thức luận,
phương pháp luận của các hệ thống triết học cổ điển Đức; Các phát minh khoa học
cũng thể thiện trong triết học(Canto, Heghen,Senlinh).
Tham vọng coi triết học là khoa học bao trùm mọi khoa học khác vẫn là sự thể
hiện truyền thống quá sùng bái lý tính ở châu Âu, nhưng khơng thể khơng phủ nhận
tính chất phong phú, rộng lớn, sâu sắc, bao quát các phương diện tri thức của các hệ
thống triết học cổ điển Đức.
Một số triết gia tiêu biểu

8


Cantơ, Hêghen, Phoiơbắc là những đại biểu lớn của triết học cổ điển Đức đóng
vai trị quan trọng trong sự phát triển triết học vào cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế
kỷ XIX góp phần làm cho triết học cổ điển Đức trở thành một tiền đề lý luận trực tiếp
cho sự ra đời của triết học Mác.
Imanuen Cantơ (1724 – 1804)
Nét nổi bật trong triết học của Cantơ là đã trình bày những quan niệm biện

chứng của mình về giới tự nhiên. Trong tác phẩm Lịch sử tự nhiên phổ thông và lý
thuyết bầu trời ông đã nêu giả thuyết có giá trị về sự hình thành của vũ trụ bằng các
cơn lốc và kết tụ của các khối tinh vân. Cantơ cũng đưa ra một luận đề sau này được
khoa học chứng minh về ảnh hưởng lên xuống của thuỷ triều do lực hấp dẫn giữa trái
đất và mặt trăng gây ra đã ảnh hưởng tới trái đất, làm cho vòng xoay của trái đất
quanh trục của nó mỗi ngày một chậm lại. Ăngghen đã đánh giá những phỏng đốn
của Cantơ là sự cơng phá vào quan điểm siêu hình (kể cả trong triết học và khoa học).
Triết học Cantơ là triết học nhị nguyên. Một mặt ông thừa nhận sự tồn tại của
thế giới các “vật tự nó” ở bên ngồi con người. Thế giới đó có thể tác động tới các
giác quan của chúng ta. ở điểm này, Cantơ là nhà duy vật. Nhưng mặt khác thế giới
các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại khơng liên quan gì đến cái gọi là “thế giới
vật tự nó”, chúng chỉ là “các hiện tượng… phù hợp với cái cảm giác và cái tri thức do
lý tính của ta tạo ra. Nhưng các cảm giác và tri thức khơng cung cấp cho ta hiểu biết
gì về “thế giới vật tự nó”. Nói cách khác, theo Cantơ nhận thức con người chỉ biết
được hiện tượng bề ngồi mà khơng xâm nhập được vào bản chất đích thực của sự
vật, khơng phán xét được gì về sự vật như chúng tự thân tồn tại. Như vậy trong lĩnh
vực nhận thức luận, Cantơ là một đại biểu tiêu biểu của thuyết “khơng thể biết” (mặc
dù có khác với thuyết “không thể biết” của Hium). Nhận thức luận của Cantơ có tính
chất duy tâm là sự phản ứng đối với chủ nghĩa duy vật Pháp, là sự khôi phục Thượng
đế. Ơng nói rằng, trong nhận thức cần hạn chế phạm vi của lý tính để dành cho đức
tin.
Khi nhận xét về tính khơng nhất qn mâu thuẫn trong triết học của Cantơ,
Lênin đã nói rằng, triết học đó là sự dung hoà chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy
tâm, thiết lập sự thoả hiệp giữa hai chủ nghĩa đó, kết hợp hai khuynh hướng triết học
khác nhau và đối lập nhau trong một hệ thống duy nhất.
Gioócgiơ Vinhem Phriđrích Hêghen (1770 – 1831)
Hêghen nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Triết
học của ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp
lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của
ơng phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong, vốn có của sự

phát triển của tự nhiên và xã hội. Ông cho rằng khởi nguyên của thế giới không phải
là vật chất mà là “niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Tính phong phú, đa dạng
của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. ý
niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. “ý niệm tuyệt đối”, theo nhận xét của Lênin, chỉ là
một cách nói theo đường vịng, một cách nói khác về Thượng đế mà thơi.
Hêghen đã có cơng trong việc phê phán tư duy siêu hình và ơng là người đầu
tiên trình bày tồn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa
là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Đồng thời trong khuôn khổ
của hệ thống triết học duy tâm của mình. Hêghen khơng chỉ trình bày các phạm trù

9


như chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn… mà cịn nói đến cả các quy luật như “lượng
đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “phủ định của phủ định”, và quy luật mâu thuẫn.
Nhưng tất cả những cái đó chỉ là quy luật vận động và phát triển của bản thân tư duy,
của ý niệm tuyệt đối.
Trong các quan điểm xã hội, Hêghen đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa
sôvanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là “hiện thân
của tinh thần vũ trụ mới”. Chế độ Nhà nước Phổ đương thời được Hêghen xem nó
như đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật.
Tóm lại, hệ thống triết học của Hêghen (gồm ba bộ phận chính: lơgíc học, triết
học về tự nhiên, triết học về tinh thần) là một hệ thống duy tâm, mà thực chất của nó
“là ở chỗ lấy cái tâm lý làm điểm xuất phát, từ cái tâm lý suy ra giới tự nhiên”
(Lênin). Hệ thống triết học duy tâm đó cùng với các quan điểm chính trị phản động
của Hêghen đã được các nhà lý luận tư sản kế thừa và phát triển dưới các hình thức
khác nhau. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, chủ nghĩa “Hêghen mới” đã trở thành
xu thế điển hình của triết học tư sản và là một bộ phận của hệ tư tưởng phátxít.
Tuy nhiên, phép biện chứng của Hêghen đã mâu thuẫn với hệ thống triết học
duy tâm của ông và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của triết học

mácxít.
Lútvích Phoiơbắc (1804 – 1872)
Phoiơbắc nhà duy vật chủ nghĩa kiệt xuất thời kỳ trước Mác, đại biểu nổi tiếng
của triết học cổ điển Đức, nhà tư tưởng của giai cấp tư sản dân chủ Đức. Phoiơbắc đã
có cơng lớn trong việc phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen cũng như chủ nghĩa
duy tâm và tơn giáo nói chung, khơi phục vị trí xứng đáng của triết học duy vật.
Khi chống lại luận điểm duy tâm của Hêghen coi giới tự nhiên là “tồn tại khác”
của tinh thần, Phoiơbắc đã chứng minh thế giới là vật chất, giới tự nhiên tồn tại ngồi
con người khơng phụ thuộc vào ý thức con người, là cơ sở sinh sống của con người.
Giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại, vận động nhờ những cơ sở bên trong
nó.
Triết học của Phoiơbắc mang tính chất nhân bản. Nó chống lại nhị nguyên luận
về sự tách rời giữa tinh thần và thể xác, ông coi ý thức tinh thần cũng là một thuộc
tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là óc người. Từ đó cho phép khẳng định mối
quan hệ khăng khít giữa tồn tại và tư duy.
Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoiơbắc cịn thể hiện ở chỗ ơng đấu
tranh chống các quan niệm tơn giáo chính thống của đạo Thiên chúa, đặc biệt quan
niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học
cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định, chính con người sáng tạo ra
Thượng đế. Khác với Hêghen nói đến sự tha hóa của ý niệm tuyệt đối, Phoiơbắc nói
đến sự tha hóa của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng, bản chất tự
nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện, nghĩa là hướng tới những
cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế
những cái đó con người khơng đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình
vào hình tượng Thượng đế. Từ đó Phoiơbắc đã đi đến phủ nhận mọi thứ tôn giáo và
thần học về một vị Thượng đế siêu nhiên, đứng ngoài, sáng tạo ra con người, chi phối
cuộc sống con người.

10



Triết học của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Chẳng hạn, khi ơng địi hỏi
triết học mới – triết học nhân bản, phải gắn liền với tự nhiên thì đồng thời đã đứng
luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con
người và xã hội. Con người, theo quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng,
phi xã hội, mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của
Phoiơbắc, do đó, cũng chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ơng nói rằng,
bản tính con người là tình u; tơn giáo cũng là một tình u. Do vậy, khi thay thế
cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một thứ tơn giáo
mới phù hợp với tình u của con người.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phoiơbắc đã
khơng biết rút ra từ đó cái “hạt nhân hợp lý”, mà đã vứt bỏ luôn cả phép biện chứng
của Hêghen.
Mặc dù còn những hạn chế, triết học của Phoiơbắc vẫn có ý nghĩa to lớn trong
lịch sử triết học và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng của triết
học Mác.
3. Giá trị
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó đã tạo
ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Thành quả lớn nhất của nó là
những tư tưởng biện chứng đạt tới trình độ một hệ thống lý luận – điều mà phép biện
chứng thời cổ đại Hy Lạp đã chưa có thể đạt tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII –
XVIII Tây Âu cũng khơng có khả năng tạo ra.
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là tính chất duy tâm,
nhất là duy tâm khách quan của Hêghen, còn chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc thì xét
về thực chất khơng vượt qua được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII
– XVIII Tây Âu.
Giá trị của triết học Đức đối với sự ra đời của triết học Mác
Triết học cổ điển Đức tiền đề lý luận trực tiếp, là sự chuẩn bị cho sự ra đời triết
học Mác – Lê nin, nó đã được triết học Mác kế thừa một cách có phê phán và nâng
lên ở trình độ mới của chủ nghĩa duy vật hiện đại.

Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với các tác phẩm của hai nhà triết học Hêghen
và phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
C. Mac và Ph. Ănghen đã đánh giá cao tư tưởng biện chứng của Hêghen. Mác
cho rằng ở Hêghen biện chứng bị lộn đầu xuống đất, chỉ cần dựng nó lại sẽ phát hiện
được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí.
Mác đã dựa vào chủ nghĩa duy vật mà trực tiếp là chủ nghĩa duy vật của của
phoiơbăc, đồng thời cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính siêu hình và những
hạn chế lịch sử, từ đó Mác va Ănghen xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong
đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ là chủ
nghĩa duy vật biện chứng, một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ
nghĩa duy vật triết học.

11


Câu 4: Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Mác – Ăng
ghen thực hiện?
Trả lời:
* Thực chất:
Sự ra đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong
lịch sử phát triển triết học của nhân loại.
- Mác và Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy
nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, khơng điều hịa với chủ
nghĩa duy tâm và siêu hình, khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử phát triển của triết học.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác không phải là sự lắp ghép phép biện
chứng của hêghen với chủ nghĩa duy vật Phoiơbách. Để xây dựng triết học duy vật
biện chứng, Mác đã phải cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ, cả ghép biện chứng duy tâm
của Hêghen. Tạo nên sự thống nhất hữu cơ không thể tách rời giữa chúng, đó là triết
học duy vật biện chứng.

- Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại của cuộc cách mạng
mà Mác và Ăngghen thực hiện trong triết học.
- Các nhà triết học trước Mác, kể cả Phơ bách đều dừng lại ở quan điểm duy
tâm về lịch sử thì từ lập trường duy vật triệt để, xem xét xã hội loài người trong sự
thống nhất hữu cơ với giới tự nhiên, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn
bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội
loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại của tư tưởng khoa
học.
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sản xuất vật chất chính là yếu tố quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Quan điểm duy vật lịch sử là một cuộc cách
mạng thật sự trong triết học về xã hội, yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà
Mác và Awnghen đã thực hiện trong triết học.
Mặt khác, sự ra đời của triết học Mác cũng khắc phục sự đối lập giữa triết học
với hoạt động thực tiễn của con người, “Các nhà triết học đã giải thích thế giới bằng
nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”.
Luận điểm đó của Mác nói lên sự khác nhau về chất giữa triết học của ông với
các học thuyết triết học trước kia, kể cả những học thuyết triết học tiến bộ. Mác cũng
cho rằng “Khuyết điểm chủ yếu” của mọi học thuyết duy vật trước Mác là chưa trở
thành công cụ nhận thức khoa học để cải tạo thế giới bằng cách mạng.
Triết học Mác đã khắc phục được những hạn chế đó, đi tới chủ nghĩa duy vật lịch sử
làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để.
- Mác và Awnghen đã sáng tạo ra hệ thống triết học ra đời từ thực tiễn kinh tế
- chính trị - xã hội nhận thức nửa đầu thế kỉ XIX ở Tây Âu, sau khi ra đời, chủ nghĩa
Mác trở thành vũ khí lý luận, của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai
cấp tư sản.
Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo nên
bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác. Sức mạnh cải
tạo thế giới của triết học Mác xít chính là ở sự gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản cách mạng và quần chúng nhân dân đơng đảo, nhờ đó lý luận trở
thành lực lượng vật chất.


12


- Vai trò cách mạng to lớn của Triết học Mác được nâng cao cịn vì sự thống
nhất tính khoa học với tính cách mạng trong bản thân lý luận của nó. Sự thống nhất
hữu cơ chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng làm cho triết học mác xít mang tính
chất cách mạng sâu sắc nhất
* Ý nghĩa:
- Cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện đã làm cho
chủ nghĩa xã hội không tưởng trở thành khoa học.
Triết học Mác xác định được một cách khoa học lực lượng xã hội thực hiện lý
tưởng chủ nghĩa xã hội , đó là giai cấp cơng nhân – giai cấp tiến bộ và cách mạng
nhất, giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động. Đồng thời
để thực hiện được lý tưởng đó cần thực hiện đấu tranh giai cấp lật đổ giai cấp thống
trị, do đó đã biến chủ nghĩa không tưởng trở thành khoa học.
- Cuộc cách mạng này cũng làm triết học thay đổi cả về vai trị, vị trí, chức
năng, chấm dứt tham vọng của nhiều nhà triết học coi triết học là “khoa học của các
khoa học” đứng trên mọi khoa học, giờ đây, triết học cũng là một khoa học như mọi
khoa học khác. Mác và Angwghen đã xây dựng lý luận triết học của mình dựa trên cơ
sở khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
- Triết học mác ra đời đã trở thành một thế giới quan khoa học và phương
pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của các khoa học, trở thành công cụ nhận
thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng chứng tỏ cần thiết phải
có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại, phải phát triển lý luận triết học của chủ
nghĩa Mác dựa trên những thành tựu khoa học hiện đại.

13



PHẦN II: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Câu 1: Cơ sở triết học và nội dung của quan điểm khách quan?
Trả lời:
I. Cơ sở triết học
Thực chất quan điểm khách quan trong nhận thức và thực tiễn chính là mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
1. Khái niệm
- “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người
một cách năng động, sáng tạo.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
CNDVBC khẳng định ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, nhưng sau khi
ra đời thì ý thức có tính độc lập khách quan cho nên nó tác động to lớn trở lại vật chất
thơng qua hoạt động thực tiễn của con người. vì vậy chúng ta phải tôn trọng thực tế
khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
a. Sự quyết định của vật chất đối với ý thức
Biểu hiện:
- VC (xét đến cùng) là cái có trước, sinh ra và quyết định YT.
- Nguồn gốc TN và nguồn gốc XH cho thấy VC (xét đến cùng) là cái có trước
và sinh ra YT.
- VC quyết định nội dung phản ánh của YT
- VC quyết định sự biến đổi và phát triển của YT…
- VC quyết định khả năng, phạm vi tác động tích cực trở lại của YT đối với
VC.
b. Ý thức có tính năng động, tác động tích cực trở lại VC:
+ YT tác động trở lại VC, nhưng phải thông qua việc chỉ đạo các hoạt động vật
chất (thực tiễn) của con người…, khi đó nó sẽ trở thành LL VC => tác động lại VC…

+ YT tác động trở lại VC theo hai chiều: tích cực và tiêu cực
Tác động tích cực: Nếu YT P/á đúng các đối tượng vật chất, thì nó sẽ giúp cho
con người hoạt động phù hợp với các QL K/Q và lợi dụng được chúng => biến các
lực lượng VC của TN và XH… thành sức mạnh của con người…, khi đó nó sẽ thúc
đẩy và tạo Đ/K thuận lợi cho VC P/triển theo hướng có lợi cho con người…
VD: KH => Các thành tựu KH – CN: CN Điện tử - Tin học - Viễn thông; CN
vật liệu mới; CN sinh học …
Tác động tiêu cực: Nếu YT P/á sai, thiếu sót đối với các khách thể VC thì nó sẽ
làm cho các hoạt động của con người khơng phù hợp, thậm chí đi ngược lại các quy
luật khách quan của VC => khi đó nó sẽ kìm hãm và gây khó khăn cho sự P/triển của
VC theo hướng có lợi cho con người…, gây nhiều tác hại cho SX và Đ/s. VD: Những
thiếu sót của KH và YT con người đã gây ra những hậu quả rất to lớn, như: Cạn kiệt
các nguồn tài nguyên…; Ô nhiễm MT; Mất cân bằng sinh thái...
+ YT tác động trở lại VC, nhưng chỉ trong phạm vi, điều kiện VC cho phép,
chứ khơng phải vơ điều kiện…, nó chỉ có thể thúc đẩy hay kìm hãm, tạo Đ/K thuận
lợi hay gây K/khăn cho sự P/triển của VC, chứ không thể sinh ra hay tiêu diệt các

14


Q/luật của VC được. Tuy nhiên sự tác động trở lại của YT đối với VC ngày càng to
lớn, trực tiếp và mạnh mẽ hơn, do sự P/triển ngày càng cao của YT con người, mà
trước hết là KH-CN và VH…
II. Nội dung quan điểm khách quan
1. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nhận thức đúng đắn, khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức của triết học Mác – Lênin, rút ra nguyên tắc phương pháp luận là: “Tôn
trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan”. Tơn trọng khách
quan tức là tơn trọng vai trị quyết định của vật chất, cịn phát huy tính năng động chủ
quan tức là phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức, cũng tức là phát

huy vai trị tích cực của nhân tố con người trong mọi hoạt động xã hội. Đây chính là
một trong những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất, quan trọng nhất chỉ đạo
mọi hoạt động trong nhận thức và thực tiễn của con người, thể hiện như sau:
- Trong nhận thức:
+ Do vật chất (xét đến cùng) là cái có trước, sinh ra và quyết định đối với ý
thức, cho nên để nhận thức đúng và đầy đủ hơn bản chất của sự vật, hiện tượng,
chúng ta phải đi sâu nghiên cứu và tìm ra được những nguyên nhân vật chất sâu xa
của chúng, tránh việc chỉ dùng những nguyên nhân tinh thần để giải thích, sẽ rơi vào
chủ nghĩa duy tâm, khơng thể nhận thức được bản chất thực sự của chúng…
+ Ngược lại, do ý thức có tính năng động, cho nên trong nhận thức các sự vật,
hiện tượng, chúng ta cũng phải tính tới các ngun nhân tinh thần, có ảnh hưởng tới
vật chất, hoặc quá trình nghiên cứu chúng, nhất là đối với các hiện tượng xã hội,
tránh việc chỉ sử dụng duy nhất các nguyên nhân vật chất để giải thích, sẽ rơi và chủ
nghĩa duy vật tầm thường, khơng giải thích được đầy đủ bản chất của chúng, nhất là
đối với các hiện tượng xã hội…
- Trong thực tiễn:
+ Do vật chất (xét đến cùng) là cái có trước, sinh ra và quyết định đối với ý
thức, cho nên chúng ta phải tìm ra được các điều kiện và phương tiện vật chất thích
hợp để giải quyết hiệu quả các vấn đề của thực tiễn. Chống chủ quan, duy ý chí, nóng
vội, đốt cháy giai đoạn…
+ Do ý thức có tính năng động, sáng tạo, cho nên trong thực tiễn chúng ta cũng
phải phát huy tính năng động chủ quan của ý thức để chủ động tìm kiếm cách thức,
phương pháp, phương tiện… phù hợp, nhằm đạt tới mục đích một cách nhanh nhất,
hiệu quả nhất. Đồng thời cũng phải chống thái độ thụ động, bó tay trước hồn cảnh,
hoặc trông chờ, ỷ lại vào người khác làm thay, làm hộ…
2. Sự vận dụng nguyên tắc: “Tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính
năng động chủ quan” vào thực tiễn đổi mới ở Việt nam.
a. Vận dụng nguyên tắc: “Tôn trọng khách quan” (tức vai trò quyết định của vật chất
đối với ý thức) vào thực tiễn đổi mới ở nước ta.
- Trước đổi mới, trong khoảng 10 năm sau khi giải phóng miền Nam, thống

nhất đất nước (1976 – 1986), Đảng ta đã mắc sai lầm trầm trọng là: “chủ quan, duy ý
chí” dẫn đến “nóng vội, đốt cháy giai đoạn”...
Áp dụng máy móc, dập khn mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu “Liên – Xơ”,
Đảng ta mắc đã sai lầm trong việc “đưa quan hệ sản xuất đi trước, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển”, nhưng thực chất là xây dựng một quan hệ sản xuất xã hội

15


chủ nghĩa “giả tạo”, khơng phù hợp với trình độ còn rất thấp của lực lượng sản xuất,
nên đã gây ra sự kìm hãm, thậm chí phá hoại đối sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi đó chúng ta đã nơn nóng xóa bỏ các thành phần kinh tế gọi là “phi xã hội chủ
nghĩa” để thực hiện một nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa thống nhất, chỉ có 2
thành phần xã hội chủ nghĩa là “Kinh tế tồn dân và kinh tế tập thể”. Điều đó đã làm
triệt tiêu mọi động lực của sản xuất.
Đảng cũng mắc sai lầm khi thực hiện nguyên tắc “Đảng lãnh đạo toàn diện
cách mạng Việt Nam”, thành ra Đảng làm thay, làm hộ Nhà nước, dẫn đến quản lý
Nhà nước rất yếu kém, không tạo được môi trường, thể chế phù hợp cho sự phát triển
kinh tế...
Chúng ta còn sai lầm là đóng cửa nền kinh tế, nhất là đối với các nước tư bản
chủ nghĩa, nên không lợi dụng được những thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến
của thời đại...
Đó chính là những ngun nhân cơ bản, mang tính chủ quan, làm cho nước ta
rơi vào “tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng kinh tế - xã hội; sản xuất đình
đốn, lạm phát tăng vọt, đất nước bị bao vây về kinh tế, đời sống nhân dân hết sức
khó khăn, lịng tin giảm sút”.
- Trong q trình đổi mới, nắm vững và vận dụng đúng đắn ngun tắc: “Tơn
trọng khách quan”, từ Đại hội tồn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã rút ra bài học:
“Phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng sự thật khách quan và hành động
theo quy luật khách quan”. Bài học này đã được quán triệt trong suốt quá trình đổi

mới, thể hiện trên các mặt:
+ Chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phân phối thực sự theo lao động.
+ Đảng lãnh đạo phải thông qua quản lý của nhà nước bằng pháp luật và đảm
bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động...
+ Mở cửa giao lưu, hội nhập kinh tế và văn hóa với thế giới…
b. Vận dụng nguyên tắc: “đồng thời phát huy tính năng động chủ quan” (tức tính
năng động của ý thức) vào thực tiễn đổi mới ở Việt Nam.
- Trước đổi mới, cùng với sai lầm “Chủ quan, duy ý chí”, Đảng ta cịn mắc sai
lầm, thiếu sót rất lớn là “thụ động, giáo điều, dập khn, máy móc... ”. Biểu hiện rõ
nhất là thực hiện rập khn mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu “Liên - xô”, đồng thời lại
thiếu tinh thần tự lực cánh sinh. Mọi việc từ xây dựng kế hoạch phát triển cho đến tìm
nguồn lực thực hiện… đều trơng chở ỷ lại vào sự giúp đỡ của Liên – xô và các nước
anh em. Tất cả những lực lượng sản xuất, từ con người đến tư liệu sản xuất hiện có
đều bị coi là cũ kỹ, lạc hậu…, muốn bỏ đi và thay thế bằng những lực lượng sản xuất
tiên tiến, hiện đại…
Đó cũng chính là một trong những ngun nhân chủ yếu gây ra sự trì trệ, thậm
chí phá hoại… trong phát triển về mọi mặt của đất nước.
Trong q trình đổi mới, từ 1986, để phát huy tính năng động chủ quan của ý
thức, Đảng ta đã đề ra đường lối “Đổi mới tư duy”, và coi đó là tiền đề của mọi sự
đổi mới đất nước. Đường lối “Đổi mới tư duy” được thể hiện trên các mặt chủ yếu
sau đây:
- Về tư tưởng, vẫn khẳng định “Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam”..., nhưng phải tiếp tục nghiên cứu, nhận thức

16


đầy đủ và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta, nhất là trong điều kiện hội nhập
quốc tế hiện nay... Nâng cao trình độ lý luận, trình độ khoa học - công nghệ của cán

bộ, đảng viên, và người lao động…, được coi là nội dung cơ bản trong việc xây dựng
con người mới Việt Nam đáp ứng u cầu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất
nước từng bước tiến vào nền kinh tế tri thức.
- Về chính trị: Giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chống
“đa nguyên, đa đảng”; trên cơ sở đó đảm bảo “Ổn định chính trị để phát triển kinh
tế”; Chuyển từ đối đầu sang đối thoại…, giải quyết hịa bình các quan hệ quốc tế…,
trên cơ sở nền an ninh, quốc phòng vững mạnh.
- Về văn hóa – khoa học: Để phát triển “Sức mạnh mềm”, tức là sức mạnh của
tri thức khoa học và văn hóa, Đảng ta đã đề ra đường lối: Đưa khoa học – công nghệ
và giáo dục – đào tạo thành quốc sách hàng đầu, xây dựng xã hội học tập, xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc…, nhằm phát huy vai trò của
ý thức, thông qua nhân tố con người, đưa đất nước từng bước đi vào kinh tế tri thức,
thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững.
c. Những thành công và hạn chế của việc vận dụng nguyên tắc “Tôn trọng khách
quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan” trong thực tiễn đổi mới của nước
ta.
- Những thành công:
Nhờ quán triệt bài học “Phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng sự thật
khách quan và hành động theo quy luật khách quan”, đồng thời nỗ lực thực hiện “Đổi
mới tư duy”, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tìm ra và khơi dậy được “Sức mạnh tổng
hợp” – (Bài học thành công của “Kháng chiến chống Pháp” và “Chống Mỹ cứu
nước”). Sức mạnh tổng hợp đó là sự kết hợp sức mạnh của toàn dân tộc với sức mạnh
của thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Nhờ đó mà sự nghiệp đổi
mới đã giành được những thắng lợi ngày càng to lớn, đưa đất nước ta từng bước vững
chắc tiến tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”,
thể hiện rõ “Định hướng xã hội chủ nghĩa” trong q trình phát triển.
Những thành cơng nổi bật nhất của đổi mới, nhờ vận dụng đúng đắn mối quan
hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, đó là:
+ Những năm 1986 – 1990: Đảng lãnh đạo nhân dân ta: Lấy nông nghiệp làm
mặt trận hàng đầu, tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế lớn là: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu, và hàng xuất khẩu. Một mặt, chính sách “Khốn

10” cùng các giải pháp tương đối đồng bộ và phù hợp đã giải phóng sức sản xuất,
phát huy được sức mạnh tồn dân, người người ra đồng và vào nhà máy làm việc, vì
lợi ích của mình, của tập thể và của cả nước. Mặt khác, do “đổi mới tư duy” và chính
sách mở cửa, Đảng ta đã vận dụng được sức mạnh của thời đại. Đó là biết vận dụng
những thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến, phù hợp với trình độ của nước ta vào
sản xuất. Điển hình là việc đưa các giống mới và kỹ thuật sản xuất mới vào sản xuất
nơng nghiệp…
Từ đó chúng ta đã phát huy được “sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và thời
đại”, trong vòng chưa đầy 4 năm, từ một nước nghèo đói trầm trọng, thiếu thốn về
mọi mặt…, nước ta đã tạm thời “đủ ăn, đủ mặc” và bắt đầu có xuất khẩu để tích lũy
vốn liếng cho q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những bước tiếp theo. Đó

17


là một thành cơng mà hiếm có nước nào trên thế giới thực hiện được trong một điều
kiện khó khăn như vậy.
+ Những năm 1991-1994-1996: Vẫn lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời đẩy mạnh mở cửa hội nhập, phát huy sức
mạnh tổng hợp của thời đại, Đảng ta đã lãnh đạo thành cơng cơng cuộc “Xóa đói,
giảm nghèo”, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, và quan trọng hơn
là đã xây dựng thành công những “tiền đề” cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là
sự phát triển của hệ thống năng lượng (Đặc biệt là về điện), hệ thống giao thông, hệ
thống liên lạc viễn thông, hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế thí
điểm, với sự đổi mới của các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã kiểu mới, cùng
sự xuất hiện của những doanh nghiệp tư nhân đầu tiên, những liên doanh (kinh tế tư
bản nhà nước) và các doanh nghiệp FDI đầu tiên trong nền kinh tế…, và một đội ngũ
lao động bước đầu được đào tạo phù hợp… Đó chính là những cơ sở, nền tảng để đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bước tiếp theo.
+ Những năm 1996-2000-2010: Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành “Đẩy

mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Vẫn kiên trì phát huy sức mạnh nội
lực của toàn dân tộc kết hợp với mở cửa, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế tồn cầu
hóa (Gia nhập ASEAN - 1995, gia nhập WTO - 2006, tiến hành hàng loạt hiệp định
thương mại, hiệp định kinh tế song phương và đa phương, nâng tầm quan hệ đối
ngoại với nhiều quốc gia có ý nghĩa quan trọng trên thế giới…), nền kinh tế nước ta
đã có những bước phát triển rất mạnh trên tất cả các lĩnh vực: Cơng nghiệp, nơng
nghiệp và dịch vụ. Từ một nước đói nghèo, năm 2008 nước ta đã ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, với GDP
bình quân đầu người đạt trên 1.000 USD, và năm 2012 đạt 1.540 USD. “Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt thành
tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là xóa đói, giảm nghèo. Ðời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng.
Chính trị - xã hội ổn định; quốc phịng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại,
hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo mơi trường hịa
bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước.
Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh
thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền
đề quan trọng để đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân”.
- Những hạn chế, tồn tại:
“Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế
phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, cung ứng điện chưa
đáp ứng yêu cầu. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn
lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải; quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp nói chung cịn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp nhà nước còn bất cập. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu
tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh
vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo


18


dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi
trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt,
khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế
kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm
nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây
mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, trong
đó có những vấn đề mới chưa có tiền lệ trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: Tư
duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Ðảng chậm đổi mới, chưa
đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước; bệnh thành tích cịn nặng; hệ thống pháp luật
cịn nhiều bất cập, việc thực thi chưa nghiêm; quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém;
tổ chức bộ máy cồng kềnh, một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và
phẩm chất; tổ chức thực hiện kém hiệu quả, nhiều việc nói chưa đi đơi với làm; chưa
tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết những khâu đột phá, then chốt và
những vấn đề xã hội bức xúc; quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy
đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí cịn nghiêm trọng, chưa
được đẩy lùi.”
“Suy yếu”, “tụt hậu”, “khoảng cách ngày càng xa so với các nước” là những
nhận định được các nhà hoạch định chính sách nhấn mạnh. Điểm sơ sơ về số liệu
kinh tế, các diễn giả đều khẳng định, nhiều mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2011 - 2015
có khả năng khơng thực hiện được…
Tốc độ tăng trưởng trung bình của Việt nam bắt đầu xu thế suy giảm nhanh và
liên tục từ giai đoạn cuối năm 2007 đến cuối năm 2012, nằm ở mức thấp nhất kể từ
năm 2000. Trong khi đó, tăng trưởng của các nước ASEAN - 5 đều khởi sắc hơn kể

từ cuối 2009, sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

19


Câu 2: Cơ sở triết học và nội dung của quan điểm lịch sử - cụ thể?
Trả lời:
I. Cơ sở triết học
Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm khi xem xét sự vật phải chú ý đúng mức
hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã phát sinh ra vấn đề đó; nghiên cứu nó trong điều kiện thời
gian và khơng gian nhất định. Phải nghiên cứu q trình vận động của nó trong quá
khứ, hiện tại và dự kiến tương lai.
Sự vật nào cũng tồn tại trong thời gian, thời điểm, mơi trường, hồn cảnh và
tham gia vào các mối liên hệ tương ứng, có sự phát triển. Cơ sở lý luận của quan
điểm lịch sử cụ thể đó là toàn bộ các nguyên lý, các quy luật, các cặp phạm trù của
phép biện chứng duy vật như: Nguyên lý về sự phát triển; nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến…
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại lẫn nhau,
sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, sự tương tác và chuyển hoá lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của một
sự vật, hiện tượng, một quá trình.
Liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới
(cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng phong phú, nhưng đều nằm trong mối liên
hệ với các sự vật, hiện tượng khác; đều chịu sự chi phối, tác động ảnh hưởng của các
sự vật, hiện tượng khác.
Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong thế
giới dù đa dạng phong phú nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật hiện
tượng khác, đều chịu sự tác động, quy định của các sự vật hiện tượng khác.

Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Bởi vì
dù các sự vật trong thế giới đa dạng đến đâu chăng nữa thì cũng là những hình thức
tồn tại cụ thể của vật chất. Cho nên, chúng đều chịu sự chi phối của quy luật vật chất.
Ngay cả ý thức, tinh thần cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao
là bộ óc người. Do vậy, ý thức tinh thần cũng bị chi phối bởi quy luật vật chất.
b. Các tính chất của mối liên hệ
Theo triết học duy vật biện chứng, mối liên hệ có các tính chất sau:
Tính khách quan: nghĩa là mối liên hệ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của con người, chỉ phụ thuộc vào bản thân sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ là mối liên
hệ vốn có của bản thân sự vật hiện tượng.
Tính phổ biến: nghĩa là mối liên hệ tồn tại cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy;
có ở mọi lúc, mọi nơi. Ngay trong cùng một sự vật, trong bất kỳ thời gian nào, khơng
gian nào ln có mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành sự vật.
Tính đa dạng, phong phú: rất nhiều mối liên hệ khác nhau phụ thuộc vào góc
độ xem xét: chẳng hạn, mối liên hệ bên trong - bên ngoài; mối liên hệ tất nhiên ngẫu
nhiên; mối liên hệ trực tiếp - gián tiếp; mối liên hệ chủ yếu - thứ yếu, mối liên hệ xa gần v.v. Mỗi cặp mối liên hệ này có vai trị khác nhau trong q trình vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng. Sự phân chia các cặp mối liên hệ này cũng chỉ là tương
đối.

20



×