Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Sinh viên xã hội học với việc học thêm ngoại ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.66 KB, 56 trang )

Phần mở đầu
1.lý do chọn đề tài
Thế kỉ 21 là thế kỉ của toàn cầu hoá, thế kỉ của sự giao lu và hội nhập quốc
tế. Việt Nam cũng hoà trong xu thế hội nhập của thế giới đồng thời với quá
trình đổi mới toàn diện đất nớc.Một nét nổi bật trong quá trình đổi mới là
Đảng và Nhà nớc ta chủ trơng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần với cơ chế thị trờng, theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Chủ trơng đó đã
tạo ra nhiều chuyển biến tích cực. Cùng với sự phát triển của nhiều lĩnh vực
khác, chúng ta đang có những tiền đề để đa đất nớc chuyển sang thời kì mới,
thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bớc hội nhập với các nớc trong
khu vực và trên thế giới.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ và nhu cầu thơng mại, hợp tác quốc tế đang làm cho sự nhất thể hoá
toàn cầu có nhiều khả năng trở thành hiện thực.Trong bối cảnh thời đại đó,
mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm tới mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ-
những chủ nhân tơng lai , ngời sẽ quyết định sự phát triển kinh tế xã hội ở
mỗi quốc gia.
Khi đa ra nhữnh tiêu chuẩn về giáo dục cho thế hệ trẻ đến năm 2000, các
nhà giáo dục Mĩ và Tây Âu cho rằng một trong những điều kiện không thể
thiếu là các cá nhân phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ. Điều này quả thực
rất hợp lý bởi nếu không có ngoại ngữ làm phơng tiện giao tiếp thì không thể
nói đến chuyện giao lu, học hỏi và hội nhập quốc tế.
Đối với sinh viên, ở tầm vĩ mô, sự quan trọng của ngoại ngữ đối với họ
cũng chính là đối với xã hội, bởi sinh viên chính là những ngời trong tơng lai
sẽ sử dụng ngoại ngữ nh một phơng tiện để giao lu, học hỏi, hội nhập và phát
triển xã hội. ở tầm vi mô, ngoại ngữ chính là vốn kiến thức quan trọng của
mỗi cá nhân, là yếu tố không thể thiếu trong hành trang gia nhập thị trờng việc
làm.
Đối với sinh viên Xã hội học nói riêng, ngoại ngữ còn là yếu tố quan trọng
cần cho sự xâm nhập thực tế, vốn là một đòi hỏi đặc trng của chuyên ngành
này, đồng thời là phơng tiện để mở mang kiến thức qua nguồn tài liệu nớc


ngoài vì tài liệu tiếng Việt còn ít. Hơn nữa trong thế kỉ 21 này , khi Xã hội
học sẽ thực sự trở thành một ngành khoa học mũi nhọn tại Việt Nam, ngoại
ngữ sẽ trở thành điều kiện quan trọng giúp các nhà Xã hội học trao đổi, học
hỏi, mở mang tri thức từ những nền Xã hội học phát triển trên thế giới. Và
ngay lúc này, khi sự thăng hoa của Xã hội học Việt Nam cha trở thành hiện
thực thì ngoại ngữ vẫn là một yếu tố không thể thiếu, thúc đẩy thời điểm ấy
tiến lại gần hơn.
Nhận thức đợc tầm quan trọng lớn lao của ngoại ngữ , các sinh viên Xã hội
học đã quan tâm tới việc trau dồi trình độ ngoại ngữ của mình. Họ không chỉ
tham gia học trong chơng trình chính khoá của nhà trờng mà còn đi học thêm
nhằm củng cố và nâng cao trình độ . Tuy nhiên, liệu hoạt động học thêm ấy có
thực sự đem lại hiệu quả mong muốn cho mọi sinh viên hay không ? Để đánh
giá vấn đề này, tôi lựa chọn đề tài Sinh viên Xã hội học với việc học thêm
ngoại ngữ để nghiên cứu, nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng của hoạt động
này, trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp giúp sinh viên định hớng tốt hơn
trong việc sử dụng thời gian, công sức , tiền bạc để đạt đợc hiệu quả cao hơn.
Trong phạm vi đề tài này, tôi không có điều kiện nghiên cứu toàn bộ sinh
viên Xã hội học trên địa bàn Hà Nội mà chỉ có thể tập trung khảo sát sinh viên
Xã hội học tại trờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn.
2.mục tiêu nghiên cứu
2.1 Tìm hiểu thực trạng hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên
Xã hội học.
2.2 Phân tích những nhân tố ảnh hởng đến hoạt động học thêm ngoại ngữ.
2.3 Tìm hiểu định hớng nghề nghiệp của sinh viên Xã hội học và tác động
của nó đối với hoạt động học thêm ngoại ngữ trong sinh viên.
3.đối t ợng và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tợng nghiên cứu:
Việc học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học
3.2 Khách thể nghiên cứu:
Sinh viên năm thứ nhất đến năm thứ t, khoa Xã hội học, ĐHKHXH&NV

4.phạm vi nghiên cứu
4.1 Giới hạn phạm vi không gian , thời gian:
- Thời gian : tháng 3/4 năm 2001
- Không gian: khoa Xã hội học , ĐH KHXH&NV
4.2 Giới hạn lĩnh vực nghiên cứu:
Mô tả thực trạng hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học.
Đánh giá sự ảnh hởng của các yếu tố giới, năm học, hộ khẩu thờng trú
và định hớng nghề nghiệp đối với hoạt động này.
5. ph ơng pháp nghiên cứu
5.1 Phơng pháp chọn mẫu
Mẫu đợc chọn bao gồm 100 đơn vị mẫu là sinh viên từ năm I đến năm IV
khoa Xã hội học, ĐH KHXH&NV với cơ cấu mẫu nh sau:
Nguyên tắc chọn mẫu :
-Mẫu đợc chọn theo năm học với tỉ lệ 40% năm thứ I-II và 60% năm thứ
III-IV ( tơng ứng với tỉ lệ này trong tổng cơ cấu mẫu)
-Tỉ lệ nam nữ tồn tại ngẫu nhiên theo đơn vị lớp.
-Tỉ lệ sinh viên có hộ khẩu thờng trú tại đô thị và nông thôn tồn tại ngẫu
nhiên theo đơn vị lớp.( hộ khẩu thờng trú ở đây hiểu là nơi sinh viên c trú trớc
khi vào đại học)
Bảng 1 : Cơ cấu mẫu điều tra
STT
Tiêu chí Số lợng
%
1
Giới tính
1.Nam 36 36%
2. Nữ 64 64%
2
Năm học
1.Năm I-II 40 40%

2.Năm III-IV 60 60%
3
Hộ khẩu thờng trú
1.Đô thị 47 47%
2.Nông thôn 53 53%
Ngoài ra, để phục vụ cho việc so sánh giữa sinh viên Xã hội học và những
sinh viên khác, đề tài đã tiến hành nghiên cứu 100 mẫu là sinh viên các khoa
Lịch sử, Ngôn ngữ, Văn học và Lu trữ, cơ cấu mẫu nh sau
STT
Tiêu chí Số lợng
%
1
Giới tính
1.Nam 34 34%
2. Nữ 66 66%
2
Năm học
1.Năm I-II 40 40%
2.Năm III-IV 60 60%
3
Hộ khẩu thờng trú
1.Đô thị 34 34%
2.Nông thôn 66 66%
5.2 Phơng pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Bảng hỏi đợc xây dựng với 12 câu hỏi nhằm làm rõ những thông tin cơ bản
sau:
- Đặc điểm cá nhân
- Định hớng nghề nghiệp
- Kết quả học ngoại ngữ
- Động cơ học thêm ngoại ngữ

- Chi phí về thời gian, tài chính cho hoạt động học thêm
Bảng hỏi dành cho các sinh viên không thuộc khoa Xã hội học gồm 10 câu
hỏi với những nội dung cơ bản nh trên.
Bảng hỏi đợc tiến hành điều tra thử để rút ra và khắc phục những sai sót, hạn
chế trong kĩ thuật xây dựng cũng nh nội dung của bảng hỏi để thu đợc những
dữ liệu cần thiết, đồng thời đảm bảo tính chính xác, khách quan của thông tin.
5.3 Phơng pháp phỏng vấn sâu
Phơng pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi nêu trên có thể đem lại
những thông tin định lợng mang tính bao quát. Để có đợc những thông tin
đinh tính chi tiết và sâu sắc hơn, tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu một số sinh
viên nhằm hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề và nhằm tìm hiểu, phát hiện những
khía cạnh mới mẻ, sâu sắc trong những ý kiến của họ về vấn đề nghiên cứu.
5.4 Phơng pháp phân tích tài liệu
Do không đủ điều kiện thu thập thông tin về định hớng nghề nghiệp của
sinh viên nói chung nhằm phục vụ cho việc so sánh với định hớng của sinh
viên Xã hội học, tôi đã sử dụng và phân tích số liệu thứ cấp từ đề tài Định h-
ớng giá trị của sinh viên con em cán bộ khoa học trong cuốn sách cùng
tên của TS. Vũ Hào Quang.
6.giả thuyết nghiên cứu
học thêm ngoại ngữ là một hoạt động phổ biến trong sinh viên Xã hội
học hiện nay. Sinh viên học thêm ngoại ngữ nhằm nâng cao trình độ để
phục vụ cho công việc sau này, do đó sự khác biệt trong kết quả học ngoại
ngữ của sinh viên là do sự khác biệt về định hớng nghề nghiệp sau khi ra
trờng của họ.
Phần cơ sở lý luận
1. Hệ khái niệm
1.1 Khái niệm sinh viên
Theo từ gốc La tinh, sinh viên student-là ngời làm việc, học tập, tìm
hiểu, khai thác tri thức.
Theo nghĩa thông thờng, sinh viên là ngời học tập ở bậc trung cấp, cao

đẳng và đại học.
1.2 Khái niệm ngoại ngữ
Đó là ngôn ngữ của một quốc gia khác, khác với tiếng mẹ đẻ.
1.3 Khái niệm học thêm
Học thêm là mọi hoạt động học ngoài chơng trình chính khoá của nhà tr-
ờng.
1.4 Khái niệm động cơ
Động cơ tâm lý(phân biệt với động cơ vật lý) là cái thúc đẩy con ngời hoạt
động nhằm thoả mãn nhu cầu hoặc đạt tới một mục đích nào đó. Là nội dung
bản chất của hành vi, hành động và hoạt động, tạo nên tính tích cực của chủ
thể, quy định nhu cầu, hứng thú, ý hớng, cảm xúc, tâm thế và lý tởng. Có
nhiều quan niệm khác nhau về động cơ tâm lý: theo chủ nghĩa hành vi, bất kì
kích thích nào(bên ngoài và bên trong) có khả năng thúc đẩy hành vi con ng-
ời đều là động cơ; Phân tâm học mô tả động cơ nh những bản năng và ý tởng
sự vật có sẵn trong con ngời; Tâm lý học hoạt động hiểu động cơ tâm lý là
hình ảnh phản ánh đối tợng trong hiện thực, đáp ứng nhu cầu, thúc đẩy và
diều khiển hoạt động của con ngời.
(Từ điển Bách khoa Việt nam Tập 1)
1.5 Khái niệm định hớng nghề nghiệp
Định hớng nghề nghiệp là việc hình thành trong con ngời một hứng thú đối
với loại hoạt động lao động nhất định. Việc lựa chọn cho con ngời một nghề
nghiệp thích hợp nhất, có chú ý tới những đặc điểm tâm, sinh lý, lợi ích, khả
năng của ngời đó và cả nhu cầu của nền kinh tế quốc dân về sức lao động
thuộc những ngành nghề tơng ứng, việc định hớng nghề nghiệp đợc thực
hiện bằng cách giới thiệu cho mọi ngời, đặc biệt là thanh niên, học sinh, các
lĩnh vực và các loại hoạt động, các nghề nghiệp, các xí nghiệp, xem xét điều
kiện và dạng công việc trong phạm vi đó.
(Từ điển Bách khoa Việt Nam Tập 1)
2. Các hớng tiếp cận lý thuyết
2.1 Lý thuyết hệ thống

Tiếp cận hệ thống là một nguyên lí hoạt động của khoa học Điều khiển học
đợc nhiều ngành khoa học ứng dụng. Dới góc độ Xã hội học, lý thuyết hệ
thống của T.Parsons đợc hầu hết các nhà nghiên cứu sử dụng làm cơ sở cho
việc nghiên cứu đời sống xã hội.Theo Parsons :
- Xã hội là một hệ thống tơng đối khép kín, có phần đồng bộ của những
hành động.
- Hệ thống tổng thể cũng giống nh một cá thể, luôn tự bảo tồn.
- Nó hớng tới một trạng thái cân bằng.
Nh vậy "hệ thống xã hội đợc hình thành nhờ những trạng thái và quá trình t-
ơng tác mang tính xã hội của những cá nhân hành động", dồng thời đợc dựa
trên bốn hệ thống phân hệ hành động của con ngời (cơ thể, hệ thống nhân sự,
hệ thống xã hội và hệ thống văn hoá ) và mỗi hệ thống này mang lại hiệu suất,
chức năng khác nhau phù hợp với bốn phân hệ trên, đó là :
- Chức năng phù hợp (Adaptation) : giải quyết những nhu cầu về môi
trờng và tài nguyên thiên nhiên sẵn có - chức năng thuộc lĩnh vực lao động và
kinh tế.
- Chức năng hớng đích ( Goal attainment ) - chức năng chính trị
- Chức năng hoà nhập ( Integration ) - chức năng pháp luật
- Chức năng bảo toàn cấu trúc ( Latency ) - chức năng giáo dục
Nội dung của lý thuyết này có thể đợc khái quát nh sau : xã hội ở tầm vĩ mô
hay vi mô đều luôn tồn tại với t cách một hệ thống toàn vẹn, mọi bộ phận cấu
thành hệ thống đều phụ thuộc lẫn nhau một cách chặt chẽ, mỗi yếu tố riêng lẻ
chỉ có ý nghĩa khi đặt nó trong tổng thể, các mối tơng tác, cơ cấu và trạng thái
cũng phải đợc đặt trong tổng thể nếu muốn hiểu rõ về chúng.
Trên cơ sở đó, khi xem xét hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã
hội học, ta phải đặt nó trong mối quan hệ biên chứng và thống nhất với những
quá trình, những hoạt động khác của sinh viên, đồng thời đặt nó vào bối cảnh
kinh tế- xã hội để có đợc cái nhìn đa diện và biện chứng.
2.2 Lý thuyết hành động xã hội
Các lý thuyết Xã hội học về hành động xã hội có nguồn gốc từ Pareto,

Weber, Znaniecki, Mead, Parsons. Các lý thuyết này đều coi hành động xã hội
là cốt lõi của mối quan hệ giữa con ngời và xã hội, đồng thời là cơ sở của đời
sống xã hội. Trong Xã hội học, hành động xã hội đợc hiểu một cách cụ thể và
thờng gắn với các chủ thể hành động là các cá nhân. Định nghĩa của Weber đ-
ợc coi là định nghĩa hoàn chỉnh nhất về hành động xã hội. Ông cho rằng hành
động xã hội là hành vi mà chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nhất định,
trên cơ sở đó chủ thể định hớng vào hành vi của những chủ thể khác. Không
chỉ Weber mà cả những tác giả khác của lý thuyết hành động xã hội đều quan
tâm đến một vấn đề cơ bản của hành động xã hội, đó là sự tham gia của yếu tố
ý thức, Weber thì gọi đó là ý nghĩa chủ quan và sự định hớng mục đích, Mead
thì xem đó là tâm thế xã hội của các cá nhân.
Hành động xã hội luôn gắn với tính tích cực cá nhân. Tính tích cực này lại bị
quy định bởi hàng loạt những yếu tố nh nhu cầu, lợi ích, định hớng giá trị của
chủ thể hành động. Tất cả những yếu tố và quá trình đó là phơng thức tồn tại
của chủ thể .
Xem xét hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học dới góc độ
của lý thuyết hành động xã hội sẽ thấy đợc thực trạng của hoạt động này đợc
quy định bởi những yếu tố nh nhu cầu, lợi ích, định hớng giá trị của chính chủ
thể sinh viên. Từ đó thấy đợc mối liên hệ biện chứng giữa động cơ và thực
trạng hoạt động học thêm ngoại ngữ trong sinh viên Xã hội học hiện nay
KếT QUả NGHIÊN CứU
1. Tổng quan tình hình học ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học
Khoa Xã hội học trờng ĐH KHXH&NV thuộc ĐHQG Hà Nội đợc chính
thức thành lập, tách ra khỏi khoa Tâm lý học xã hội vào năm 1996. Hiện nay
khoa đang đào tạo hơn 500 sinh viên hệ cử nhân chính quy. Việc thi tuyển đầu
vào đợc thực hiên ở các khối A,C,D trong đó khối C chiếm tỉ lệ cao nhất, khối
D chỉ chiếm gần 30%.
Sinh viên học tập tại khoa, cũng nh sinh viên các khoa khác trong trờng, đ-
ợc đăng ký học ngoại ngữ theo nguyện vọng. Tuy nhiên, do ở chơng trình phổ
thông sinh viên chủ yếu đợc đào tạo môn tiếng Anh nên đa phần sinh viên

đăng ký theo học tiếng Anh tại trờng, chỉ có khoảng 10% đăng kí các thứ tiếng
khác nh Pháp, Nga, Trung. Sinh viên Xã hội học đợc học ngoại ngữ trong 5/8
kì học và đợc giảng dạy bằng những giáo trình thông dụng do giáo trình ngoại
ngữ chuyên ngành cha đợc biên soạn.
Do thi đầu vào từ nhiều khối, nhiều miền khác nhau với trình độ ngoại ngữ
rất khác nhau, nhìn chung kết quả học ngoại ngữ tại trờng của sinh viên Xã hội
học có một sự phân hoá rất lớn, nhiều sinh viên dễ dàng vợt qua các kỳ thi với
điểm khá, giỏi và thấy chơng trình học có phần đơn giản không phù hợp với
trình độ. Trong khi đó có một bộ phận lớn các sinh viên thi khối A,C, sinh
viên vùng cao, vùng sâu vùng xa lại thấy chơng trình học ngoại ngữ chính
khoá quá phức tạp đối với họ và không thể tránh khỏi việc thi lại.
Hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học rất đa dạng về động
cơ, hình thức cũng nh hiệu quả thu đợc. Sinh viên có thể học thêm một ngoại
ngữ mới hoặc chỉ củng cố và nâng cao ngoại ngữ đang theo học tại trờng. Sinh
viên có thể học với hình thức gia s, lớp tự tổ chức, các lớp tại chức, đào tạo từ
xa, nhng phổ biến nhất vẫn là theo học tại các trung tâm ngoại ngữ, hiện là
một hình thức học thông dụng nhất tại Hà Nội.
Hiện nay, theo số liệu thống kê của sở GD-ĐT, tính đến thời điểm tháng
8-2000, trên địa bàn Hà Nội có 65 trung tâm ngoại ngữ có đăng kí với sở và
rất nhiều trung tâm mở không đăng kí.Các trung tâm ngoại ngữ chủ yếu tập
trung ở khu vực trờng Đại học Bách khoa, cụm các trờng đại học thuộc quận
Thanh Xuân và Cầu Giấy.Tại Hà Nội, chỉ có 2 trung tâm dạy ngoại ngữ với
100% giáo viên ngời nớc ngoài là trung tâm Apollo (có mặt tại đây từ năm
1994) và trung tâm Language Link -UDP (có mặt từ 1996) Đây là nơi có chất
lợng đào tạo rất cao, điều kiện học tập và giảng dạy tốt nhng cũng đòi hỏi ở
ngời học một trình độ nhất định và đặc biệt là học phí rất cao (300USD cho 6
tháng học tại Language Link và 171 USD cho 3 tháng học tại Apollo ) Do đó ,
hầu hết sinh viên vẫn tìm đến những trung tâm ngoại ngữ do giáo viên Việt
Nam giảng dạy dù có thể môi trờng và chất lợng học tập ở những nơi này
không đợc tốt.

2. Nhận thức của sinh viên về vai trò của ngoại ngữ.
Phong trào học ngoại ngữ trở nên thực sự lớn mạnh ở Việt Nam trong
khoảng hơn một thập kỷ nay cũng với sự mở cửa giao lu của xã hội Việt Nam
và sự phát triển của nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Đối
với xã hội, ngoại ngữ đợc xem nh một phơng tiện để hội nhập với thế giới, để
giao lu học hỏi và thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Đối với cá nhân,
ngoại ngữ là điều kiện để đảm bảo một tơng lai vững chắc, là tấm vé giúp cá
nhân tự tin gia nhập vào thị trờng việc làm đầy tính cạnh tranh nh hiện nay.
Sinh viên- những ngời trong tơng lai rất gần sẽ bớc vào thị trờng ấy-là những
đối tợng cần đặc biệt trao dồi và nâng cao vốn ngoại ngữ của mình. Vai trò to
lớn của ngoại ngữ theo sinh viên từ khi họ còn học tập tại giảng đờng đại học,
ngoại ngữ giúp sinh viên mở rộng thêm vốn kiến thức của mình qua những
nguồn tài liệu phong phú, giúp họ trở nên tự tin hơn. Sau khi tốt nghiệp, ngoại
ngữ sẽ là điều kiện cần thiết, có thể là thế mạnh trong cạnh tranh của sinh viên
khi xin việc và khi đã bớc vào ngỡng cửa của công việc, ngoại ngữ vẫn sẽ theo
họ, trở thành vốn kiến thức quý báu giúp họ thực hiện tốt hơn công việc của
mình.
Tầm quan trọng của ngoại ngữ đối với mọi ngời nói chung và đối với sinh
viên nói riêng dờng nh đã trở thành một vấn đề không cần bàn cãi. Tuy nhiên,
phải chăng mọi sinh viên đều đã có thể nhận thức đợc điều đó? Liệu có tồn tại
những sinh viên chỉ thấy đợc bề nổi của sự phát triển mạnh mẽ phong trào học
ngoại ngữ, chỉ thấy sự cần thiết mang tính hình thức của những tấm bằng khi
xin việc ?
Để tìm câu trả lời cho vấn đề này, tôi tiến hành tìm hiểu nhận thức của sinh
viên đối với tầm quan trọng của ngoại ngữ thông qua câu hỏi Xin bạn đánh
giá tầm quan trọng của ngoại ngữ đối với bạn khi ra trờng và đa ra 3 phơng
án trả lời :
1.Rất quan trọng
2.Không quan trọng lắm
3.Không quan trọng

Sở dĩ tôi chỉ đa ra 3 phơng án trên mà không có phơng án quan trọng bởi
tôi muốn đánh giá tầm quan trọng của ngoại ngữ theo 3 mức độ nhiều, trung
bình và ít, nếu có ai đó chỉ muốn đánh giá ở mức quan trọng thì có nghĩa là
họ cũng thiên về phơng án với mức độ nhiều. Chỉ đa ra 3 phơng án sẽ hạn chế
đợc sự phân tán trong các câu trả lời.

Bảng 2 : Đánh giá vai trò của ngoại ngữ
STT Mức độ đánh giá Sinh viên XHH Sinh viên
1 Rất quan trọng 78% 76%
2 Không quan trọng lắm 20% 22%
3 Không quan trọng 2% 2%

Nhìn chung, đa phần sinh viên Xã hội học đều đánh giá vai trò của ngoại
ngữ đối với họ là rất cần thiết. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một tỷ lệ đáng kể cho
rằng ngoại ngữ đối với họ chỉ hơi quan trọng và một tỷ lệ nhỏ cho rằng ngoại
ngữ không quan trọng.Nhận thức về tầm quan trọng của ngoại ngữ trong sinh
viên Xã hội học so với sinh viên nói chung là không có sự chênh lệch đáng kể.
Ta hãy xét về cơ cấu của những ý kiến này để hiểu rõ hơn vấn đề.

Bảng 3 : Đánh giá vai trò của ngoại ngữ theo giới, năm học và hộ khẩu
thờng trú của sinh viên Xã hội học
STT Mức độ đánh giá Giới Năm học Hộ khẩu
1 Rất quan trọng Nam 69,4% Năm I- II
80%
Đô thị 87,2%
Nữ 82,8% Năm III-IV
76,7%
Nông thôn
69,8%
2 Không quan trọng

lắm
Nam 27,8% Năm I-II
15%
Đô thị 8,5%
Nữ 15,6% Năm III-IV
23,3%
Nông thôn
30,2%
3 Không quan trọng Nam 2,8% Năm I- II 5% Đô thị 4,3%
Nữ 1,6% Năm III-IV
0
Nông thôn
0
Về mặt giới, có một sự chênh lệch nhất định trong việc đánh giá vai trò của
ngoại ngữ. Nữ sinh viên có xu hớng coi ngoại ngữ có tầm quan trọng cao hơn
đối với họ với hơn 80% coi ngoại ngữ là rất quan trọng, trong khi tỷ lệ này ở
nam chỉ là gần 70%. Tỷ lệ coi ngoại ngữ là không quan trọng ở nữ cũng thấp
hơn nam và ở cả hai giới phơng án này chỉ chiếm một phần rất nhỏ.
Theo cơ cấu năm học, không có sự phân biệt lớn ở sự lựa chọn phơng án
đầu.Với phơng án coi ngoại ngữ là không quan trọng lắm thì có sự chênh lệch
khá rõ, có tới 23,3% sinh viên những năm cuối coi ngoại ngữ là không quan
trọng lắm, thì tỉ lệ này ở nhóm sinh viên những năm đầu là 15%.Tuy nhiên,
trong khi không một sinh viên năm III-IV nào đánh giá rất thấp vai trò của
ngoại ngữ, còn ở nhóm sinh viên năm I-II, lại có 5% coi ngoại ngữ là không
quan trọng đối với họ.Nh vậy là dù có sự chênh lệch nhất định ở các phơng án
trả lời nhng nhìn chung không có sự khác biệt lớn trong nhận thức của các
nhóm sinh viên những năm cuối và đầu về tầm quan trọng của ngoại ngữ,
Hộ khẩu thờng trú cũng là một yếu tố tác động đến nhận thức của sinh viên
về tầm quan trọng của ngoại ngữ. Trong nhóm sinh viên có hộ khẩu đô thị, có
gần 90% coi ngoại ngữ là rất quan trọng đối với họ, tỷ lệ này trong nhóm sinh

viên nông thôn chỉ là xấp xỉ 70%. Hầu hết sinh viên đô thị đều định hớng làm
việc tại đô thị, đồng thời với định hớng đó họ cũng cần coi ngoại ngữ nh một
phơng tiện, một điều kiện thiết yếu. Còn đối với sinh viên nông thôn, tỷ lệ lựa
chọn phơng án này thấp hơn vì có một bộ phận sinh viên định hớng làm việc
tại quê nhà sẽ không coi ngoại ngữ là yếu tố tối cần thiết. Cũng có một sự
chênh lệch lớn trong sự lựa chọn phơng án thứ hai, số sinh viên nông thôn coi
ngoại ngữ là không quan trọng lắm cao gấp gần 4 lần so với sinh viên đô thị
Tuy nhiên , ở phơng án cuối cùng, hớng đi của các câu trả lời đã thay đổi,
không một sinh viên nông thôn nào phủ nhận vai trò của ngoại ngữ nhng lại có
4,3% sinh viên đô thị coi ngoại ngữ là không quan trọng đối với họ.Mặc dù
vậy, nhìn chung nhóm sinh viên đô thị vẫn có xu hớng coi trọng ngoại ngữ
hơn.
Tóm lại, ta có thể rút ra những nhận xét sau đây về nhận thức của
sinh viên Xã hội học đối với tầm quan trọng của ngoại ngữ :
- Đa số sinh viên coi ngoại ngữ là rất quan trọng đối với họ khi ra trờng.
- Nhóm nữ sinh viên, nhóm có hộ khẩu thờng trú tại đô thị có xu hớng
đánh giá cao vai trò của ngoại ngữ hơn so với hai nhóm nam và thờng
trú tại nông thôn.
- Trong cơ cấu đánh giá theo năm học, trong từng phơng án trả lời có sự
khác biệt nhất định những trên mặt bằng chung thì giữa hai nhóm năm
I-II và năm III-IV không có sự khác biệt lớn trong đánh giá vai trò của
ngoại ngữ.
Nh vậy, có thể nói tỷ lệ sinh viên đánh giá cao vai trò của ngoại ngữ
chiếm phần đông là một dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, cần thấy rằng từ
nhận thức đến hành vi là một quá trình dài và khó khăn, phụ thuộc rất nhiều
yếu tố. Nhận thức của sinh viên về ngoại ngữ tốt nh vậy nhng trong thực tế
họ đã hành động nh thế nào.Ta hãy tìm hiểu thực trạng việc học thêm để
hiểu phần nào một khía cạnh trong hoạt động học ngoại ngữ của họ.
3.Thực trạng hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học
3.1 Một số nhận xét và t ơng quan với sinh viên nói chung

Ngoại ngữ là một môn học quan trọng trong chơng trình chính khoá của
học sinh từ tiểu học đến đại học và trên đại học. Đối với sinh viên, môn học
này càng đặc biệt quan trọng bởi nó có ý nghĩa lớn đối với công việc của họ
sau khi tốt nghiệp. Chính vì thế, ngoài việc học ngoại ngữ theo chơng trình
chính khoá của nhà trờng, nhiều sinh viên đã dành thời gian cho việc học thêm
ngoại ngữ để củng cố và tăng cờng một trong những vốn tri thức quan trọng
này trong hành trang vào đời của họ. Sinh viên Xã hội học nói riêng càng có
nhiều lý do để trau dồi vốn kiến thức của mình, bởi trong thế kỷ 21 này Xã hội
học đã đợc coi là ngành khoa học mũi nhọn ở Việt Nam và ngoại ngữ là vốn
quý không thể thiếu giúp những nhà Xã hội học tơng lai giao lu, học hỏi
những tri thức Xã hội học thế giới để Xã hội học Việt Nam sẽ ngày càng lớn
mạnh, ngày càng phát huy đợc vai trò của nó trong công cuộc xây dựng và
phát triển đất nớc.
Vậy thực tế hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học đang
diễn ra nh thế nào và hoạt động ấy có những điểm gì tơng đồng và khác biệt
với hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên nói chung ?
Theo kết quả điều tra mẫu, số lợng sinh viên Xã hội học học thêm ngoại
ngữ là 78, chiếm 78%; số lợng sinh viên không học thêm là 22, chiếm
22%.Trong khi đó, tỉ lệ đi học thêm ngoại ngữ trong nhóm sinh viên nói chung
là 61%. Nh vậy qua kết quả này ta thấy rằng học thêm ngoại ngữ là một hoạt
động khá phổ biến trong sinh viên Xã hội học hiện nay và sinh viên Xã hội
học có xu hớng đi học thêm nhiều hơn so với sinh viên nói chung. Sự phổ biến
này cũng đợc thể hiện rõ qua cơ cấu của ngời đi học thêm.
Bảng 4: Cơ cấu sinh viên học thêm ngoại ngữ
STT
Tiêu chí
Số lợng(đơn vị:ngời) %
1
Giới tính
1.Nam

25 69,4%
2.Nữ
53 82,8%
2
Năm học
1.I hoặcII
30 75%
2.III hoặc IV
48 80%
3
Hộ khẩu thờng trú
1. Đô thị
43 91,5%
2. Nông thôn
35 66%
Nh vậy hoạt động học thêm ngoại ngữ là hoạt động tơng đối phổ biến trong
sinh viên Xã hội học nói chung nhng mức độ phổ biến cũng có khác biệt giữa
các nhóm giới tính, năm học và hộ khẩu thờng trú khác nhau. Nhóm sinh viên
nam, nhóm năm thứ I-II và nhóm nông thôn có xu hớng đi học thêm ít hơn so
với những nhóm còn lại
Bảng 5: Lý do học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học
STT
Lý do
Sinh viên XHH Sinh viên
1
Để nâng cao
trình độ ngoại ngữ
43,6% 42,6%
2
Để củng cố trình độ ngoại ngữ

14,1% 29,5%
3
Vui bạn bè
1,3% 0
4
Để sau này dể kiếm việc
38,5% 23%
5
Lý do khác
2,6% 5%
Để tìm hiểu động cơ học thêm ngoại ngữ của sinh viên, tôi đa ra câu
hỏi:Bạn đi học thêm ngoại ngữ vì lý do gì với 5 phơng án trả lời nh trên và
đề nghị ngời trả lời chỉ chọn 1 phơng án.
Phơng án 1 và 2 cho thấy việc học thêm ngoại ngữ có mục đích trớc mắt là
phục vụ cho việc học ngoại ngữ tại trờng, trong đó phơng án 1 là nhằm nâng
cao còn phơng án 2 chỉ là củng cố thêm. Phơng án 3 thể hiện tính chất phong
trào của hành vi học thêm bởi chủ thể chỉ đi cho vui chứ không tính đến yếu tố
học tập ngoại ngữ. Phơng án 4 cho thấy việc học thêm ngoại ngữ nhằm một
mục đích xa hơn là để dễ xin việc khi ra trờng. Phơng án 5 đa ra để tránh bỏ
sót một lý do nào đó nằm ngoài những lý do đã nêu.
Kết quả thu đợc ở bảng 5 cho thấy phần đông sinh viên đi học thêm ngoại
ngữ vì những lý do rất thiết thực, đi học theo phong trào chiếm một tỷ lệ rất
nhỏ trong sinh viên.Sinh viên Xã hội học có xu hớng đi học với lí do để kiếm
việc làm nhiều hơn so với sinh viên nói chung, còn sinh viên nói chung lại đi
học vì muốn củng cố trình độ với tỉ lệ cao hơn hẳn. ở những lí do khác, chênh
lệch là không đáng kể.
Bảng 6: Địa điểm học thêm
STT Địa điểm Sinh viênXHH Sinh viên
1 Nơi có uy tín 59% 54,1%
2 Nơi gần chỗ ở 24,4% 24,6%

3 Nơi có học phí thấp 6,4%
3,3%
4 Trung tâm nớc ngoài 6,4%
4,9%
5 Gia s hoặc lớp riêng 3,8% 13,2%
Bảng 6 cho thấy khi lựa chon địa điểm học thêm, một bộ phận lớn sinh viên đã
lựa chọn căn cứ vào uy tín của nơi học, một phần nhỏ khác lựa chọn nơi gần
chỗ ở để thuận tiện cho việc đi lại, những địa điểm còn lại(nơi có học phí thấp,
trung tâm nớc ngoài, gia s hoặc lớp riêng) chiếm tỉ lệ không cao.Trong 4 ph-
ơng án đầu, hầu nh không có sự phân biệt đáng kể giữa hai nhóm sinh viên,
chỉ ở hình thức học gia s hoặc lớp riêng nhóm sinh viên nói chung có sự lựa
chọn nhiều hơn khá rõ so với nhóm sinh viên Xã hội học.
Bảng 7: Thời gian dành cho học thêm
STT Thời gian Sinh viên XHH Sinh viên
1 1 buổi/tuần 7,7% 9,8%
2 2-3 buổi/ tuần 64,1% 73,8%
3 4-5 buổi/ tuần 21,8% 11,5%
4 > 5 buổi/ tuần 6,4% 4,9%
Theo kết quả của bảng7, phần lớn sinh viên dành từ 2 đến 5 buổi một tuần
cho hoạt động học thêm ngoại ngữ, trong đó số dành từ 2-3 buổi chiếm đông
hơn. Chỉ có một phần nhỏ sinh viên dành 1 buổi hoặc hơn 5 buổi một tuần
cho hoạt động học thêm này.Nhìn chung, đây là lợng thời gian khá hợp lí bởi
nếu dành quá ít thời gian thì sẽ khó thu đợc hiệu quả cao, còn dành quá nhiều
thời gian thì lại ảnh hởng tới các hoạt động khác.So sánh giữa hai nhóm sinh
viên, ta thấy rằng dù có sự khác biệt tơng đối trong các phơng án trả lời nhng
trên mặt bằng chung, cả hai nhóm đều dành một lợng thời gian nh nhau cho
hoạt động học thêm ngoại ngữ.
Bảng 8 : Chi phí cho học thêm
STT Chi phí Sinh viên XHH Sinh viên
1 Dới 50.000đ/ tháng 15,4% 21,3%

2 50.000-100.000đ/ tháng 42,3% 46%
3 100.000-200.000đ/ tháng 34,6% 27,9%
4 Trên 200.000đ/ tháng 7,7% 4,9%
Bảng 8 cho thấy mức chi phí từ 50.000đ đến 200.000đ cho một tháng học
thêm ngoại ngữ là phổ biến nhất trong sinh viên. Ngoài ra mức chi phí dới
50.000đ/ tháng chiếm một tỷ lệ khiêm tốn và mức chi phí trên 200.000đ/ tháng
là ít nhất trong sinh viên.Tuy nhiên, sinh viên nói chung có xu hớng chi phí ít
hơn cho hoạt động học thêm ngoại ngữ với tỉ lệ lựa chọn cao hơn ở phơng án
đầu và thấp hơn ở phơng án cuối cùng.
Bảng 9: Hiệu quả của việc học thêm
STT Hiệu quả Sinh viên
XHH
Sinh viên
1 Vẫn nh trớc 16,7% 9,8%
2 Khá hơn nhng không nhiều 53,8% 62,3%
3 Khá hơn nhiều 29,5% 27,9%
Để tìm hiểu hiệu quả của việc học thêm tôi đa ra câu hỏiTheo bạn, so với tr-
ớc khi đi học thêm trình độ ngoại ngữ của bạn
3 phơng án trả lời cho thấy 3 mức độ hiệu quả rất khác nhau của hoạt động
học thêm ngoại ngữ.
Theo kết quả thu đợc, đa số sinh viên cho rằng việc học thêm ngoại ngữ đem
lại cho họ hiệu quả tích cực, trong đó số thu đợc hiệu quả cao ít hơn so với số
có hiệu quả nhng không cao. Bên cạnh đó còn một bộ phận cho rằng việc học
thêm không có tác động gì đến trình độ ngoại ngữ của họ.Hiệu quả học thêm
ngoại ngữ cũng không có sự khác biệt giữa các nhóm sinh viên.
Tóm lại, qua những kết quả sơ bộ ban đầu ta thấy:
- Hoạt động học thêm ngoại ngữ là hoạt động tơng đối phổ biến trong
sinh viên Xã hội học hiện nay.
- Sinh viên đi học thêm phần lớn là vì những lý do rất thiết thực là nhằm
nâng cao trình độ ngoại ngữ hoặc để dễ kiếm việc làm khi ra trờng.

- Với mục đích nh vậy phần lớn sinh viên lựa chọn nơi có uy tín để học
thêm. Tỷ lệ lựa chọn những địa điểm khác không cao.
- Thời gian dành cho học thêm ngoại ngữ của sinh viên phần lớn dao
động từ 2 đến 5 buổi một tuần.
- Về cơ bản hoạt động học thêm ngoại ngữ đem lại cho sinh viên những
tác động tích cực giúp củng cố hoặc nâng cao trình độ ngoại ngữ của
họ.
- Trong tơng quan với sinh viên nói chung, sinh viên Xã hội học có xu h-
ớng đi học thêm nhiều hơn. Về mặt động cơ học thêm, sinh viên Xã hội
học đi học vì mục đích kiếm việc nhiều hơn so với sinh viên nói chung. Về
địa điểm học, thời gian và chi phí học chỉ có những chênh lệch không lớn ở
hai nhóm sinh viên.
Tóm lại, có thể nói rằng dù có những chênh lệch nhỏ nhng hầu nh không
có sự phân biệt trong hoạt động học thêm ngoại ngữ ở sinh viên Xã hội học
và sinh viên nói chung.
3.2 Mô tả hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học
3.2.1 Lý do học thêm
Trong câu hỏi về lý do học thêm ngoại ngữ, tôi đa ra 5 phơng án:
1. Để nâng cao trình độ ngoại ngữ
2. Để củng cố trình độ ngoại ngữ
3. Vui bạn bè
4. Để sau này dễ kiếm việc
5. Lý do khác
"Động cơ tâm lí là cái thúc đẩy con ngời hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu
hoặc đạt tới một mục đích nào đó ", do đó ở đây mỗi lí do mà chủ thể lựa
chọn đều gắn với một mục đích nhất định của chủ thể.
Phơng án 1 cho thấy chủ thể phần nào không gặp phải những khó khăn với
chơng trình học ngoại ngữ chính khoá và cần học thêm để nâng cao hơn nữa
trình độ ngoại ngữ của mình.
Phơng án 2, ngợc lại, nói lên rằng chủ thể gặp phải những khó khăn với ch-

ơng trình học ngoại ngữ chính khoá và cần học thêm để nắm chắc hơn.
Cả 2 phơng án đều hớng vào mục đích gần là phục vụ cho chính hoạt động
học tập đang diễn ra.
Phơng án 3 thể hiện tính chất phong trào của hoạt động học thêm. Chủ thể
có thể chỉ đi học cho vui vì bạn bè rủ mà không có một mục đích tích cực nào
khác.
Phơng án 4 cho thấy chủ thể học thêm có thể để nâng cao trình độ để sau
này thi xin việc, nhng cũng có thể chỉ học vì một tấm bằng để sau này có trong
hồ sơ xin việc. Tuy nhiên, dù mục đích nào thì phơng án này cũng cho thấy
chủ thể hớng vào một cái đích xa hơn, đó là việc làm sau khi ra trờng.
Phơng án 5 đợc đa ra để tránh bỏ xót các lí do còn lại. Trên thực tế, trong
mẫu có một trờng hợp lựa chọn phơng án này với lí do cụ thể là "để làm việc ",
suy cho cùng đó cũng là lí do gắn với công việc sau này.
Bảng 10: Lý do học thêm theo giới tính
STT Lý do Nam Nữ
1 Để nâng cao trình độ

32% 49,1%
2 Để củng cố trình độ
20%
11,3%
3 Vui bạn bè
0
1,9%
4 Để dễ kiếm việc
48%
34%
5 Lý do khác
0


3,8%
Với lý do để nâng cao trình độ, tỷ lệ nam sinh viên là 32%, còn nữ cao hơn
hẳn là 49,1%.
Lý do củng cố trình độ thì ngợc lại, nam lại cao hơn hẳn:20%
so với 11,3 % nữ.
Hai lý do vui bạn bè và khác không có sinh viên nam nào lựa chọn, còn nữ là
1,9 và 3,8%.
Với lý do để sau này dễ kiếm việc, tỷ lệ nam chọn lại cao hơn hẳn nữ
( 48% và 34% ).
Nh vậy, có thể nói phần đông nữ sinh viên đi học thêm ngoại ngữ vì muốn
nâng cao trình độ của mình, còn nam sinh viên thì phần đông lại đi học để dễ
kiếm việc sau khi ra trờng Mặc dù vậy, ta vẫn không thể nhận xét rằng nam
sinh viên nhìn xa trông rộng hơn nữ sinh viên bởi học để nâng cao trình độ
hoàn toàn có thể bao hàm lí do vì công việc sau naỳ. Hơn nữa lí do nâng cao
trình độ có thể phần nào toát lên rằng chủ thể hớng đến chất lợng thực sự của
việc học còn lí do kiếm việc không toát lên đợc điều đó. Vậy, có thể nói giới
tính là một nhân tố ảnh hởng đến động cơ học thêm ngoại ngữ của sinh viên.
Bảng 11: Lý do học thêm theo năm học
STT Lý do Năm I-II Năm III-IV
1 Để nâng cao trình độ 50%
33,3%
2 Để củng cố trình độ

13,3%
14,6%
3 Vui bạn bè 3,3%
0
4 Để dễ kiếm việc 33,3% 39,6%
5 Lý do khác 0
2,1%


Lý do nâng cao trình độ thu đợc câu trả lời khá chênh lệch theo nhóm năm
học. Sinh viên năm thứ I-II có xu hớng lựa chọn lý do này nhiều hơn sinh viên
năm III-IV.
Lý do thứ 2 không có sự chênh lệch đáng kể ở hai nhóm.
Năm thứ III-IV không có sinh viên nào đi học vì vui bạn bè, còn tỷ lệ này ở
sinh viên năm I-II là 3,3%.Có lẽ việc đi học vì phong trào, vì vui bạn bè ít xảy
ra trong sinh viên và nếu có cũng khó rơi vào sinh viên những năm cuối bởi b-
ớc vào những năm bản lề dù sinh viên học tốt hay không, dù có tự giác học
hay không thì họ cũng không còn nhiều thời gian để phung phí.
Có một sự chênh lệch nhỏ trong việc lựa chọn lý do để dễ kiếm việc theo h-
ớng nghiêng về những sinh viên năm thứ III-IV bởi những sinh viên năm cuối
đã gần với thực tế ra trờng hơn.
Lý do khác không có ở sinh viên những năm đầu mà có ở 2,1% sinh viên
những năm cuối.
Nh vậy, có một sự chênh lệch hợp lý rằng sinh viên năm III-IV thì chú
trọng nhiều đến mục đích lâu dài vì công việc sau này còn sinh viên năm I-II
thì quan tâm chủ yếu tới bản thân việc học.
Bảng 12: Lý do học thêm theo hộ khẩu thờng trú
STT Lý do Đô thị Nông thôn
1 Để nâng cao trình độ 41,9% 45,7%
2 Để củng cố trình độ
18,6%
8,6%
3 Vui bạn bè
0

2,9%
4 Để dễ kiếm việc


34,9%

42,9%
5 Lý do khác
2,3%
0
Với sinh viên có hộ khẩu thờng trú tại đô thị, tỷ lệ đi học thêm vì muốn
nâng cao trình độ là cao nhất, và vì công việc cũng là lý do chiếm tỷ lệ đáng
kể.
Với sinh viên có hộ khẩu thờng trú tại nông thôn, 2 lý do này cũng có tỷ lệ
trả lời cao, đặc biệt với lí do " để dễ kiếm việc" nhóm sinh viên nông thôn có
sự lựa chọn cao hơn hẳn các sinh viên đô thị. Dờng nh với nhóm sinh viên
nông thôn, việc họ đi học thêm vì một lí do thực tế là rất quan trọng bởi với
những điều kiện không thuận lợi về nhiều mặt, họ phải cố gắng tìm kiếm lợi
nhuận hết sức cụ thể cho chi phí bỏ ra. Không thể nói lí do học thêm để nâng
cao trình độ là không thực tế nhng ở một khía cạnh nào đó nâng cao không
phải chỉ để nâng cao mà phải có một mục đích cuối cùng nào khác, xét cho
cùng mục đích ấy chính là công việc.
Còn 3 lý do để củng cố, vui bạn bè, lý do khác đều chiếm tỷ lệ không lớn ở
cả hai nhóm sinh viên.
Vậy, hộ khẩu thờng trú cũng là một nhân tố tác động đến động cơ học thêm
ngoại ngữ của sinh viên.
Tóm lại, qua phân tích lý do học thêm ngoại ngữ có thể rút ra nhận xét
sau:
- Những nhân tố ảnh hởng đến động cơ học thêm ngoại ngữ là giới, năm
học và hộ khẩu thờng trú của sinh viên.
+ Nam sinh viên có xu hớng đi học thêm vì lý do kiếm việc là chủ yếu,
còn nữ sinh viên lại phần đông đi học vì muốn nâng cao trình độ.
+ Sinh viên năm I-II phần lớn đi học để nâng cao trình độ còn sinh
viên năm cuối chủ yếu đi học để phục vụ cho mục đích xin việc.

+ Sinh viên có hộ khẩu thờng trú tại đô thị có xu hớng đi học thêm vì
muốn nâng cao, củng cố trình độ nhiêù hơn là sinh viên nông thôn, còn
sinh viên nông thôn lại đi học vì muốn dễ xin việc nhiều hơn sinh viên đô
thị.
3.2.2 Địa điểm học thêm
Khảo sát các địa điểm sinh viên thờng học thêm ngoại ngữ, tôi đa ra 5 ph-
ơng án:
1. Nơi có uy tín
2. Nơi gần chỗ ở
3. Nơi có học phí thấp
4. Trung tâm nớc ngoài
5. Gia s hoặc lớp riêng
Nơi có uy tín thờng là những cơ sở của những trờng đại học có đào tạo chuyên
ngành ngoại ngữ nh ĐHNN Thanh Xuân, ĐHNN ĐHQG, ĐH Ngoại Th-
ơng .Uy tín đào tạo của các cơ sở này đem lại cho ng ời ta cảm giác tin tởng
khi lựa chọn. Nó làm cho sinh viên tin rằng học ở đó sẽ thu đợc hiệu quả cao.
Nơi gần chỗ ở sẽ thuận tiện cho việc đi lại. Đối với những sinh viên không có
những phơng tiện đi lại tiện nghi thì đây cũng là một tiêu chí rất đáng quan
tâm.
Nơi có học phí thấp cũng là một tiêu chí quan trọng đối với những sinh viên
có hoàn cảnh kinh tế không thuận lợi, đặc biệt là sinh viên ngoại tỉnh.
Trung tâm nớc ngoài là nơi thờng có học phí cao nhng đồng thời cũng có chất
lợng cao vì lớp học ít và đợc giáo viên nớc ngoài trực tiếp giảng dạy.
Hình thức gia s tại nhà hoặc mở lớp riêng có lẽ không mấy phổ biến trong
sinh viên nhng cũng không thể không đề cập đến.
Biểu đồ địa điểm học thêm
Xét theo giới tính ta có bảng sau
Bảng 13 : Địa điểm học thêm theo giới
STT Địa điểm Nam Nữ
1 Nơi có uy tín


52%

62,3%
2 Nơi gần chỗ ở 24% 24,5%
3 Nơi có học phí thấp 8% 5,7%
4 Trung tâm nớc ngoài 16% 1,9%
5 Gia s hoặc lớp riêng 0 5,7%
ở cả hai giới địa điểm có uy tín đều đợc lựa chọn với tỉ lệ cao nhất (nhng cũng
có sự chênh lệch tơng đối với xu hớng thiên về sinh viên nữ).Đây là điều dễ
hiểu bởi ai bỏ tiền ra học cũng đều muốn thu đợc kết quả tốt và điều đầu tiên
giúp sinh viên tin rằng họ sẽ học có hiệu quả là uy tín của nơi họ lựa chọn.Ph-
ơng án "nơi gần chỗ ở " đợc lựa chọn gần nh nhau giữa hai giới. Hai phơng án
sau nam đều có xu hớng lựa chọn nhiều hơn nữ, đặc biệt là địa điểm trung tâm
nớc ngoài. Hình thức học gia s hoặc lớp riêng không có ở nam nhng lại chiếm
5,7% số nữ.
6.40%
6.40%
3.80%
24.40
%
59%
Nơi có uy tín
Nơi gần chỗ ở
Nơi có học phí
thấp
Trung tâm nước
ngoài
Gia sư hoặc lớp
riêng

Bảng 14 : Địa điểm học thêm theo năm học
STT Địa điểm Năm I-II Năm III-IV
1 Nơi có uy tín 63,3% 56,3%
2 Nơi gần chỗ ở 20% 27,1%
3 Nơi có học phí thấp 10% 4,2%
4 Trung tâm nớc ngoài 6,7% 6,3%
5 Gia s hoặc lớp riêng 0

6,3%
Phơng án nơi có uy tín đợc các sinh viên năm thứ I-II lựa chọn nhiều hơn,
phơng án gần chỗ ở lại đợc nhóm sinh viên những năm cuối lựa chọn nhiều
hơn. Với phơng án học phí thấp và trung tâm nớc ngoài, các sinh viên năm đầu
có xu hớng lựa chọn cao hơn. Với phơng án gia s hoặc lớp riêng, không một
sinh viên năm I-II nào lựa chọn trong khi đó tỷ lệ này ở sinh viên năm III-IV
là 6,3%.
Bảng 15: Địa điểm học thêm theo hộ khẩu
STT Địa điểm Đô thị Nông thôn
1 Nơi có uy tín 67,4% 48,6%
2 Nơi gần chỗ ở 16,3% 34,3%
3 Nơi có học phí thấp 0 14,3%
4 Trung tâm nớc ngoài 9,3% 2,9%
5 Gia s hoặc lớp riêng 7% 0
Địa điểm có uy tín là nơi đợc lựa chọn nhiều nhất ở cả 2 nhóm và nhóm đô
thị có nhỉnh hơn .
Nơi gần chỗ ở đợc nhóm sinh viên nông thôn-những ngời thờng không có
phơng tiện đi lại thuận tiện-lựa chọn cao gấp đôi so với nhóm đô thị.
Có sự phân hoá khá rõ ở 3 phơng án trả lời sau. Nơi có học phí thấp là địa
điểm không đợc bất cứ sinh viên đô thị nào lựa chọn trong khi nó chiếm tới
14.3% sinh viên nông thôn-những ngời trọ học xa nhà và thờng có khó khăn
về tài chính.

Trong khi đó, ở trung tâm nớc ngoài và hình thức học gia s hoặc lớp riêng
lại xảy ra tình trạng ngợc lại, sinh viên đô thị lựa chọn 2 phơng án này lên tới
gần 20% còn ở sinh viên nông thôn thì tỷ lệ này là 0% hoặc rất thấp không
đáng kể.Điều này rất dễ hiểu bởi trung tâm nớc ngoài là hình thức còn cha phổ
biến ở Hà Nội và đặc biệt là có học phí rất cao, các sinh viên nông thôn khó
lòng đáp ứng đợc. Hình thức học gia s hoặc lớp riêng cũng đòi hỏi một chi phí
lớn, ngoài ra còn phụ thuộc vào những mối quan hệ của chủ thể để có thể tìm
thầy, mời thầy do đó cũng không phù hợp với nhóm sinh viên nông thôn.
Tóm lại, qua phân tích địa điểm học thêm ngoại ngữ của sinh viên, ta
có thể thấy rằng:
- Việc lựa chọn địa điểm học thêm cũng phụ thuộc vào những yếu tố giới,
năm học, hộ khẩu ở những mức độ khác nhau.
+ Nam giới có xu hớng lựa chọn các trung tâm đặc biệt là nơi có uy
tín, nữ giới cũng vậy nhng ngoài ra còn lựa chọn hình thức gia s hoặc lớp
riêng.
+ Yếu tố năm học không ảnh hởng nhiều lắm đến sự lựa chọn địa điểm
học, mặc dù vậy trong các phơng án trả lời đều có sự phân biệt giã hai
nhóm năm I-II và III-IV, nhìn chung do điều kiện thời gian nhóm sinh viên
những năm cuối có xu hớng lựa chọn nơi học gần chỗ ở và hình thức gia s
hoặc lớp riêng nhiều hơn so với sinh viên những năm đầu.
+ Hộ khẩu thờng trú là yếu tố ảnh hởng rõ nhất đến việc lựa chọn địa
điểm học thêm. Bên cạnh nơi có uy tín với tỷ lệ không quá chênh lệch,
nhóm sinh viên đô thị có xu hớng lựa chọn trung tâm nớc ngoài, gia s hoặc
lớp riêng, còn nhóm sinh viên nông thôn lại có xu hớng lựa chọn nơi gần
chỗ ở và nơi có học phí thấp.
3.2.3 Thời gian học thêm
Để định lợngthời gian sinh viên dành cho hoạt động học thêm ngoại
ngữ, tôi đa ra các phơng án từ 1 đến 5 buổi tính theo đơn vị tuần.
1 buổi là lợng thời gian ít phù hợp với những ngời bận rộn hoặc
không thấy việc học ngoại ngữ là quá cấp bách. Từ 2-3 buổi là lợng trung

bình thờng đợc tổ chức ở đa phần các trung tâm ngoại ngữ. 4 đến 5 buổi là
lợng thời gian lớn, chủ yếu có ở các lớp cấp tốc hoặc tại chức. Trên 5 buổi
một tuần là lợng thời gian rất lớn và không có nhiều ở các trung tâm cũng
nh các lớp tự tổ chức.

×