Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo "Bàn thêm về cấu trúc ngữ nghĩa tiếng Anh và tiếng Việt dưới góc độ Ngữ pháp Tri nhận " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.84 KB, 9 trang )

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270
262
Bàn thêm về cấu trúc ngữ nghĩa tiếng Anh và tiếng Việt
dưới góc độ Ngữ pháp Tri nhận
Trần Hữu Mạnh*

Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh - Mỹ, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN,
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 8 tháng 11 năm 2007
Tóm tắt. Nhận thức rõ tầm quan trọng của cấu trúc ngữ nghĩa của ngôn ngữ loài người (cùng với
cấu trúc ngữ âm và cấu trúc ngữ pháp), bài viết điểm xuyết các quan điểm về cấu trúc ngữ nghĩa
do Langacker (1987) và Taylor (2002) đề xuất và sau đó gợi ý nên nghiên cứu xem xét cấu trúc ngữ
nghĩa theo sự tổng hòa/kết hợp dựa trên những phổ quát ngôn ngữ bao gồm: (a) sự kế
t hợp nghĩa
của các từ và đoản ngữ tạo nên câu; (b) vị trí tương đối của các thực thể được kể đến trong câu; (c)
sự hiệu chỉnh và các vùng năng động; (d) các không gian tâm linh chung cho sự thông hiểu của con
người; và (e) sự thông hiểu về mặt dụng học dựa trên các đặc điểm về ngôn cảnh. Đồng thời xem
xét cấu trúc ngữ nghĩa theo sự không tổng hòa/kết hợp dựa trên nh
ững đặc thù của ngôn ngữ cụ
thể đang được nghiên cứu (tiếng Anh và tiếng Việt) bao gồm (a) tính thành ngữ; (b) các tục ngữ,
ngạn ngữ; (c) ẩn dụ và các trường hợp nói bang gió, hình tượng; (d) việc sử dụng quán từ tiếng
Anh và từ loại tương đương với nó trong tiếng Việt; và (e) hiện tượng đặc trưng ngôn ngữ như
trong tiếng Việt là điệp từ, điệp ngữ
, nói lái. Những trường hợp này được minh họa bằng các ví dụ
trong tiếng Anh và tiếng Việt. Bài viết cuối cùng nêu lên các công thức của ngữ nghĩa câu là:
M sent = f [St ± compositionality (RIT)] (in the light of Halliday’s functional grammar)
Or M sent = f [St ± comp (Pred. + Arg(s)] (in the light of Cognitive Linguistics).
1. Đặt vấn đề
*

Từ góc độ ngữ nghĩa của từ đến vấn đề


ngữ nghĩa của đoản ngữ và câu, có nhiều
quan điểm khác nhau. Chomsky, Halliday,
Lyons đã có những lý giải có những phần cơ
bản giống nhau nhưng có khá nhiều nét khác
nhau về những suy xét sâu hơn! Chẳng hạn
Chomsky khi xem xét ngữ nghĩa của từ đã
đoản ngữ đã dựa trên lý luận của Fillmore về
________
* ĐT: 84-4-7852898
E-mail:
lý thuyết về cách (theory of case), những khái
niệm về phép biến đổi (cải biên -
transformation) và các yếu tố khác về logic,
xạ ảnh Halliday tập trung xem xét nghĩa của
cú (có thể coi là tương đương với khái niệm
câu trong các cuốn ngữ pháp học và ngôn
ngữ học khác) dựa trên ba siêu chức năng của
ngôn ngữ: ý tưởng hoá, liên nhân và văn
bản. Việc xem xét ý nghĩa của cú trong cấu
trúc ngữ nghĩa của cú câu theo quan điểm
của Halliday đã
được Nguyễn Hoà nêu lên
thành công thức: Msent = f(STIR) [1, p.198].
Trong cuốn sách viết về Ngữ pháp học tri
Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270

263
nhận, J. R. Taylor nhấn mạnh rằng cấu trúc
ngữ nghĩa, song hành với cấu trúc ngữ âm và
cấu trúc ngữ pháp là một trong thành tố của

cấu trúc ngôn ngữ vốn dĩ là một bộ phận
không thể tách rời của sự tri nhận và dành cả
một chương để xem xét vấn đề này.
Có thể nói chắc chắn rằng quan niệm của
ngữ pháp tri nhận, theo cách nhìn nhận mới
nhất, là điều mà chúng ta hi
ện đang quan tâm
nghiên cứu. Và cách nhìn nhận của nó về cấu
trúc ngữ nghĩa (CTNN) mà chúng tôi sẽ giới
thiệu một cách chiếm nghiệm dưới đây sẽ là
điều mà nhiều nhà ngôn ngữ học trong chúng
ta quan tâm.
2. Cấu trúc ngữ nghĩa theo cách nhìn của
Ngữ pháp Tri nhận (Taylor, 2002)
2.1. Trước hết, có thể thấy nhận định cơ
bản sau đây của Ngữ pháp Tri nhận: Ngữ
nghĩa của mộ
t biểu thức phức hợp (complex
expression) không đơn thuần chỉ là một hàm số
của các ý nghĩa của các phần của nó và phương
thức mà theo đó chúng được kết hợp lại.
Một cách điển hình, nghĩa của toàn bộ
biểu thức là cụ thể hơn hay thậm chí có thể
thay đổi so với ý nghĩa mà các phần tử của nó
kết hợp lại, và có thể bao gồm các thành tố
hoàn toàn không
được thực tế hình tượng
hoá bởi bất cứ một yếu tố nào thuộc về các
đơn vị thành tố [2, p.96].
2.2. Taylor liệt kê các trường hợp sau đây

khi xem xét cấu trúc ngữ nghĩa của một đơn
vị ngôn ngữ.
2.2.1. Nguyên tắc kết hợp nghĩa
(compositionality)
Theo nguyên tắc kết hợp (hay còn có thể
gọi là tổng hoà nghĩa), nghĩa của một biểu
thức phức hợ
p (complex expression) được
đúc kết từ các ý nghĩa của các thành tố của nó
theo cách thức mà chúng được kết hợp lại với
nhau [2, p.97].
Hiển nhiên trong hai câu sau đây (1) và (2)
(1) "The cat stole the hat" có ý nghĩa khác với
câu (2) "The cat ate the hat" ("Con mèo đánh
cắp cái mũ" và "con mèo ăn cái mũ") chính là
vì 'stole' và 'ate' có những đóng góp về nghĩa
khác nhau với việc thông hiểu nghĩa của cả
câu, và cũng vì những đóng góp này có quan
hệ một cách có hệ thống đến những tầm
(ranges) có tính chất quy ước cách sử dụng
khả chấp của người nói tiếng Anh thông
thường [2, p.97; 3, p.132-133].
Taylor [2, p.98] nói rõ bốn điều kiện xác
định ý nghĩa của biểu thức dựa trên nguyên
tắc kết hợp này.
Cũng theo Taylor, nh
ững trường hợp nằm
ngoài nguyên tắc kết hợp kể trên bao gồm:
1. Các thành ngữ (idioms): Một thành ngữ
là một biểu thức mà nghĩa của nó không thể

được tính toán (cộng đơn thuần) từ các ý
nghĩa của các thành tố tạo nên nó. Ví dụ:
(3) You're opening a can of worms.
= Anh đang chọc vào một tổ kiến lửa đấy!
hay (4) He kicked the bucket = Hắn ngoẻo rồi.
2. Ẩn dụ: Ẩn dụ là một trong nhiều biệ
n
pháp của lối nói bóng bẩy (figures of speech)
bao gồm ngoa dụ (hyperpole), hài hước/châm
biếm (irony) và hoán dụ (metonymy).
Ẩn dụ, theo định nghĩa thông thường,
dựa trên sự liên tưởng về nghĩa (association)
trên cơ sở sự giống nhau hàm ẩn giữa các từ /
cụm từ được sử dụng và từ / cụm từ dựa trên
nghĩa đen của chúng. Chẳng hạn:
(5) I have a thousand and one things to do.
= Tôi có đến nghìn lẻ việc phải làm.
và (6) Christmas is approaching.
= Lễ Noel đang đến gần.
Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270

264
3. Sự thông hiểu về mặt dụng học: Nhìn
chung mỗi phát ngôn đều có thể hiểu được
theo các cách khác nhau, ít nhất theo hai cấp
độ về nghĩa: 1. Nghĩa đen của biểu thức, tức
là dựa trên nghĩa gốc của các từ và 2. Nghĩa
suy diễn theo ngữ cảnh, tức là nghĩa mà người
nói muốn biểu đạt trong ngữ cảnh cụ thể.
2.2.2. (7) "The football under the table" (Quả

bóng (nằm) dưới cái bàn).
Taylor giả
i thích ý nghĩa của cụm từ này
(một danh ngữ phức) theo vị trí tương đối
của quả bóng với cái bàn như sau:
- Quả bóng ở dưới gầm bàn, trong đó cái
bàn được kê ở vị trí thường thấy của nó và
quả bóng nằm dưới gầm bàn.
- Quả bóng nằm dưới mặt bàn, trong đó
cái bàn kê ngửa lên trên sàn nhà và mặt bàn
đè lên quả bóng (trên sàn nhà)
- Quả bóng bị cái bàn kê nghiêng đè lên
(trên sàn nhà)
Đó chính ba cách thông hiểu cụm từ này
[4, p.280].
2.2.3. Sự hiệu chỉnh và các vùng năng động
(accommodation and active zones)
Khi các cấu trúc khái niệm (conceptual
stuctures) được kết hợp với nhau, thông
thường mỗi kết cấu cần phải hiệu chỉnh đối
với kết cấu kia sao cho cả hai sẽ tham gia
nhịp nhàng hợp lý trong khuôn khổ khái
niệm hoá phức hợp đó (conplex
conceptualisation). Chẳng hạn động từ "run"
(= chạy) áp dụng khác nhau cho các chủ thể
như: người, ngựa, bò, chuột, báo, hổ
. Hay
động từ "eat" (= ăn) cùng có thể áp dụng khác
nhau cho các trường hợp trong tiếng Anh: a
person eats

a beefsteak/an icecream; a dog
eats
a bone; and a snake eats a bird (eat = ăn,
nhai, nhấm nháp, gặm, nuốt).
Đồng thời khi các thực thể tham gia vào
một cảnh huống chỉ có một số bộ phận nào
đó của thực thể đó được kể đến.
Chẳng hạn:
(8) John kicked the table = Giôn đá cái bàn.
Trong ví dụ này, hai thực thể được kể đến
(tham thể) là Giôn và "cái bàn - Giôn" là tác
nhân, tham gia vào sự kiện 'đá' (chỉ có bàn
chân của Giôn thôi); và "cái bàn" là vật thể bị
tác động, tức là đ
ích thể (patient) và thực tế là
chỉ một bộ phận của cái bàn, chân chẳng hạn,
như vậy là chỉ có bàn chân của Giôn tác động
đến "chân" của cái bàn. Đây chính là những
vùng năng động của các thực thể.
2.2.4. Các không gian tâm linh và cách dùng
quán từ (xác định và không xác định)
Ta hãy xét ví dụ dưới đây:
(9) The girl with green eyes has blue eyes = Cô gái
với đôi mắt xanh lục ấy có đôi mắt xanh lam.
Rõ ràng nếu đơn thuần xét về mặt kết hợp
ngh
ĩa (compositionality), ví dụ này có sự mâu
thuẫn (green eyes khác blue yes). Nhưng
chúng ta có thể thấy rõ ý nghĩa (sense) của
câu này khi xét về không gian tâm linh

(mental spaces): hai không gian tâm linh -
một thuộc về cô gái mắt xanh lục, một thuộc
về cô gái mắt xanh lam; và quan hệ tương
đồng giữa cô gái và các đôi mắt trong hai
không gian đó. Cả các không gian tâm linh và
các mối quan hệ tương đồng (correspondence
relations) đều không được mã hoá rõ ràng
trong biểu thức ngôn ngữ học. Và do vậy,
không gian tâm linh có lẽ nằm ngoài phạm vi
của sự kết hợp ngh
ĩa nghiêm ngặt (strict
compositionality) và nằm trong nội hàm văn
hóa.
Bên cạnh đó, ta có thể thấy sự khác nhau
của các ý nghĩa của các cánh dùng quán từ
trong ví dụ sau đây:

Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270

265
(10) "Ursula wants to marry a millionaire".
= "Ursula muốn cưới một ông triệu phú".
"A millionaire" ở đây khác hẳn với "a
millionaire" trong ví dụ "Ursula married a
millionaire" (cưới một ông triệu phú) về mặt
quy chiếu ("phi quy chiếu" và "quy chiếu").
Xem xét theo một cách khác, ta có thể thấy
có hai cách thông hiểu ví dụ (10) này:
1. Có một ngài triệu phú bằng xương
bằng thịt và Ursula muốn cưới ông ta Đây

chính là trường hợp thông hiểu cụ thể không
xác định (indefinite specific interpretation) (+
referential).
2. Ursula hiện tại vẫn chưa kiếm được
ngài triệu phú này, nhưng trong tâm tưởng
cô nàng vẫn hy vọng là sẽ kiếm được một ý
trung nhân như vậy. Đây chính là sự thông
hiểu phi cụ thể không xác định (indefinite
non-specific interpretation) (- referential) [2,
p.98-114; 5, tr.302-307].
3. Đề xuất của chúng tôi về cấu trúc ngữ nghĩa
Theo cách phân tích trên về cấu trúc ngữ
nghĩa của ngữ pháp trí nhân (Langacker và
Taylor), chúng tôi thấy phần nào đó cách
phân chia của các tác giả này chưa thật rạch
ròi và dễ lẫn lộn với nhau. Do vậy chúng tôi
mạ
nh dạn đề xuất cách phân tích sau đây:
3.1. Nhận định chung
Trước hết khi đề cập đến cấu trúc ngữ
nghĩa của thành tố của câu, và đặc biệt của
câu, cần thấy rõ cấu trúc ngữ nghĩa đó bị chi
phối bởi các yếu tố ngôn ngữ và văn hoá của
từng ngôn ngữ (Anh và Việt chẳng hạn). Do
vậy, cấu trúc ngữ nghĩa của mỗi ngôn ngữ
đề
u mang đậm nét phổ quát (universal) và
không phổ quát (non-universal). Nói khác đi,
trong trường hợp ngữ nghĩa của câu là sự
tổng hoà các thành tố của câu, đó chính là

tính phổ quát của ngôn ngữ - mọi ngôn ngữ
đều mang tính phổ biến này. Còn trường hợp
phi phổ quát chính là khi khi nghĩa của câu
không phải là sự tổng hoà của các thành tố
của câu mà có thể do những yếu tố khác như
văn hoá là chủ yếu hay đôi khi do cá nhân
người nói và người nghe (thứ yế
u) thông dịch
ngữ liệu đó. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nói đến
những nhân tố thuộc về logíc (phổ quát) và
văn hoá (không phổ quát).
3.2. Các trường hợp cụ thể
3.2.1. Cấu trúc ngữ nghĩa dựa trên tính phổ
quát (logic) của ngôn ngữ
Theo nguyên tắc này, ngữ nghĩa của câu /
phát ngôn chính là sự tổng hoà (hay kết hợp)
của các yếu tố cấu thành phát ngôn theo Ngữ
pháp Tri nhận. Đây chính là các trường hợp.
1. Nghĩa củ
a một biểu thức phức
(complex expression) - có thể là đoản ngữ
hay câu - được kết hợp từ các ý nghĩa của các
thành tố cấu thành nên nó (xem 2.2.1. và các
ví dụ (1) và (2)).
2. Nghĩa được xác định bởi vị trí không
gian của vật thể được kể đến trong phát ngôn
(đoản ngữ hay câu). Các vị trí không gian này
(spatial positioning) có thể khác nhau (xem
2.2.2 với ví dụ trong tiểu phần này về cái bàn
và quả bóng về cái bàn và quả bóng).

3. Nghĩa bị chi phối bở
i sự điều tiết và các
vùng năng động: Đây chính là sự thông hiểu
của các thành viên của cộng đồng ngôn ngữ
với các động từ chỉ hoạt động vật chất và cả
tinh thần, nói năng của con người. Đồng
thời cũng phải hiểu khi nói đến một thực thể
được kể đến trong một hành động chỉ có một
vùng năng động / hoạt động c
ủa thực thể đó
được kể đến trong hành động (xem phần
2.2.3 và ví dụ (8)).
Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270

266
4. Nghĩa được suy ra từ các không gian
tâm linh có thể được kéo theo vào trong một
phát ngôn, và do vậy các kết hợp nghĩa của
các thành tố xem ra có thể là mâu thuẫn nhau
(xem 2.2.4. và ví dụ (9)).
5. Nghĩa dựa trên sự thông hiểu về mặt
dụng học: suy diễn theo ngữ cảnh (cũng là
nét chung song cũng mang tính đặc thù cho
từng ngôn ngữ ) [2, p. 103].
3.2.2. Cấu trúc ngôn ngữ dựa trên tính phi
phổ quát
Hay nói khác đi là tính đặc thù của ngôn
ngữ (tức là các đặc điểm về v
ăn hoá đặc thù,
có thể gọi là phi logic hình thức của các ngôn

ngữ cụ thể). Trong phạm vi của bài viết,
chúng tôi xin nêu lên một số trường hợp điển
hình sau đây:
1. Trường hợp nghĩa thành ngữ (idiomatic
meanings): Trong trường hợp này khi nghiên
cứu tiếng Anh và tiếng Việt (một ngôn ngữ
Ấn - Âu có phân tích đúng cao và một ngôn
ngữ Á - Úc đơn lập) có thể thấy những:
+ Đặc điểm chung: nghĩa của thành ngữ
được suy diễn từ các thành tố (có thể xếp vào
trường hợp 3.1.1).
(11) a. Chơi với lửa (Việt) = play with fire (Anh).
b. Đồ con lừa (Việt) = you donkey (Anh).
+ Đặc thù từng ngôn ngữ: mang đậm nét
văn hoá (truyền thống) như:
(12) a. Con chiên ghẻ (Việt) = a black sheep (Anh).
(A disobediant catholician)
b. Ăn cháo đái bát = kick down the ladder.
(eat the soup and kich the bowl)
c. Khó ở (uneasy to exist) = under the weather.
d. Ngay lập tức (immediate at the moment)
= at once.
(Xem thêm các ví dụ (3) + (4) của 2.2.1.).
2. Trường hợp tục ngữ (proverbs): trường
hợp này rõ ràng mang sắc thái, bả
n chất văn
hoá của từng ngôn ngữ dựa trên sự đúc kết
kinh nghiệm sản xuất, sống và trải nghiệm
khoa học, học thuật của từng cộng đồng ngôn
ngữ. Chẳng hạn:

(13) a. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã (Việt)
= Birds of a feather flock together (Anh).
(Buffaloes seek buffaloes, horses seek horses)
b. Chó chê mèo lắm lông = The pot calls the
kettle black.
(Dogs disparage cats to be full of hair)
Trong trường hợp này, một câu tục ngữ /
ngạn ngữ tiếng Anh có thể chuyển dịch sang
ti
ếng Việt theo các câu nói khác nhau do tiếng
Việt có thể có những tương đương đẳng ngữ,
chẳng hạn 13b có thể là: "Thờn bơn méo miệng
chê trai lệch mồm" hay "Chuột chù chê khỉ rằng
hôi "
3. Nghĩa ẩn dụ và một số trường hợp
nghĩa dựa trên lối nói bóng bẩy như ngoa dụ,
hài hước. Trên thực tế, có thể thấy một số
trường hợp có thể đượ
c coi là chung cho mọi
ngôn ngữ.
(14) a. Chân
đồi = the foot of the hill.
b. Miệng
hang = the mouth of the cave.
Hay như những trường hợp (5) và (6) của
2.2.1. đã nêu trên đây.
Nhưng cũng có những trường hợp sự
khác nhau nhất định trong cách sử dụng ẩn
dụ trong hai ngôn ngữ:
(15) a. Chân

trời ~ horizon (không ẩn dụ).
b. Quả
/ trái tim ~ the heart (không ẩn dụ).
và c. Con ngươi của mắt bạn (không ẩn dụ)
~ the apples of your eyes (ẩn dụ).
d. Một thành phố hiền hoà (thân thiện)
(không ẩn dụ) ~ a friendly
city (ẩn dụ nhân
cách hoá).
Trong các ví dụ trên: a và b trong tiếng
Việt là ẩn dụ còn tiếng Anh tương ứng không
phải là ẩn dụ, và ngược lại với c và d, tiếng
Việt không mang rõ nét ẩn dụ còn tiếng Anh
lại là ẩn dụ rõ ràng.
Đồng thời, trong rất nhiều trường hợp ẩn
Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270

267
dụ thường được lồng ghép với hoán dụ
(metonymy - vấn đề thường gặp trong trường
hợp ý nghĩa phổ quát của ngôn ngữ [2,
p.112]. Theo Lakoff [6], khi nói về "anger" (sự
giận dữ) ta có biểu tóm tắt sau đây (phần dịch
sang tiếng Việt là của chúng tôi).
METONYMY + INCREASE / IN BODY TEMPERATURE STANDS FOR ANGER
(Hoán dụ) (Sự tăng lên của nhiệt độ cơ thế thể hiện sự giận dữ
METAPHORS ) + ANGER / IS HEAT
(Ẩn dụ) (Sự giận dữ là nhiệt lượng)

ANGER IS FIRE + ANGER IS THE HEAT + THE BODY IS A CONTAINER

OF A FLUID IN A CONTAINER FOR EMOTIONS
(Sự giận dữ là lửa cháy) (Sự giận dữ là nhiệt lượng của một (Cơ thể là một công-te-nơ chứa
dòng chảy trong một công - ten - nơ) đựng các cảm xúc)
(Dẫn theo Ungerer & Schmid [7, p.134])
Như vậy trong khá nhiều trường hợp
không có sự phân định rạch ròi giữa nghĩa
kết hợp (phổ quát) và không kết hợp (phi phổ
quát).
Ngoa dụ và hài hước cũng mang những
nét phổ quát và phi phổ quát như:
+ Phổ quát
(16) a. Đen như than = black as coal.
b. Sự rối rắm bời bời = a nice mess (mớ bòng
bong thú vị).
+ Phi phổ quát
(17) a. Đen như chó mực ~ (as) unlucky as
(Hobson + Hobson's choice)
b. Da trời không nhuộm mà xanh ngắt
M
ắt lão không viền cũng đỏ hoe
(~ The sky is so blue without being dyed
And my eyes get so red due to trachoma).
4. Cách dùng quán từ tiếng Anh và việc
sử dụng loại từ và phân định từ (classifier
and identifier) trong tiếng Việt.
Quán từ trong tiếng Anh là một nét đặc
thù của loại ngôn ngữ Giecmanh này. Nó
khác rất nhiều so với các loại quán từ dùng
trong nhiều ngôn ngữ Ấn Âu khác (chẳng
hạn tiếng Latin, tiếng Rumani, tiếng Pháp và

thậm chí cả tiếng Đức) ở chỗ không có sự
phân biệt về giố
ng và số. Nó gắn liền với quy
chiếu ngữ pháp (reference in grammar) bao
gồm các tiểu phạm trù: Nghĩa chung (generic
refence) nghĩa cụ thể (specific repence), nghĩa
đơn nhất (unigue reference) nghĩa cụ thể
(specific reference), nghĩa đơn nhất (unique
reference). Ngoài các ví dụ (14) và (15) đã nêu
trên đây, ta có thể nêu thêm một vài ví dụ:
(18) In the
country of the blind the one - eyed man
is king = Trong xứ mù anh chột làm vua.
Việc sử dụng quán từ "the" trong ba danh
ngữ đầu và quán từ zero trong danh ngữ cuối
là khá đặc thù của tiếng Anh (khác với
nghĩa).
(19) An
apple a day keeps the doctor away.
= Ăn một quả táo một ngày giúp bạn cường
tráng suốt đời (cách ly bạn khỏi bác sỹ).
Nghĩa của quán từ: an = một, a = mỗi; the
với ý nghĩa phân định "ông bác sỹ" của bạn là
một nét đặc trưng nữa của tiếng Anh.
Loại từ (classifier) và từ phân định/xác
định (identifier) là nét đặc thù của tiếng Việt
gồm cái (loại từ), anh/ông/lão (từ phân định)
(20) Cái
anh chàng nhà quê đua đòi hãnh tiến ấy.
= that upstart snobbish country-lad.

Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270

268
(trong đó "chàng nhà quê" có thể coi là danh
từ đầu tố - head noun - là một danh từ ghép).
Cấu tạo của danh từ ngữ phức tiếng Việt
cũng là một hiện tượng khá đặc trưng cho
loại ngôn ngữ đơn lập này với từ
"này/kia/nọ/đó" là từ xác định (determiner)
tách ra đứng cuối danh ngữ phức khác hẳn
với từ xác định tiếng Anh (this, that, these,
those) mà theo truyền thống là từ chỉ định
(demonstratives).
5. Ngh
ĩa do một số yếu tố đặc trưng cho
ngôn ngữ (bao gồm cả yếu tố văn hoá) quy
định. Trong tiếng Việt, chẳng hạn, có thể liệt
kê một số nét đặc trưng của loại ngôn ngữ
đơn lập này.
- Hiện tượng lặp từ (điệp ngữ) trong cấu
tạo câu có thể bao gồm:
+ Lặp lại hoàn toàn: lặp chủ ngữ mang
nghĩa số nhiề
u, (a) hay lặp vị ngữ nghĩa giảm
nhẹ (b).
(21) a. Người người
thi đua, ngành ngành thi đua.
= Everyone and every organization emulates.
Nhà nhà
làm từ thiện. Người người mua

chứng khoán.
= Every home does charity. Every one buys
stock tickets.
b. Ông ấy dạo này điên điên
khùng khùng.
= He’s now a little bit crazy.
Bà ấy sau trận ốm cứ nhớ nhớ
quên quên.
= She got a little bit forgetful after the illness.
Hiện tượng lặp này còn xảy ra với các
trạng ngữ:
(22) a. Mắt đen tròn thương thương
quá đi thôi
= Her round black eyes looked so charming.
b. Gia tư nghỉ cũng thường thường
bậc trung
= His family properly ranks among the mid-
level.
c. Ngày ngày đêm đêm
em ngóng chờ tin anh.
= Day and night I would expect the news from
you.
Theo Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà:
"Điệp ngữ là biện pháp lặp lại một hay
nhiều lần những từ, ngữ nhằm mục đích mở
rộng nghĩa gây ấn tượng mạnh mẽ hoặc gợi
ra những xúc cảm trong lòng người đọc, nghe":
(23) Chiều chiều
lại nhớ chiều chiều
Đôi o bướm trắng dải điều thắt lưng.

= At dusk we miss the scene when dusk came,
Couple of girls with red belt at waist turned
round [8, tr.210].
+ Lặp lại có biến đổi thanh điệu: đo đỏ,
bàng bạc, bằn bặt, thiêm thiếp, thường
dùng để cấu tạo từ, gọi là từ láy. Theo chúng
tôi loại từ láy này cũng thường xuất hiện
trong câu hay cụm từ chứ ít khi đứng một
mình và gây nhiều phiền toái cho cả dịch giả
Việt - Anh.
- Hiệ
n tượng nói lái (spoonerism) thường
gặp trong trường hợp thông tục hay chơi chữ.
Hiện tượng nói lái này nhiều khi thay đổi
theo tập quán từng vùng.
(24) a. Đèo Hải Vân = đèo Vẩn hai/ vần hải đeo
(phía Bắc)
(= Hai Van pass) = đần hải veo/ đần vải heo
(phía Nam).
b. Mua hai lạng = mua lang hại/ lang hai
mua (phía Bắc)
(= buy 200grs) = mang hai lụa/mai lua hạng
(phía Nam).
Nếu tiếp tục suy diễn theo lỗi nói lái này,
nghĩa của đoản ngữ (danh ngữ hay độ
ng
ngữ) sẽ biến đổi khôn lường và gây nhiều trở
ngại cho người nước ngoài học tiếng Việt.
Trường hợp này tương tự với tiếng Anh
trong spoonerism:

(25) Well- boiled icycles (= well- oiled bicycles) (=
xe dốt tầu).
4. Mấy ý kiến kết luận
4.1. Khi xem xét cấu trúc ngôn ngữ, đồng
thời với việc xem xét cấu trúc vật chất của nó:
Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270

269
cấu trúc ngữ âm và cấu trúc cú pháp [5] cần
xem xét cấu trúc ngữ nghĩa chính là sự thể
hiện về mặt tinh thần, tâm lý, tâm linh con
người khi sử dụng ngôn ngữ. Rõ ràng có mối
liên hệ hữu cơ giữa các cấu trúc nói trên, nói
khác đi là giữa ngữ âm, cú pháp và ngữ nghĩa
của mọi ngôn ngữ.
4.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của ngôn ngữ
được xác định bởi hai yếu tố: CÓ
hay
KHÔNG sự kết hợp nghĩa nghiêm ngặt các
thành tố tạo nên đơn vị ngôn ngữ, mà đơn vị
cơ bản chính là CÂU hoặc CÚ. Từ phân tích
trên, ta hoàn toàn có thể xác định công thức
tạo thành nghĩa của câu (khác với công thức
của Nguyễn Hoà 2006) [1].
4.2.1. Theo ngữ pháp Chức năng - Hệ
thống (theo quan điểm của Halliday):
Tiếng Anh: clause = sentence.
Msent = f [St ± comp (RIT)]
Giải thích: Meaning of sentence = function
of [structure (i.e.senmantic structure) ±

compositionality (Representational +
Interpersonal + Textual)].
Tiếng Việt
Nghĩa câu = hs [Ctr ±
k.hợp (Tgiải +
Lnhân + V bản)]
Giải thích: Nghĩa của câu = hàm số của
[Cấu trúc ngữ nghĩa ± kết hợp các thành tố
(tường giải + Liên nhân + Văn bản)].
4.2.2. Theo ngữ pháp tri nhận và Cú pháp
kết hợp Ngữ nghĩa (theo quan điểm các nhà
Cú pháp học đương đại):
Tiếng Anh: Theo cách nhìn nhận về mệnh
đề logic (proposition): Msent = f [St ± comp
(Pred + Arg (s)].
Giải thích: Meaning of sentence = function
of [structure ± compositionality (Predicatior +
Argumentis).
Tiếng Việt:
Nghĩa câu = hs (Ctr ± k
ết hợp (Vt + Tht)]
Giải thích: Nghĩa của câu = hàm số của
[cấu trúc ngữ nghĩa ± kết hợp nghĩa của (Vị
trí + Tham tố)].
4.3. Sự xem xét tính đến các nhân tố tạo
thành cấu trúc ngữ nghĩa của câu, đơn vị cơ
bản của mọi ngôn ngữ đều tuân thủ các
nguyên tắc chúng tôi đã nêu trong phần 3 của
bài viết này. Do vậy các nhà ngôn ngữ học,
đặc biệt ngôn ngữ học

đối chiếu, cần đi sâu
xem xét các trường hợp thể hiện trong công
thức “± comp (= ± k.hợp)” khai thác các
trường hợp phổ quát và phi phổ quát của
ngôn ngữ loài người mà theo ý của chúng tôi
số lượng các trường hợp khá cân bằng (5 : 5).
Nhưng có lẽ đây là sự cân bằng đã lý tưởng
hoá.
Tài liệu tham khảo

[1] Nguyen Hoa, Understanding English Semantics,
VNU Hanoi Press, Hanoi, 2006.
[2] J. R. Taylor, Cognitive Grammar, Oxford
University Press, Oxford, 2002.
[3] E. Sweetser, Compositionality and blending:
Semantic composition in a cognitive realistic
framework, In Janssen and Redeker (eds - 1999),
Longman, London, 1999.
[4] R. W. Langacker, Foundations of Cognitive
Grammar, Vol 1: "Theoretical Prerequisites",
Standford, California, 1987.
[5] Trần Hữu Mạnh, Ngôn ngữ học đối chiếu: Cú pháp
tiếng Anh - tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, H., 2007.
[6] G. Lakoff, Women, Fire, and Dangerous Things:
What Categories Reveal about the Mind, Chicago,
USA, 1987.
[7] F. Ungerer, H. J. Schmidt, An Introduction to
Cognitive Linguistics, Longman, London, 1997.
[8] Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà, Phong cách

học tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.


Trần Hữu Mạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 262-270

270

On the semantic structure of English and Vietnamese
in the light of Cognitive Linguistics
Tran Huu Manh
Department of Anglo-American Language and Culture, College of Foreign Languages, VNU,
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam


Realizing the importance of the semantic structure of human languages (together with the
phonological structure and the syntactic structure), the article makes a review of the conception
of semantic structure raised by Langacker (1987) and Taylor (2002) and then suggests at the study
of this in terms of (1) compositionality, based on language universals, including (a) the
combination of the meanings of words and phrases making up the sentence, (b) the relative
positioning of the entities involved in the sentence; (c) the accommodation and the
active/dynamic zones; (d) the mental spaces common to human beings’ interpretation; and (e) the
pragmatic interpretation based on the context features; and (2) uncompositionality, based on
percularities of particular languages under study, namely: (a) idiomacity; (b) proverbs; (c)
metaphor and other figures of speech usage; (d) article usage in English and its Vietnamese
equivalents; and (e) reiteration, reduplications and spoonerisms which are particularly popular in
Vietnamese. These cases are supported by examples in the English and the Vietnamese language.
The article finally arrives at the formulas of the meaning of the sentence as follows:
M sent = f [St ± compositionality (RIT)] (in the light of Halliday’s functional grammar)
Or M sent = f [St ± comp (Pred. + Arg(s)] (in the light of Cognitive Linguistics).


×