Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.66 MB, 89 trang )

ĩ
HỌC MÌOM THƯƠNG
KINH 1ÌỈ14NH Qlíôc TÊ
ĩ
1
WẾÊmỉ£ìmmẵm
1
LỈNH.
»ự&
BÁO
KIÊẩVi
É WÊẳ
Thi
Neoc
Ph
TRƯƠNG ĐẠI
HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA QUẢN
TRỊ
KINH
DOANH
CHUYÊN NGÀNH
KINH
DOANH
QUỐC TẾ
G8 ca Ịtr,
FOREIGN
TIMDE
UNIVERSIIY


KHOA
LUẬN
TỐT
NGHIỆP
ĐỂ
TÀI:
HỘI
NHẬP TRONG
LĨNH
vực BẢO
HIỂM

VIỆT
NAM
Sinh
viên
thực
hiện
:
PHẠM
THỊ
NGỌC
PHƯƠNG
Lớp
:
ANH
Ì -
QTKD
Khoa
:

K41
Giáo viên hướng dẫn
:
GS.
TS.
HOÀNG VĂN CHÂU

NỘI,
THÁNG
11/2006
MỤC
LỤC
LỜI
NÓI
ĐẦU
Ì
CHƯƠNG
1: DỊCH vụ BẢO
HIỂM

VIỆT
NAM VỚI HỘI NHẬP
KINH
TẾ QUỐC TÊ 4
1.1.

LUẬN
CHUNG VẾ DỊCH vụ BẢO
HIỂM
4

1.1.1.
Khái
niệm
về bảo
hiểm

dịch
vụ bảo
hiểm
4
1.1.2.
Đặc
điểm
của sản
phẩm
dịch
vụ bảo
hiểm
7
1.1.3.
Vai trò của dịch
vụ bảo
hiểm
8
1.2.
HỘI
NHẬP TRONG BẢO
HIỂM
li
1.2.1. Hội

nhập
kinh
tế
11
1.2.2.
Những yêu
cầu
đối với hội
nhập
trong
lĩnh
vực bảo hiểm

Việt
Nam 13
1.3.
THỊ TRƯỜNG
BẢO
HIỂM
VIỆT
NAM TRONG NHỮNG
NĂM
GẦN
ĐÂY
14
1.3.1.
Quá
trình
hình thành và
phát

triển
của
thị
trưọng
bảo hiểm
Việt
Nam 14
1.3.2.

cấu
thị
trưọng
15
1.3.3.
Quy

thị
trưọng
17
1.4. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN
DỊCH vụ BẢO
HIỂM
VIỆT
NAM TRONG
NHỮNG
NĂM
QUA 19
1.4.1. Hoạt
động
kinh

doanh
bảo
hiểm
phi
nhân
thọ
19
1.4.2.
Hoạt
động bảo
hiểm
nhân
thọ
22
1.4.3.
Hoạt
động
tái
bảo
hiểm
23
1.4.4.
Hoạt
động đầu tư
của
các
doanh
nghiệp
bảo
hiểm

25
1.4.5.
Hoạt
động
trung gian
bảo
hiểm
25
CHƯƠNG
2:
HỘI
NHẬP TRONG
LĨNH
vực BẢO
HIỂM

VỆT
NAM 27
2.1.

HỘI

THÁCH
THỨC
ĐỐI
VỚI
BẢO
HIỂM

VIỆT

NAM TRONG
TIẾN
TRÌNH
HỘI
NHẬP 27
2.1.1.

hội
27
2.1.2.
Thách
thức
30
2.2.
CÁC CAM KẾT VỀ HỘI NHẬP TRONG
LĨNH
vực BẢO
HIỂM

TÌNH HÌNH
THC
HIỆN CÁC
CAM KẾT ĐÓ CỦA
VIỆT
NAM 36
2.2.1.
Cam
kết
mở
cửa

lĩnh
vực bảo
hiểm

Việt
Nam 36
a) Hiệp
định
khung
ASEAN :
36
b)
Cam
kết với
APEC
39
c)
Hiệp
định
thương mại
Việt
Nam -
Hoa
Kỳ
40
d)
Cam
kết trong
WTO 45
2.2.2.

Tình hình
thực
hiện
các
cam
kết
quốc
tế
46
2.3.
ĐÁNH
GIÁ VẾ
TÌNH HÌNH HỘI
NHẬP TRONG
LĨNH vực
BẢO
HIỂM
ở VIỆT
NAM 48
2.3.1.
Một
số
thành
tựu
nổi
bật
48
2.3.2.
Những hạn
chế của thị

trường bảo
hiểm
Việt
Nam
trong
quá trình
hội
nhập
53
CHƯƠNG
3:
MỘT
số
GIẢI PHÁP
NHẰM
CHÚ ĐỘNG

TÍCH
cực
HỘI
NHẬP TRONG
LĨNH vực
BẢO
HIỂM

VIỆT
NAM 57
3.1.
ĐỊNH HƯỚNG
VẾ

HỘI
NHẬP
TRONG
LĨNH
vực
BẢO HIỂM

VIỆT
NAM 57
3.2.
MỘT
SỐ
GIẢI
PHÁP
NHẰM
CHỦ ĐỘNG
VÀ TÍCH cực HỘI
NHẬP
TRONG
LĨNH Vực BẢO HIỂM
VIỆT
NAM
ĐẾN NĂM
2010
62
3.2.1.
Về
phía Nhà nước
62
a)

Hoàn
thiện
môi trường pháp lý về
kinh
doanh
bảo
hiểm
và tăng cường
hoạt
động
của

quan
quản
lý Nhà nước về
kinh
doanh
bảo
hiểm
62
b)

các chính sách ưu đãi
của
Nhà nước
đối
với kinh
doanh
bảo
hiểm

63
c)
Tạo sự
cạnh
tranh
phù hợp trên
thị
trường bảo
hiểm
64
3.2.2.
Về
phía các công
ty
bảo
hiểm
65
a)
Phát
triển
và nâng cao
chửt
lượng
sản
phẩm bảo
hiểm
65
b)
Phát
triển

các kênh phân
phối
66
c)
Tăng cường công tác tuyên
truyền
quảng
cáo
68
d)
Nâng
cao
năng
lực
quản
lý và phát
triển
nguồn
nhân
lực
70
e)
Sử
dụng
tối
đa,

hiệu
quả
nguồn

vốn đầu tư của các
doanh
nghiệp
bảo hiểm
72
f)
Nâng cao năng
lực
tài
chính thông qua tăng
vốn
kinh
doanh
73
3.2.3.
Về
phía
Hiệp
hội
bảo
hiểm
Việt
Nam
74
3.3.
MỘT SỐ
KIẾN
NGHỊ,
ĐỀ
XUẤT

75
KẾT
LUẬN
81
TÀI
LIỆU
THAM KHẢO 83
LỜI
NÓI ĐẦU
1.
Tính cấp
thiết
của
đề tài:
Trong
những
năm gần
đây,
hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế
đã
trở
thành một xu
thế
tất
yếu

khách
quan của
quá trình phát
triển
thế
giói.
Hầu
hết
các nước đều
đang nỗ
lực thực
hiện
các
cải tổ
về
kinh
tế,
chính
trị,

hội,
văn hoa để có
thể
hoa nhập
với
thế
giới
trong
bối
cảnh

xu
thế hội
nhập
đang
diừn
ra
ngày một
mạnh
mẽ.
Việt
Nam
cũng
không nằm ngoài vòng
quay đó.
Trong
những
năm
gần đây,
Đảng và Nhà nước
ta
cũng
đã có
nhiều
chính
sách,
định hướng nhầm
đưa nước
ta
từng
bước

hội
nhập
trên
nhiều lĩnh
vực
trong
đó có
lĩnh
vực bảo
hiểm.
Đặc
biệt

thị
trường bảo
hiểm
Việt
Nam
cũng
như
thị
trường bảo
hiểm
ở các nước trên
thế
giói đều có mối
quan
hệ bảo
hiểm,
tái bảo

hiểm với
thị
trường
bảo
hiểm
quốc
tế.
Mặc dù ngành bảo
hiểm

Việt
Nam được
bắt
đầu hình thành
từ
năm
1965
với
sự
ra
đời
của
Công
ty
bảo
hiểm
Việt
Nam
(Nay là
Tổng Công

ty
bảo
hiểm
Việt
Nam), nhưng
Việt
Nam
chỉ
thực
sự có
thị
trường bảo
hiểm từ
năm
1994
sau
khi
Nghị định 100/CP
của
Chính phủ được ban hành tháng 12 năm
1993. Với
sự
ra đời
của hàng
loạt
các công
ty
bảo
hiểm,
thị

trường bảo
hiểm
Việt
Nam đã
trở
nên sôi động
hơn,
đáp ứng được các nhu
cầu
về bảo
hiểm
của
các
tổ
chức
và cá nhân
trong

hội.
Tuy nhiên bên
cạnh những
chuyển
biến
sâu
sắc, thị
trường bảo
hiểm
Việt
Nam
trong

thời
gian
qua
cũng
còn
nhiều
hạn
chế
cần
được
khắc
phục
như
nhận
thức
của
người
dân về bảo
hiểm
còn
thấp,
chất
lượng
của dịch
vụ bảo
hiểm
chưa
cao,
năng
lực

cạnh
tranh
của
các
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
trong
nước còn yếu kém. Vì
vậy,
việc
nhận
thức
rõ các hạn
chế,
yếu kém, các thành
tựu
đã
đạt
được của
thị
trường bảo
hiểm
của
Việt
Nam
cũng
như
tình

hình
thực
hiện
các cam
kết
quốc
tế
về
bảo
hiểm
là yêu cầu
cấp
bách
đối
vói các nhà
hoạch
định chính sách
cũng
như cho các
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
khi
Việt
Nam
gia
nhập
WTO vào tháng 11 năm
2006.

Ì
Xuất
phát
từ
ý
nghĩa
thực
tiễn
trên
tôi
đã
chọn
dề
tài:
"Hội nhập
trong
lĩnh
vực bảo hiểm ở
Việt
Nam" làm
luận
văn.
2.
Mục đích nghiên
cứu:
Đẻ
tài
tập
trung
nghiên cứu

thực
trạng
và tình hình
hội nhập
của
thị
trường
bảo
hiểm
Viặt
Nam
cũng
như
tình
hình
thực
hiặn
các cam
kết
của
Viặt
Nam
trong
lĩnh
vực bảo
hiểm,
từ
đó tìm
ra
những

giải
pháp nhằm hạn
chế
các
mặt
tiêu
cực,
phát huy các mặt tích
cực,
nhằm chủ động và tích cực
hội
nhập
hơn
trong
lĩnh
vực
bảo
hiểm.
3.
Đôi
tượng
và phạm
vi
nghiên
cứu:
-
Đối
tượng
nghiên
cứu:

Vấn đề
hội nhập
trong
lĩnh
vực bảo
hiểm

Viặt
Nam
-
Phạm
vi
nghiên
cứu:
Dịch vụ bảo
hiểm
Viặt
Nam
trong
những
năm
gân
đây.
Tập
trang
vào tình hình
hội
nhập,
các cơ
hội,

thách
thức

hội
nhập
đem
lại
cũng
như
thực
trạng
của
thị
trường bảo
hiểm
Viặt
Nam
trong hội
nhập
kinh tế
quốc
tế
và tình hình
thực
hiặn
các cam
kết
của
Viặt
Nam

trong
lĩnh
vực
bảo
hiểm.
4.
Phương pháp nghiên
cứu:
Luận
văn đã vận
dụng quan
điểm
của
chủ
nghĩa
duy
vật biặn
chứng

chủ
nghĩa
duy
vật
lịch
sử, kết
hợp
chặt
chẽ
giữa
phương pháp

lịch
sử
với
phương pháp
logic,
phương pháp
thống
kê, phân tích và
tổng
hợp, phương
pháp so sánh và hặ
thống
hoa
cũng
được sử
dụng
để
thực
hiặn
mục đích
nghiên cứu
của
luận
văn.
5.
Những đóng góp
của Luận
văn:
- Hặ
thống

hoa và làm rõ thêm
những
vấn đề lý
luận
cơ bản về
dịch
vụ
bảo
hiểm,
vai
trò
của
bảo
hiểm
đối với
nền
kinh
tế,
nêu được
tổng
quan
về
thị
trường
và các
dịch
vụ bảo
hiểm
trong
những

năm gần đây.
- Phân tích yêu
cẩu
hội
nhập,

hội,
thách
thức,
các cam
kết
về bảo
hiểm
Viặt
Nam đã ký
kết

tình
hình
hội
nhập
trong
lĩnh
vực
bảo
hiểm

Viặt
Nam.
2

- Đề
xuất
các
giải
pháp nhằm tích
cực,
chủ dộng
hội
nhập
trong
lĩnh
vực
bảo hiểm

Việt
Nam.
6. Kết cấu
luận
văn:
Ngoài
phần
mở đầu và
kết luận, luận
văn bao gồm ba chương:
Chương
Ì:
Dịch vụ bảo
hiểm

Việt

Nam vói
hội
nhập
kinh tế
quốc tế
Chương
2:
Hội nhập
trong
lĩnh
vực
bảo
hiểm

Việt
Nam
Chương
3:
Một
số
giải
pháp nhằm tích
cực,
chù động
hội
nhập
trong
lĩnh
vực bảo
hiểm


Việt
Nam.
Để
hoàn thành
khoa
luận
này, tôi
xin
bày
tỏ
lòng cảm ơn chân thành
nhất
tại
Giáo
sư,
Tiến
sỹ Hoàng Văn Châu và các
thầy

trong
khoa
Quản
Trị
Kinh
Doanh
-
Trường
Đại
học Ngoại

Thương đã
tận
tình giúp
đỡ,
hưạng
dẫn tói.
Mặc dù đã có cố
gắng
trong
quá trình nghiên cứu
song
do
điều
kiện
về
thòi
gian

kiến
thức
bản thân có hạn nên
khoa
luận
này không
thế
tránh
khỏi
những
thiếu
sót

nhất
định.
Rất
mong
thầy
cô và các bạn đóng góp ý
kiến
cho
bài
khoa
luận
được hoàn
thiện
hơn.
Xin chăn thành cắm
ơn.'
3
CHƯƠNG
Ì
DỊCH VỤ BẢO
HIỂM

VIỆT
NAM
VỚI HỘI
NHẬP
KINH
TÊ QUỐC TẾ
1.1 LÝ LUẬN CHUNG VẾ DỊCH vụ BẢO HIỂM
1.1.1.

Khái niệm bảo hiểm và dịch vụ bảo hiểm
a)
Bảo
hiềm
Các
loại
hình bảo
hiểm
hiện
nay đang được
triển
khai
rộng
rãi

khắp
các nước trên
thế
giới.
Sự
ra đời

phát
triển
của bảo
hiểm
gắn
liền
với
cuộc

dấu
tranh
để
sinh tồn
của
con
người
trước
những
nguy

rủi
ro

thể
xảy
ra
bất
kỳ
lúc nào
gây
thiệt
hại
không
những
về
của
cải
vửt
chất


còn đến
cả
tính
mạng,
sức khoe con
người.

thể lấy

dụ:
Rủi ro
do
tự
nhiên
gây
ra
như
các
hiện
tượng
bão
lụt,
động
đất,
núi
lửa; rủi
ro
do
con

người
gây
ra
như
tai
nạn
phương
tiện
giao
thông
vửn
tải,
tai
nạn
lao
động;
hay
rủi
ro
do
môi trường

hội
như
hiện
tượng
trộm
cắp.
Để
đối

phó
với
các
nguy

rủi
ro

thể
xảy
ra
gây
thiệt
hại
cho
con
người,


nhiều biện
pháp được
sử dụng.
Trên
quan
điểm
quản

rủi ro,
các
biện

pháp này được
chia
thành
hai
nhóm:
- Nhóm các
biện
pháp kiềm
soát
rủi
ro.
Bao gồm
các
biện
pháp tránh

rủi ro,
ngăn
ngừa
tổn
thất

giảm
thiểu
tổn
thất.
Trong
đó:
Tránh


rủi
ro bao
gồm
các
biện
pháp nhằm
loại
trừ
hoặc
không
cho
rủi
ro
có cơ
hội
xảy
ra.
Chẳng
hạn,
để
tránh

tai
nạn
giao
thông xảy
ra,

thể
chọn

giải
pháp không
di
lại
ra
ngoài
đường
nữa.
Nhưng rõ ràng
trong
cuộc
sống
con
người
không
thể chọn
phương
án
tránh

cho
mọi
rủi
ro
vì con
người
còn
phải
làm
việc

để duy
trì cuộc sống.
Ngăn
ngừa
rủi
ro
bao
gồm
các
biện
pháp nhằm
làm
giảm
mức
độ
tổn
thất
do
rủi
ro
gây
nên.
Chẳng
hạn,
để đề phòng
hoa hoạn xảy
ra
người
ta thực hiện
tốt

việc
phòng
cháy,
hay
thực hiện
tốt
an toàn
lao
dộng
để
giảm
tai
nạn
lao
động.
Giảm
thiểu
tổn
thất
bao
gồm
các
biện
pháp nhằm
giảm
giá
trị
thiệt
hại
4

khi
rủi
ro
đã xảy
ra.
Chẳng
hạn,
để tránh
tai
nạn
giao
thông xảy
ra
gây
tổn
thương đến não
người
điều
khiển
xe cần
dội
mũ bảo
hiểm,
hay cần có đủ
phương
tiện
chữa
cháy
khi
có hoa

hoạn
xảy
ra.
- Nhóm các
biện
pháp
tài
trợ
rủi ro.
Mặc dù đã
thực hiện
các
biện
pháp
kiểm
soát
rủi
ro,
nhưng
rủi
ro

bất
ngờ và không
lường
trước được nên vằn

thể
cứ xảy
ra,

gây
thiệt
hại
lớn
cho con
người.
Nhóm các
biện
pháp
tài
trợ
rủi
ro
là bao gồm
những
biện
pháp nhằm
khắc
phục
những
khó khăn về mặt
tài
chính do
rủi
ro bất
ngờ gây
ra,
như:
Tự
khắc

phục
rủi
ro:

biện
pháp mà
rất
nhiều
người
áp
dụng,
đặc
biệt

Việt
Nam, hình
thức

nhất
ở các
gia
đình

tiết
kiệm.
Mỗi
gia
đình
luôn
phải

để dành một
khoản
tiền
nhất
định nhằm phòng
ngừa
những
lúc
bệnh
tật,
ốm
đau
.Biện
pháp này các công
ty
cũng
rất
hay sử
dụng,
thể hiện
ở các quỹ
dự
phòng.
Tuy nhiên
biện
pháp này
cũng chỉ

thể
đem

lại
kết
quả
tốt
nếu
tính
chất,
mức độ nghiêm
trọng
của
rủi
ro
không quá
lớn.
Chuyển
nhượng
rủi
ro:

biện
pháp san sẻ
rủi
ro
của một số
người
cho
nhiều
người
khác.
Những

người

thể
gặp
rủi
ro
sẽ
trả
một
khoản
tiền
nhỏ cho
người
khác
theo
một kỳ
nhất
định,

lại,
người
kia phải
trả
cho người
gặp
rủi
ro
một khoản
tiền
lớn trong

trường
hợp
rủi
ro xảy
ra.
Đó chính
là bảo hiểm (BH).
Trong
thực
tế,
các
biện
pháp này
tồn
tại
song song nhau,
trong
đó bảo
hiểm
được
coi

biện
pháp
hữu
hiệu nhất.
Hiện
nay,

nhiều

nghiên
cứu khoa học
về bảo
hiểm
đã đưa
ra
các khái
niệm
về BH.
Dưới
góc độ
chuyển
giao
rủi
ro,
"bảo hiềm

một cơ
chế,
theo
cơ chế
này một
người,
một doanh
nghiệp
hay một
tổ
chức
chuyển nhượng
rủi

ro cho
công
ty
bảo
hiềm,
công
ty
đó sẽ
bồi
thường
cho
người
dược bảo hiềm các tổn
thất thuộc
phạm
vi
bảo hiểm và phân
chia
giá
trị
thiệt
hại
giữa
tất
cả những
người
được bảo hiểm"
[5].
Dưới
góc độ kỹ

thuật
bảo
hiểm,
BH được
hiểu

"biện
pháp
chia
nhò
5
tổn
thất
của một hay một số
ít người
khi
gặp một
loại
rủi
ro dựa vào một quỹ
chung bằng
tiền
được
lập bởi
sự đóng góp của
nhiều người
cùng có khả năng
gặp
rủi
ro đồ

thông
qua
hoạt
động của công
ty
bảo hiềm"
[5].
Các
quan
niệm
trên dù định
nghĩa
BH
theo
những
cách
thức
khác
nhau
những
đều
thể
hiện
bản
chất
của
bảo
hiểm
nói
chung

đó là sự
san sẻ
rủi
ro
trên
cơ sở quy
luật
số
lớn
của các cá nhân và
tổ
chức
trong

hội
thông qua
hoọt
động
của
các
tổ
chức
bảo
hiểm.
Vậy có
thể
định
nghĩa
bảo
hiểm

như
sau:
"Bảo
hiệm
" là
một sự cam
kết
bồi
thường
của
người
bảo hiếm
đối
với
người
được bảo hiệm
về
những thiệt
hại,
mất mát của
đối
tượng
bảo hiềm do một
rủi
ro
đã
thoa thuận
gây
ra,
với

điều kiện người
được bảo hiềm đã
thuê
bảo hiềm cho
đối
tượng
bảo hiệm đó và nộp một
khoản tiền
gọi

phí
bảo hiệm
[3].
b)
Dịch vụ bảo hiềm
Dịch
vụ bảo
hiểm
là một
trong
những
ngành
dịch
vụ có tầm
quan
trọng
lớn đối
với
nền
kinh

tế.
Không
chỉ
để phòng
ngừa
rủi
ro,
ổn định
kinh
tế

hội
mà còn
trấn
an tâm lý nhân
dân,
tọo
công ăn
việc
làm,
tọo
vốn cho
nền
kinh tế
Tham
gia
vào
dịch
vụ bảo
hiểm


người
mua,
tức
khách hàng,
người
bán và các
tổ
chức
trung gian.
Người mua
-
khách hàng

những
cá nhân hay
tổ
chức

tài
sản,
trách
nhiệm
dân sự trước pháp
luật,
tính
mọng
hoặc
thân
thể


thể
gặp
rủi
ro
cẩn
bảo
hiểm
thì
mua các
dịch
vụ
(sản
phẩm)
bảo
hiểm
hoặc
trực
tiếp
hoặc
thông
qua
các tổ
chức
trung gian.
Khách hàng bao gồm khách hàng
hiện
tọi

khách hàng

tiềm
năng của một
loọi
sản phẩm. Khách hàng
hiện
tọi
là khách
hàng đang
tham
gia
quá trình mua và sử
dụng
sản
phẩm
đó,
khách hàng
tiềm
năng là khách hàng có
thể
tham
gia
vào quá trình mua và sử
dụng
sản phẩm
đó
trong
tương
lai.
Khách hàng
tiềm

năng
phải
thoa
mãn các
điều
kiện:
- Có nhu
cầu
về
sản
phẩm
- Có
khả
năng
tài
chính
- Là
đối
tượng
thoa
mãn các
điểu
kiện
của sản
phẩm
6
-
Người
bán có
thể tiếp

xúc
trực
tiếp
hoặc
gián
tiếp với
họ.
Người
bán

các công
ty
bảo
hiểm
kinh
doanh
các
sản
phẩm bảo
hiểm.
Theo
tính
chất
sở
hữu,
công
ty
bảo
hiểm


thể
chia
ra doanh
nghiệp
Nhà
nước,
doanh
nghiệp
cổ
phần,
doanh
nghiệp
liên
doanh ;
theo
quy

tổ
chức,

thể
chia
ra
tổng
công
ty,
công
ty
Các
công

ty
bảo
hiểm
bán các
sản
phẩm
bảo
hiểm
trực
tiếp
cho
khách hàng
hoặc
thông qua các
tổ
chức
trung
gian.
Tổ chức
trung gian
là cẩu
nối
giữa
người
mua
với
người
bán.
Tổ
chức

trung
gian
gủm
các công
ty
(hoặc
hãng)
môi
giới

đại
lý bảo
hiểm.
Công
ty
(hoặc
hãng)
môi
giới

đại
lý bảo
hiểm
có đặc trưng về
tổ
chức

chức
năng
khác

nhau.
Theo
định
nghĩa
của
ISO
9004
-
2 1991E
thì
"Dịch
vụ
là kết
quả mang
lại
nhờ
các
hoạt
động
tương
tác
giữa người cung
cấp và
khách hàng, cũng
như nhờ
các
hoạt
động
của
người cung

cấp
để đáp ứng nhu
cầu
của
người tiêu dùng
".[7]
Vậy,
qua
những
phân tích như
trên,

thể
hiểu
dịch
vụ bảo
hiểm
như
sau:
"Dịch vụ bảo
hiểm

tất
cả
những
dịch
vụ,
những
sản
phẩm


người
bán bảo
hiểm
cung cấp cho
người
mua
bảo
hiểm".
1.1.2.
Đặc điểm
của sản
phẩm
dịch
vụ bảo
hiểm
Vói bản
chất
của mình, sản phẩm bảo
hiểm
không chỉ
giống
như các
sản
phẩm của
các
ngành
dịch
vụ
khác


sản phẩm

hình, không

hình
dáng,
trọng
lượng
mà còn có
những
đặc
điểm
khác.

thể
tóm
tắt
đặc
điểm
của
sản
phẩm
dịch
vụ bảo
hiểm
như
sau:
-


sản phẩm không
định hình.
Tại
thời
điểm
bán, sản
phẩm

doanh
nghiệp
bảo
hiểm
cung cấp
ra
thị
trường
chỉ là
lời
hứa,
lời
cam
kết trả tiền
bảo
hiểm
khi
xảy
ra
sự
kiện
bảo

hiểm. Người
bán không
chỉ
ra
được
màu
sắc,
kích
thước
hay hình
dạng
của sản
phẩm, và
người
mua
cũng
không
cảm
nhận
được
bằng
giác
quan
của mình
như cầm
nắm, sờ mó,
ngửi
hay
nếm
thử.

Khi chấp
mua
tức
người
mua
buộc
phải
tin lời
hứa
của
doanh
nghiệp
bảo
hiểm.
Đặc
trưng
này
của sản phẩm bảo
hiểm
là một
nhân
tố
rất
quan
trọng
ảnh
hưởng
đến
các
chiến

lược bán hàng
của
các
doanh
nghiệp
bảo
hiểm.
7
- Là sản phẩm có
hiệu
quả "xê
dịch".
Khi
mua sản phẩm,
người
mua
không
nhận
được
lợi
ích
tức
thì của sản phẩm,
từ
lúc mua sản phẩm đến lúc
biết
giá
trị
sử
dụng

của
nó là một
khoảng
thời
gian
dài.
Ngoài
ra,
người
mua
chỉ
được hưòng giá
trị
sử
dụng
của sản
phẩm bảo
hiểm là
được
bồi
thường
khi
không may gặp
rủi ro.
Còn nếu may mựn không gặp
rủi ro,
người
mua sẽ
không được
hưởng

quyền
lợi
đó.
- Là sản phẩm "không mong
đợi".
Bởi

khi
mua bảo
hiểm,
mục đích
của
khách hàng chỉ là đề phòng nếu
chẳng
may có
rủi
ro xảy
ra

thực
sự
không
ai
muốn
rủi
ro
xảy
ra
với
mình. Không một

người
bình thường nào
lại
mong
đợi
gặp
rủi
ro xảy ra
với
mình để được bảo
hiểm
bồi
thường.
- Là
sẩn
phẩm của "chu kỳ
kinh
doanh đảo
ngược".
Điều
này
thể
hiện

việc
các
doanh
nghiệp
không
phải

bỏ vốn như các
doanh
nghiệp
sản
xuất
để
mua nguyên
vật liệu,
máy móc
thiết
bị
và các
chi
phí đầu vào khác để
sản
xuất
ra
hàng hoa
bán,

doanh
nghiệp
bảo
hiểm thu
phí bảo
hiểm
trước
từ người
tham
gia

bảo
hiểm, sau
đó mới sử
dụng
tiền
thu
phí này để
thực
hiện
nghĩa
vụ
chi trả tiền
bảo
hiểm
khi

sự
kiện
bảo
hiểm
xảy
ra.
- Là sản phẩm dễ
bắt
chước.
Một hợp đồng bảo
hiểm
dù là bản gốc
cũng
không được cấp

bằng
phát
minh
sáng
chế
và bảo hộ bản
quyền,
về lý
thuyết,
mọi
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
đều có
thể
bán một cách hợp pháp
những
hợp
đồng

bản sao chép
của
đối thủ
cạnh
tranh,
ngoại
trừ
tên
và các

tờ
tuyên
truyền
quảng
cáo.
Đặc trưng này của sản phẩm bảo
hiểm
ảnh
hưởng
rất
lớn
đến
chiến
lược của
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
khi
muốn
làm khác
biệt
sản phẩm
của
mình
với
các
đối
thủ
cạnh

tranh
khác.
1.1.3.
Vai
trò
của dịch
vụ bảo
hiểm
- Đóng góp vào sự ổn
định kình
tế— xã
hội
Các
loại
hình bảo
hiểm
hiện
nay
dang
được
triển
khai
rộng
rãi ở
khấp
các nước trên
thế giới.
Sự
ra
đời

và phát
triển
của
bảo
hiểm
gựn
liền
với cuộc
đấu
tranh
để
sinh
tồn của
con
người
trước
những
nguy

rủi
ro

thể
xảy
ra
8
bất
kỳ lúc nào gây
thiệt
hại

không
những
về của
cải
vật
chất
mà còn đến cả
tính
mạng,
sức
khoe
con
nguôi.

thể thấy,

một công cụ nhằm
đối
phó
với
những
rủi
ro bất
ngờ
xảy ra
cả về
tài
chính,
tính
mạng,

của
cải bảo
hiểm

vai
trò
to lớn
đối
với
không
chị
với
cá nhân
tổ chức
mà còn
với
cả nền
kinh
tế
nói
chung:
+ Bảo
hiểm
góp
phần
ổn định
đời sống
kinh
tế,
từ

đó ổn định về mặt
tinh
thẩn
cho các cá nhân và
tổ
chức
trong

hội khi
không may gặp
phải
rủi
ro.
Điều
đó được dựa
trẽn
cơ sở bảo
hiểm
bù đắp
những
thiệt
hại
tài
chính do
rủi
ro
gây
ra.
Đặc
biệt,

khi
tổn
thất
xảy
ra
có mức độ và quy mô
lớn,
ý
nghĩa
của
bảo
hiểm
lại
càng được nhân lên gấp
nhiều lần.
+ Bảo
hiểm
góp
phẩn
làm
giảm
"tổng
rủi
ro"
của xã
hội,
đảm bảo cho

hội
có một quỹ tàichính đủ

lớn
và chủ động
đối
phó vói
rủi ro.
Rủi ro

ngẫu
nhiên và
bất ngờ. Với
mỗi cá nhân hay
tổ chức
thật
khó có
thể
xác định
được
rủi
ro
có xảy
ra
với
họ hay không và mức độ
thiệt
hại

như
thế
nào.
Do

đó họ khó có
thể
chủ động có kế
hoạch
tài
chính để
đối
phó đầy đủ
với
thiệt
hại
do
rủi
ro
gây
ra.
Tuy nhiên
với
số
đông
người tham
gia
bảo
hiểm,
xác
suất
rủi
ro

thể

tính được tương
đối
chính xác trên cơ sở quy
luật
số
lớn.
Từ đó
một
kế
hoạch
tài
chính thông qua
thu
phí bảo
hiểm
để bù đắp
thiệt
hại
do
rủi
ro
gây
ra
là có
thể
thực hiện
được,
bảo đảm cho xã
hội
chủ động

đối
phó
với
những
hậu quả
của
rủi
ro.
- Bảo hiểm huy động vốn đầu
tư cho
nền
kinh
tế
Bảo
hiểm
là một kênh
cung cấp vốn
đáng kể cho nền
kinh
tế.
Điều
này
xuất
phát
từ
bản
chất
của bảo
hiểm
đặc

biệt
là bảo
hiểm
thương mại là một
dịch
vụ tài
chính.
Do có "sự đảo ngược của chu kỳ
kinh
doanh",
các công
ty
bảo hiểm thu
phí bảo
hiểm
trước,
nhưng
sau
đó (có
thể
sau
vài
ngày,
vài
tuần,
vài
tháng,
vài năm
hoặc
thậm

chí
vài chục
năm) mới
phải
sử
dụng
tiền
này để
bồi
thường.
Chính
vì vậy
xét
trên
khía
cạnh
kinh
tế,
chắc chắn
các công
ty
bảo
hiểm
cần đầu tư
trở
lại
nền
kinh tế
tiền
phí bảo

hiểm
này để
thu
lời.
Do bảo
hiểm
tuân
theo
quy
luật
số
lớn,
phải
có số đông
người tham
gia
bảo
hiểm
nên
9
quỹ
tài chính huy động
từ
phí bảo
hiểm
của các công
ty
bảo
hiểm


rất
lớn,
trong
thực
tế
chỉ
sau
các Ngân hàng thương
mại.
-
Đẩy mạnh
tín
dụng:
Hiện nay,
bảo
hiểm
đang là một
biện
pháp hữu
hiệu
được các
tổ chức
tín
dầng
kết
hợp sử
dầng
dối
vói
những tài sản

được cầm
cố, thế
chấp
nhằm đảm
bảo
sự an toàn cho các
khoản
vay.
Các cá
nhân,
tổ chức
đi vay
bắt buộc
phải
mua bảo
hiểm
cho các
tài sản
dem cầm
cố,
thế
chấp
với
giá
trị
hợp đồng tương
đương
với
khoản
vay.

Các
loại
hình bảo
hiểm
phải
phù hợp
với
đặc
điểm
của
từng
loại
tài sản và đảm bảo
người
hưởng
lợi
là các
tổ chức
tín
dầng. Trong
trường
hợp có
rủi
ro
xảy
ra đối với
tài sản
thế
chấp,
cầm cố

trong
thời
gian
vay
thì
Gác
tổ
chức
tín
dầng
vẫn có
thể thu hồi
nợ
từ
tiền
bồi
thường
của
các công
ty
bảo
hiểm.
Như
vậy, với
việc
tham
gia
của bảo
hiểm,
các

tổ chức
tín
dầng
cũng
yên tâm hơn
trong việc
tạo
điều
kiện
cho các
tổ chức,
cá nhân vay vốn
thúc đẩy
hoạt
động
sản
xuất
kinh
doanh
toàn xã
hội.
-
Tạo
điều kiện
cho sản
xuất hàng
hoa:
Bảo
hiểm
tạo

điều
kiện
gần như
tốt
nhất
cho
sản
xuất
thông qua
việc
ổn
định
giá cả và
cấu
trúc
giá.
Những
thiệt
hại
tài
chính do
rủi
ro
bất
ngờ gây
ra
chắc
chắn sẽ
đẩy
chi

phí
của doanh
nghiệp
lên. Khi
đó nếu tăng giá lên để
giữ
nguyên
lợi
nhuận doanh
nghiệp
sẽ
mất
vị
thế
cạnh
tranh
về
giá.
Ngược
lại
nếu
giữ
nguyên giá để
cạnh
tranh,
doanh
nghiệp
sẽ
mất
đi

một
phần
lợi
nhuận.
Tác
động
này sẽ
rất
lớn
nếu giá
trị
thiệt
hại

lớn.
Trong
trường hợp này rõ ràng
bảo hiểm
là "tấm lá
chắn"
rất
tốt
cho các
doanh
nghiệp.
Đối với
các
doanh
nghiệp
vừa và

nhỏ,
điều
này càng có ý
nghĩa
lớn lao
vì vốn của họ thường là
hạn
chế,
dễ
bị
các
doanh
nghiệp lớn
chèn ép
về
giá.
-
Giải quyết công
ăn
việc
làm
cho

hội
Một
đóng góp
nổi
bật
của ngành bảo
hiểm

cho nền
kinh
tế
Việt
Nam
trong
những
năm gần đây là
việc
giải
quyết
công ăn
việc
làm cho xã
hội,
góp
phần giảm
tỷ
lệ
thất
nghiệp,
gián
tiếp
nâng
cao
đời
sống
cho nhân dân.
10
Trước

năm 1993
số
lượng
lao
động
trong
ngành bảo
hiểm
chỉ
có 1000 cán
bộ
nhân
viên,
đến
năm
2002 con số đó đã lên đến 76.600
người
và đến
năm
2005

143.540
người.
Xu
hướng ngày càng đa
dạng
hoa sản phẩm,
mở
rộng
quy

mô, phạm
vi
hoạt
động
của thị
trường bảo
hiểm
đang cần một lượng cán
bộ
nhân viên
lớn
có trình
độ
nghiệp vụ,
năng
động.
Đây chính là

hội lớn
cho
nhồng
sinh
viên mới
ra
trường
học hỏi
và hướng
nghiệp,
đồng
thời

cũng

hướng
giải
quyết
vấn đề hàng ngàn
sinh
viên
ra
trường mỗi
năm
có nhu cầu
tìm
việc
[16][18][19].
Ngoài
ra,
còn có
thể
kể
tới
rất
nhiều
vai
trò
khác
của
bảo
hiểm
như góp

phần
tăng cường mối
quan
hệ
kinh tế đối
ngoại giồa
các
nước,
tăng GDP, góp
phân ổn định
trật
tự
an toàn xã
hội
1.2.
HỘI
NHẬP TRONG BẢO
HIỂM
1.2.1.
Hội
nhập
kinh
tế
Xu
thế hội
nhập,
hợp tác phát
triển
dang
là xu

thế
tất
yếu của các nền
kinh
tế
trên
thế
giới
hiện
nay.
Các nước đều
ưu
tiên cho
việc
phát
triển,
mở
cửa
nền
kinh
tế,
gia
nhập
các
tổ
chức
quốc
tế bởi
sự gắn
bó,

hợp
tác,
học
hỏi
lãn
nhau,
tuy thuộc lẫn
nhau
là động
lực
cho sự phát
triển
nền
kinh
tế
trong
quá trình
hội
nhập.
Đại
diện
cho xu
thế
này là sự
ra đời
của
hiệp
định
chung
vẻ thuế

quan
và thương mại
(GATT)
năm 1948 và
sau
đó đã được
đổi
thành
tổ
chức
thương mại
thế
giới
WTO
kể
từ
ngày
01/01/1995.
WTO
điều
tiết
không
chỉ
thương mại hàng hoa

còn cả thương mại
dịch
vụ,
đầu tư và sở hồu trí
tuệ.

Với
150 thành viên và 29 thành viên đang đàm phán
gia
nhập,
chiếm
trên
90% tổng
kim
ngạch
thương mại
thế
giới,
WTO
trở
thành một
tổ
chức
có quy
mô toàn
cầu,

diễn
đàn thường
trực
đàm phán thương mại và là
thể chế
giải
quyết
các
tranh

chấp
thương mại
quốc
tế
[23][28]
.
Nhận
thức
rõ được
vai
trò và tác động của quá trình
hội
nhập
đối với
nền
kinh
tế
nước
nhà,
Đảng và Nhà nước
ta
đã đề
ra
nhồng
chính
sách,
định
hướng
đúng
đắn. Đại hội

Đảng
lần thứ
vn
đã chủ trương
đa
phương
hoa,
đa
li
dạng
hoa
quan
hệ
đối ngoại,
đánh dấu bước
khởi
đầu cho
tiến
trình
hội
nhập
quốc
tế của Việt
Nam.
Thực
hiện
dường
lối
đó, trong suốt
thời

gian
vừa qua,
nước
ta
đã
đạt
quan
hệ
ngoại giao với nhiều
nước,
khai
thông
quan
hệ
với
các
tổ
chức
tài
chính,
tiền
tệ
như Quỹ
tiền
tệ
Quốc
tế (IMF),
Ngân hàng Phát
triọn
Châu Á

(ADB),
Ngân hàng
thế
giói
(WB) Đại
hội
Đảng
VUI
tiếp
tục
nhấn
mạnh
tầm
quan
trọng của
quá trình
hội
nhập
kinh tế

quyết
định:
"Củng cố
môi trường hoa bình và
tạo
điọu
kiện
quốc
tế
thuận

lợi
hơn nữa đọ đẩy
mạnh
phát
triọn
kinh tế

hội,
công
nghiệp
hoa và
hiện đại
hoa
đất
nước;
đẩy
nhanh
quá trình
hội
nhập
quốc
tế khu vực

thí
giới"
[14].
Theo
dó,
cũng
như các nước trên

thế
giới,
Đảng
và Nhà nước
ta
đang
từng
bước
thực hiện
quá trình mở cửa
kinh tế
cả về thương mại hàng hoa,
thương mại
dịch
vụ và đẩu
tư.
về địch
vụ,
mỗi nước
phải
chấp
nhận
đọ các
nước
thành viên
cung
ứng
dịch
vụ cho pháp nhân và
thọ

nhân nước mình
theo
các phương
thức:
- Cung ứng qua biên
giới:
Các thương nhân
kinh
doanh
dịch
vụ đăng ký
kinh
doanh
dịch
vụ ở một nước thành viên có
quyền
cung
ứng
dịch
vụ cho các
pháp nhân và
thọ
nhân của các thành viên khác mà không cần
lập hiện diện
thương mại
tại
các thành viên đó.
- Tiêu dùng lãnh
thổ:
Theo

điều
kiện này,
mỗi nước thành viên
phải
đọ
cho
pháp nhân và
thọ
nhân nước mình được sử
dụng
dịch
vụ do các thương
nhân
của
các nước thành viên khác
cung
ứng ở ngoài lãnh
thổ
nước mình.
-
Hiện
diện
thương
mại:
Mỗi nước thành viên
phải
đọ cho thương nhãn
cung
ứng
dịch

vụ của các nước thành viên khác
lập
công
ty, chi
nhánh
tại
nước
mình đọ
kinh
doanh.
-
Hiện
diện thọ
nhân:
cho phép công dân các nước thành viên vào
hoạt
động
dịch
vụ
tại
nước mình.
Hiệp
định
chung
về thương mại
trong lĩnh vực
dịch
vụ (GATS)
cũng


một
trong
những
điều
Việt
Nam
cần thực hiện khi
chính
thức trở
thành thành viên
của
WTO
trong
tháng 11
tới.
Hiệp
định này hướng
tới
tự
do hoa thương mại
12
giữa
các nước thành
viên,

nghĩa

cung
cấp
các cơ

hội
dễ dàng hơn cho các
công
ty
ở các nước thành viên thông qua
việc
giảm
các hàng rào thương
mại.
Tuy
nhiên,
việc
mỏ
cửa
nền
kinh
tế,
tự
do hoa các ngành
dịch
vụ
cũng
cân
phải
tiến
hành
cẩn thận,
chẫt
lọc
nhằm

vẫn
đảm bảo
sự ổn
định
của kinh tế

hội
mà vẫn đảm bảo
tiến
trình
hội
nhập
và không đi ngược
lại
các cam
kết
của Việt
Nam
với
các
tổ
chức
quốc
tế.
1.2.2.
Những
yêu cầu đối với hội
nhập
trong
lĩnh

vực bảo
hiểm

Việt
Nam
Bảo
hiểm
là một
trong
nhũng
lĩnh
vực
quan
trọng
của
dịch
vụ tài chính
trong
nước.

vậy, hội
nhập
trong
lĩnh
vực bảo
hiểm
cũng
phải
tuân
theo

4
phương
thức
trên đồng
thời
phải
tuân
thủ
các nguyên
tẫc:
- Không phân
biệt
đối xử:
có 2 nguyên
tẫc
không phân
biệt
đối
xử:
+ Nguyên
tẫc đối
xử
tối
huệ
quốc
(MEN):
nguyên
tẫc
này có
nghĩa


không phân
biệt
đối
xử
giữa
hàng
hoa,
doanh
nghiệp
nước này
với
hàng hoa,
doanh
nghiệp
nước khác về các chính sách
thuế,
giá hàng hoa và các
biện
pháp
tiếp
cận thị
trưởng.
+ Nguyên
tẫc đối
xử
quốc
gia (NT):
theo
nguyên

tẫc
này, không phân
biệt
đối
xử
giữa
hàng
hoa,
doanh
nghiệp
nước mình
với
hàng
hoa,
doanh
nghiệp
nước khác.
-
Thực
hiện
minh
bạch,
công
khai trong

chế
chính
sách,
tạo
điểu

kiện
bình
dẳng
trong
hoạt
động
kinh
doanh.
-
Thực
hiện
bảo hộ
quyền
sở hữu
trí tuệ:
Nguyên
tẫc
này được quy định
trong
Hiệp
định
các
vấn
đề sở hữu
trí tuệ
liên
quan
đến thương mại
(TRIPS).
- Tuân

thủ

chế
giải
quyết
tranh
chấp
của WTO và sự phán xử của cơ
quan
tài
phán
quốc
tế
do
tổ
chức
này
thiết
lập.
Nhũng nguyên
tẫc
và phương
thức
như trên cùng
với
tiến
độ
khẩn
trương của
việc gia

nhập
WTO đang đòi
hỏi
dịch
vụ bảo
hiểm
cần
phải hội
nhập
hơn nữa
trong
thời
gian
tới.
Tóm
lại,
hội
nhập
hiện
đang là yêu cầu cấp bách không
chỉ đối với
lĩnh
vực bảo
hiểm
mà còn
của
các ngành
kinh tế
khác
trong

nước,
điều
này
đạt ra
cho
13
các
doanh nghiệp
bảo
hiểm
Việt
Nam
phải

chiên
lược,
định
hướng,
xác
định
được

hội
và thách
thức
nhằm
chủ
động hơn nữa
trong
tiến

trình
hội
nhập.
1.3.
THỊ TRƯỜNG
BẢO
HIỂM
VIỆT
NAM TRONG NHŨNG
NÁM
GẦN
ĐÂY
1.3.1.
Quá
trình hình thành

phát
triển
của
thị
trường
bảo
hiểm
Việt
Nam
Thị
trường bảo
hiểm
Việt
Nam

so
với thị
trường bảo
hiểm
thế
giới
còn
rất
non
trẻ.
Trưóc
năm
1975,
trên
thị
trường bảo
hiểm chỉ
có một
sồ
ít
doanh nghiệp
bảo hiểm
và phạm
vi
hoạt
động
rất
nhỏ.
Đến
khi

Công
ty
Bảo
hiểm
Việt
Nam
ra
đời
ngày
15/01/1965
theo quyết
định thành
lập
sồ 179/CP ngày
17/12/1964
của
Hội
đồng Chính phù
thì
thị
trường
bảo hiểm
Việt
Nam
mới
bắt
đầu phát
triển.

thể

nói
lịch
sử
phát
triển
của
Công
ty
Bảo
hiểm
Việt
Nam
(Bảo
Việt)
gắn
liền
với
lịch
sử
phát
triển
của
ngành
bảo hiểm
Việt
Nam.
Trong
những
năm
đẩu

hoạt
động,
Bảo
Việt

trụ
sở chính
tại

Nội

chỉ

OI
chi
nhánh

Hải
Phòng

hoạt
động
chỉ
trong
2
loại
nghiệp
vụ
bảo
hiểm

là bảo
hiểm
tàu
biển

bảo
hiểm
hàng hoa vận
chuyển
đường
biển.
Sau
năm
1975, đất
nước
thồng
nhất,
Bảo
Việt
dẩn dần
mở
rộng
các
chi
nhánh
ra
khắp
các
tỉnh
thành

trong
cả nước đồng
thời
mở
rộng
các
hoạt
động
nghiệp
vụ
bảo hiểm
phi
nhân
thọ
như
bảo
hiểm tài
sản,
bảo
hiểm
trách
nhiệm
dân
sự

bảo hiểm
con
người.
Thòi
điểm

dó,
trên
thị
trường bảo
hiểm
Việt
Nam
chỉ

Bảo
Việt

chính
thức
dược chính
phủ
thành
lập.
Với
cảnh
"một mình
một
chợ"
Bảo
Việt
thực
sự
trở
thành
người cung

cấp
sản
phẩm bảo
hiểm
duy
nhất
trên
thị
trường.
Chỉ
đến
khi
nghị
định 100/CP
về
kinh
doanh
bảo
hiểm
được
ban
hành
năm
1993
với
chính sách
mở
cửa

cải

cách
kinh tế
đã
tạo ra
bước
ngoặt
lớn
trong thị
trường bảo
hiểm
Việt
Nam.
Năm
1994 là
năm
bắt
đầu

nhiều
sự
thay
đổi
trong
Bảo
Việt

là bước
khởi
sắc
của

thị
trường bảo
hiểm
Việt
Nam.
Trước tiên
là sự
ra đời
của Công
ty
Bảo
hiểm
thành phồ
Hổ Chí
Minh (Bảo
Minh),
trước là
một
thành viên của
Bảo
Việt
tách
ra, rồi
đến
việc
thành
lập
Công
ty
tái

bảo
hiểm quồc
gia
(Vinare)
từ
một sồ nhân viên
của
Bảo
Việt.
Đến năm
1995,
Bảo
Việt
cũng bắt
đầu liên
doanh
liên
kết
với
các
công
14
ty
trong

ngoài nước thành
lập
Công
ty
cổ

phẩn
bảo
hiểm
Nhà
Rồng (Bảo
Long),
Công
ty
liên
doanh
bảo
hiểm
Quốc
tế
VÍA.
Năm
1996,
Công
ty
bảo
hiểm
nhân
thọ
thuộc
Bảo
Việt
ra đời
đã đem
lại
những

hợp đồng bảo
hiểm
nhân
thọ
đầu tiên
trong lủch
sử bảo hiểm
Việt
Nam, đổng
thời
mở
ra
một
trang
mới
cho
thủ
trường bảo
hiểm
nhân
thọ
của
Việt
Nam[l8].

thể
thấy,
nghủ
đủnh
100/

CP
ra đời
đã
phá vỡ
thế
độc
quyền
của
Bảo
Việt,
tạo
điều
kiện
cho các
doanh
nghiệp
khác,
hình thành sự
cạnh
tranh
trên
thủ
trường và thúc đẩy
thủ
trường bảo
hiểm
phát
triển.
Từ
năm

2003
đến nay,
thủ
trường bảo
hiểm
Việt
Nam
liên
tục

những
biến
động
lớn với
sự
sắp
xếp

chuyển
đổi
của
các
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
trong
nước:
i.
Bảo

Việt
được
tổ
chức
lại
theo

hình
tập
đoàn
kinh
doanh
với
các đem
vủ
thành viên
hạch
toán độc
lập.
Bảo
hiểm
Việt
Nam
chuyên
kinh
doanh
bảo
hiểm
phi
nhân

thọ

Bảo
hiểm
Nhân
thọ Việt
Nam
chuyên
kinh
doanh
bảo
hiểm
nhân
thọ.
Đặc
biệt,
trước
triển
vọng của sự
hình thành
thủ
trường
vốn, thủ
trường
chứng
khoán
tại Việt
Nam, năm
1999 Công
ty

cổ
phần chứng
khoán
Bảo
Việt
-
cóng
ty
chứng
khoán đầu tiên

Việt
Nam
đã
ra đời.
li.
Một số
doanh
nghiệp
bảo
hiểm

tái bảo
hiểm
nhà nước được
chuyển
đổi
thành công
ty
cổ

phần
như
Tổng
Công
ty
cổ
phần
Bảo
Minh
iii.
Một số
cấc
công
ty
cổ
phần
bảo
hiểm
và môi
giới
bảo
hiểm
được thành
lập
như Công
ty
TNHH AON
Việt
Nam, Công
ty

cổ phân môi
giới
bảo
hiểm
Việt
Quốc,
Công
ty
TNHH
môi
giới
bảo
hiểm
GRAS
SAVOYE
Việt
Nam
1.3.2.

cấu
thị
trường
Sau
hơn 10 năm
đổi mới,
cùng
với
chính sách
mở
cửa của

Đảng,
đời
sống
nhân dân
ta
đã được
cải thiện
đáng
kể.
Thủ trường bảo
hiểm
Việt
Nam đã
phát
triển
vượt
bậc cả về quy
mô và cơ
cấu
thủ
trường.
Tính đến
năm
2005,
trên
thủ
trường đã có 32
doanh
nghiệp
thuộc

mọi thành
phần
kinh tế
tham
gia
hoạt
động bảo
hiểm
bao
gồm
11
doanh
nghiệp
cổ
phần,
3
doanh
nghiệp
nhà
nước,
6
doanh
nghiệp
liên
doanh,
và 12
doanh
nghiệp
có vốn 100% vốn đấu tư
nước

ngoài
với
tổng
số vốn
điều
lệ
lên đến 4.608 tỷ đồng

108,095
triệu
15
USD.
Trong
khi
đó,
năm
2004,
số
doanh
nghiệp
có vốn đầu tư
nước
ngoài là 8
công
ty,
7 công
ty
cổ
phần,
6

doanh
nghiệp
liên
doanh,
và 5
doanh
nghiệp
nhà
nước.
Ta có
thể
so sánh sự
biến đổi
về

cấu
thị
trường
qua 2 năm
2004,
2005
theo
bảng
Ì và
bảng
2 (hình
dưới).
Qua 2
bảng,
ta


thể
nhận ra
có sự
chuyển đổi
về cơ
cấu,
số
lượng
giữa
các
doanh
nghiệp
nhà
nước

doanh
nghiệp
cổ
phân,
và sự tăng lên đáng kể
của
các
doanh
nghiệp
có 100% vốn đầu tư
nước ngoài.
Bảng
1:
Số

lượng
các
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
theo khối
doanh
nghiệp
năm 2004
Loại
hình Nhà Cổ
Liên 100% vốn
Tổng
doanh
nghiệp
nước
phần
doanh
nước
ngoài
cộng
Bảo
hiểm
phi
nhân
thọ
3 4 5
2
14

Bảo
hiểm
nhân
thọ
1
1
4 5
Tái bảo
hiểm
1
1
Môi
giới
bảo
hiểm
3
3 6
Tổng
cộng
5
7
6 8 26
(Nguồn:
'Thị
trường
bảo hiềm
Việt
Nam năm 2004
"
-

nhà
xuất
bản
tài
chính
Hà Nội -
2005, trang
7)
Bảng
2:
Số
lượng
các
doanh
nghiệp
bảo hiểm
theo khối
doanh
nghiệp
nám 2005
Loại
hình
doanh
Nhà
Cổ Liên
100% vón Tổng
nghiệp
nước
phần
doanh

nước
ngoài
cộng
Bảo
hiểm
phi
nhân
thọ
2 6
5 3
16
Bảo
hiểm
nhân
thọ
1
1
6
8
Tái bảo
hiểm
1
1
Môi
giới
bảo
hiểm
4
3
7

Tổng
cộng
3
li
6 12
32
(Nguồn:
'Thị
trường
bảo hiểm
Việt
Nam năm 2005
"
-
nhả
xuất
bẩn
tài
chính
Hà Nội -
2006, trang
6)
Ngoài
ra,
trên
thị
trường
bảo
hiểm
còn có hơn 30 vãn phòng

đi
diện
của
các
tổ
chức
bảo
hiểm
nước ngoài,
chưa
tính
đến
những
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
16
nước
ngoài đã được cấp
giấy
phép thành
lập
nhân
chuyến
thăm Mỹ của
thủ
tướng
Việt
Nam. Sự góp mặt cùa các

doanh
nghiệp
nước ngoài đã góp
phần
cải
thiện
môi trường đầu
tư, tạo
sự
cạnh
tranh
lành
mạnh,
và nhờ đó làm tăng
lòng
tin
của
các nhà đầu

nước ngoài
khi
có ý định đầu tư vào
Việt
Nam.
1.3.3.
Quy mô
thị
trường
Bên
cạnh

sự
chuyển
dịch
về cơ
cấu, thị
trường bảo
hiểm
Việt
Nam
trong
mấy năm gần đây
tiếp
tục
duy
trì tỷc
độ tăng trưởng
cao.
Tỷ
trọng
doanh
thu
của
ngành bảo
hiểm
trên GDP tăng
mạnh,
đặc
biệt
trong
giai

đoạn
từ 1993 -
2004.
Năm
1993,
tỷ
trọng
doanh
thu
ngành bảo
hiểm
trên GDP
từ
chỗ chỉ
chiếm
0,37% đã tăng lên 2% vào năm
2004
ước
đạt
14.232
tỷ
đồng,
và năm
2005
đã tăng lên 2,03% ước
đạt
15.678
tỷ
đồng
[19].

Trong
đó
phải
kể đến
sự
tăng
trưởng
mạnh
của
doanh
thu phí
báo
hiểm- yếu
tỷ
phản
ánh
quy

của
thị
trường
bảo
hiểm.
Tăng
trưởng
bình quân
doanh
thu
phí
bảo hiểm

giai
đoạn
1993
-
2004
đạt
từ
29 -
30%/năm,
tỷc
độ tăng
trưởng
của
bảo
hiểm
nhân
thọ đạt
tới
50% và
tỷc
độ tăng trưởng
của
bảo
hiểm phi
nhân
thọ đạt
45%.
Nếu như
trong
năm 1993

tổng
doanh
thu phí bảo hiểm chỉ đạt
700
tỷ
đồng,
năm 1999
đạt
1.264
tỷ
đồng,
năm
2002
đã tăng lên 6.992
tỷ
đổng thì đến năm
2004
tổng
doanh
thu
phí bảo
hiểm
đã
đạt con
sỷ
12.400
tỷ
đồng (tăng 17.7
lần
so

với
năm
1993)

đến
năm
2005

13.588
tỷ
đồng (tăng
19.4
lẩn)
(biểu
đồ
1).
Biểu đồ
1:
Doanh
thu
phí bảo hiểm
giai
đoạn năm 1993- 2005
Nguồn
:
Theo số
liệu
Thị
trường
bảo

hiếm Việt
Nam năm
2004,
2005 4 -
NXB
tài
chinh
năm
2005, 2006.
ệ¥L0JỊÍ>ý
17
Một
đặc
điểm
của
quy mô
thị
trường bảo
hiểm
Việt
Nam bên
cạnh
việc
tăng trưởng
nhanh doanh
thu
phí bảo
hiểm
là sự
thay

đổi
liên
tục
của
thị
phần
các công
ty.
Cùng
với
sự thành
lập
của
nhiều
công
ty
bảo
hiểm
cổ
phần,
công
ty
bảo
hiểm
liên
doanh,
công
ty
bảo
hiểm

có 100% vắn đẩu tư nước
ngoài,
sự
cạnh
tranh
giữa
các còng
ty kinh
doanh
bảo
hiểm
trên
thị
trường ngày càng gay
gắt.
Chính

vậy, thị
phần của
các công
ty
luôn có sự
biến
chuyển
về
vị
trí

phần
trăm

thị phần.
Các
doanh
nghiệp
nhà nước vẫn
tiếp
tục
được
củng cắ,
luôn
chiếm
thị
phần
cao
nhất
trên
thị
trường và có xu hướng ngày càng
tăng.
Nếu
như
trong
năm 2003
thị
phẩn
các
doanh
nghiệp
nhà nước trên toàn
thị

trường

55,29%,
thì đến năm 2004 là
60,21%.
Năm 2005
thị
phần
của các
doanh
nghiệp
trong
nước
là 61,12%
trong
đó
thị
phần của
các
doanh
nghiệp
phi
nhân
thọ

94,63%

thị
phần của
các

doanh
nghiệp
nhân
thọ

38,01%.
Biểu đô 2: Thị phẩn theo khối doanh nghiệp năm 2004

CTCP
• DN

vốn
đầu

nước
ngoài

DNNN
18
Biểu
đồ
3: Thị
phần
theo khối
doanh nghiệp
năm
2004,2005.
60.21%
39.79%
60

50
H
61
'
12%
38.
m
1.88%

2005

2004
DN
trong
nước DNcóvốn
ĐTNN
Nguồn
:
Theo số
liệu
Thị
trường
bảo
hiểm
Việt
Nam năm
2004,
2005
-
1.4.

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN
DỊCH vụ BẢO
HIỂM
VIỆT
NAM TRONG
NHŨNG
NĂM
QUA
Hiện
nay, hoạt
động của các
doanh
nghiệp
kinh
doanh
bảo
hiểm
trên
thị
trường
bảo hiểm
Việt
Nam

thể
phân
ra
thành
5
loại:

hoạt
động
kinh
doanh
bảo
hiểm phi
nhân
thọ,
bảo
hiểm
nhân
thọ,
tái bảo
hiểm, hoạt
động đầu tư

hoạt
động
trung
gian
bảo
hiểm. Trong
những
năm
gần đây,
cùng
với
sự
phát
triển

của
nền
kinh
tế đất
nước,
các
hoạt
động
kinh
doanh
trẽn
thị
trường bảo
hiểm
Việt
Nam
cũng
rất
sôi
động và đã
đạt
được
những
kết
quả
đáng
kể.
1.4.1.
Hoạt động
kinh

doanh
bảo hiểm
phi
nhân
thọ
Thị
trường bảo
hiểm
phi
nhân
thọ là
thị
trường

số
lượng
công
ty
nhiều
nhất
trên
thị
trường bảo
hiểm
Việt
Nam.
Tính đến
cuối
năm
2004,

cả nước đã

tới
14 Công
ty
bảo
hiểm
phi
nhân
thọ.
Trong
đó có
7
cóng
ty

vốn
đầu

nước
ngoài,
chiếm

cấu 50%;
tiếp
theo là
5
công
ty
c

phẩn

2
Công
ty
bảo
hiểm
Nhà
nước.
Ngoài
ra,
trên
thị
trường còn có
sự tham
gia
của
30 vãn phòng
đại diện
của
các
t
chức
bảo
hiểm
nước ngoài
tại Việt
Nam,
góp
phần

cái
thiện
môi
trường
đầu tư

tăng lòng
tin
của
các
nhà
đầu tư nước ngoài
khi
đến
làm ăn
tại
Việt
Nam.
Mới
nhất
trong
năm
2005
còn có
một công
ty
c
phẩn
bảo
hiểm

mới
NXB
tài
chính
năm
2005,2006
19
được
thành
lập


công
ty
AAA
nâng
tổng
số
Công
ty
bảo
hiểm
phi
nhân
thọ
lên 16 công
ty,
trong
đó có
8

công
ty
trong
nước
và 8 công
ty

vốn
đầu

nước
ngoài
(bảng
3).
Như
vậy,
đến nay trên
thị
trường
bảo
hiểm
Việt
Nam
đã có mặt
đầy
đủ các thành
phần
kinh
tế:
Nhà

nước,
cổ
phần

vốn
dầu

nước ngoài,
hình
thành
thị
trường
bảo
hiểm
với
đầy đủ các
yếu
tố
cấu
thành thông
qua
đa
dạng
hoa
các
hình
thỷc
sở
hữu
doanh

nghiệp.
Bảng
3:
Các DNBH
phi
nhân
thọ
Việt
Nam.
SÍT Tên
doanh
nghiệp
Năm
thành
lập
Hình
thỷc
Vốn
điều
lệ
1
Bảo
hiểm
Việt
Nam
1964
Nhà
nước
900
tỷ

đồng
2
Công
ty
BH
Dầu
khí
1996
Nhà
nước
100
tỷ
đồng
3
Tổng
công
ty
CP
Bảo
Minh
1994
Cổ
phần 1.100
tỷ
đồng
4
Công
ty
cổ
phần bảo

hiểm
Petroliínex(PJICO)
1995
Cổ
phần
70
tỷ
đổng
5
Công
ty
CP BH
Nhà Rồng
(Bảo
Long)
1995
Cổ
phần 70
tỷ
đồng
6
Công
ty
CP
BH
bưu
điện
(pn)
1998
Cổ

phần 70
tỷ
đổng
7
Công
ty
CP
BH
Viễn
Đông
2003
Cổ
phần 200
tỷ
đồng
8
Công
ty
CP
BH AAA
2005
Cổ
phần 80
tỷ
đồng
9
Công
ty
liên
doanh

BH
quốc
tế
Việt
Nam(VIA)
1996
Liên
doanh 6,2
triệu
USD
10
Công
ty
Mên doanh
BH
liên
hiệp
(me)
1997
Liên
doanh
6
triệu
USD
li
Công
ty
TNHH BH
Allianz
1999

100%vốn
đáutưNN
6,295
niêu
USD
12
Công
ty
liên
doanh
BH
Việt-úc
(BIDV-QBE)
1999
Liên
doanh
5
triệu
USD
13
Công
ty
BH
tổng
hợp
Groupama
Việt
Nam
2001 100%vốn
đầu

tưNN
6,2
triệu
USD
14
Công
ty
liên
doanh
TNHH BH
Samsung -
Vina
2002
Liên
doanh
5
triệu
USD
15
Công
ty
TNHH BH
Châu
á-Ngân
hàng
Công
thươngOAD
2002
Liên
doanh

6
triệu
USD
16
Công
ty
TNHH BH
phi
nhân
thọ
AIG
(Việt
Nam)
2005
100%vốn
đẩutưNN

triệu
USD
Nguồn: Thị
trường
bảo hiểm
Việt
Nam năm
2005
- NXB
Tài
chính
2006
20

Năm
2005,
doanh
thu
phí bảo
hiểm phi
nhân
thọ
ước
đạt
5.535
tỷ
đồng
tăng trưởng
16,1%
so
với
năm
2004
(đạt
4.764
tỷ đồng). Trong đó,
các
doanh
nghiệp
trong
nước
chiếm 94,63% thị phần,
các
doanh

nghiệp
có vốn đầu tư
nước
ngoài
chỉ chiếm
5,37%.
(biểu
đổ 4)
Biểu đồ 4: Thị phần doanh thu phí của từng doanh nghiệp
Năm 2004
• Bào
Việt
• Bảo Minh
• Viên Đông
• PJICO
• PVI
• Bảo Long
• PTI

Cống
ly
BH khác
Năm
2005
• Bảo
Việt
• Bảo Minh
• Bảo Long
• PJICO
• PVI

• Viên Đông
• Pn

Cổng
ly
BH khác
(Nguồn:
theo
Thị
trường
bảo hiểm
Việt
Nam năm 2005 -
NXB
Tài
chính
năm 2006)
21

×