1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ……………………
TIỂU LUẬN
Đánh giá thực trạng việc cải cách hành chính giai đoạn 2003 – 2005. Một
số giải pháp trong giai đoạn 2006 – 2010 tại huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La
lời nói đầu
2
Đất nước sau 15 năm đổi mới. Nền kinh tế nước ta để thoát ra khỏi
khủng hoảng và đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế, chính trị và trên các lĩnh
vực khác. Nó đánh giá đúng đắn đường lối, chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước ta. Để đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp đổi mới kinh tế xã hội
của đất nước. Ngày 17/9/2001. Thủ tướng Chính phủ đề ra Quyết định cải
cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 nhằm huyện với yêu cầu
quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với xu hướng phát triển của đất nước nhiệm vụ cải cách hành
chính đòi hỏi phải có thời gian, có chiều sâu việc cải cách hành chính phải sao
cho đơn giản, dễ hiểu, đúng pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức,
công dân khi liên hệ thực hiện giải quyết công việc. Mộc Châu – Sơn La là
một huyện Miền núi thuộc tỉnh Sơn La. Có diện tích tự nhiên là 202.573 ha.
Có 27 xã thị trấn trong đó có 06 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn. Dân số có
134.308 người và có 07 dân tộc anh em sinh sống trên địa bàn. Trong những
năm qua đời sống nhân dân các dân tộc huyện Mộc Châu từng bước được cải
thiện và nâng cao. Cơ sở vật chất như điện đường, trường, trạm được củng
cố, đầu tư, xây dựng và hoàn thiện. Điều đó đã khẳng định sự quan tâm và chỉ
đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Nhằm
đảm bảo việc phát triển nền kinh tế xã hội một cách toàn diện theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập với thế giới trong thời gian qua. Huyện
Mộc Châu đã tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính theo cơ chế “Một cửa”
tại các ngành, phòng ban, xã thị trấn qua việc thực hiện nghiêm chỉnh các
quyết định của Chính phủ, Tỉnh… và đã ban hành nhiều quyết định, chỉ thị và
các chính trị hành động cụ thể. Sau 13 năm thực hiện đã phần nào làm thay
đổi và chuyển biến tích cực.
Trên phương diện cải cách hành chính trên địa bàn Mộc Châu nhằm
đánh giá rút kinh nghiệm những thiếu sót tjj và phát huy những điểm tích cực
cũng như đề xuất một số giải pháp trong giai đoạn 2006 – 2010. Việc nghiên
cứu đề tài: “Đánh giá thực trạng việc cải cách hành chính giai đoạn 2003 –
3
2005. Một số giải pháp trong giai đoạn 2006 – 2010 tại huyện Mộc Châu
tỉnh Sơn La” đã nói nên phần nào đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng
và Nhà nước ta.
4
Phần thứ nhất
đánh giá kết quả cải cách hành chính
giai đoạn 2003 – 2005
I. Đặc điểm tình hình.
1. Thuận lợi.
Cải cách hành chính những năm qua đã được chỉ đạo và triển khai thực
hiện đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, vì vậy đã tạo ra sự thống nhất
trong các nội dung cơ bản của cải cách hành chính, nhất là ở các lĩnh vực
quan trọng như: Cải cách về thể chế, cải cách về thủ tục hành chính, về phân
cấp quản lý ngành và lĩnh vực.
Cải cách hành chính tuy mới đạt được kết quả bước đầu nhưng với
những tính ưu việt và hiệu quả của nó đem lại đã tạo nên sự tin tưởng, phấn
khởi, ủng hộ cao của toàn xã hội, của các tổ chức và cá nhân khi tham gia vào
các hoạt động công vụ.
Tổ chức bộ máy từ huyện đến xã ngày càng được kiện toàn, chất lượng
đội ngũ cán bộ công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước được nâng
lên một bước, đó là những nhân tố quyết định sự tiến bộ của công tác cải cách
hành chính trong thời gian qua.
Công tác cải cách hành chính tại huyện được UBND tỉnh, các Sở,
Ngành của tỉnh và huyện uỷ quan tâm chỉ đạo thường xuyên, có hiệu quả.
Mộc Châu là một trong 3 huyện của tỉnh được chỉ đạo thí điểm triển khai cải
cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, được ưu tiên đầu tư trang thiết
bị từ nguồn dự án của Trung ương, được tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ,
vì vậy đã tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh công tác cải cách hành chính.
2. Khó khăn.
Cải cách hành chính là việc lớn, phức tạp; bản thân nền hành chính Nhà
nước với những mối quan hệ ngang, dọc, trên, dưới chồng chéo còn tồn tại
nhiều vấn đề, trong khi đó tốc độ triển khai thực hiện cải cách hành chính ở
một số lĩnh vực từ Trung ương đến địa phương đều chậm, có lúc có nơi chưa
5
đồng bộ, vì vậy gây khó khăn cho công tác triển khai cải cách hành chính ở
cấp huyện và cấp xã.
Nhận thức về cải cách hành chính nói chung, về nội dung và biện pháp
thực hiện cải cách hành chính nói riêng của nhiều cán bộ, công chức cấp
huyện và hầu hết cán bộ công chức cấp xã còn nhiều hạn chế; trình độ, năng
lực của đội ngũ cán bộ công chức phải tiếp tục được nâng lên mới đáp ứng
được yêu cầu của cải cách hành chính.
Cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện để thực hiện cải cách hành chính
vừa thiếu, vừa yếu, không đồng bộ làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển
khai thực hiện và nâng cao chất lượng của cải cách hành chính.
II. đánh giá kết quả công tác cải cách hành chính.
1. Công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện.
UBND huyện đã thành lập Ban chỉ đạo cải cách hành chính cấp huyện,
kịp thời kiện toàn Ban chỉ đạo khi có thay đổi về nhân sự. Triển khai thực
hiện Quyết định 181/2003/QĐ-TTg của Chính phủ, năm 2003 UBND huyện
tiếp tục thành lập Ban chỉ đạo cải cách thủ tục hành chính của huyện, đồng
thời mở rộng thành phần ở những ngành thực hiện cơ chế “một cửa”. Trên cơ
sở tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XVII Đảng bộ huyện
(nhiệm kỳ 2000 - 2005), các văn bản chỉ đạo về cải cách hành chính của
Trung ương và tỉnh như: Quyết định 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính
Nhà nước giai đoạn 2001 – 2010; Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày
17/12/2003 của UBND tỉnh Sơn La về phê duyệt chương trình tổng thể cải
cách hành chính Nhà nước tỉnh Sơn La giai đoạn 2003 – 2010. Ban chỉ đạo đã
xây dựng Đề án trình UBND tỉnh phê duyệt, xây dựng quy chế tổ chức và
hoạt động của “Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả”; xây dựng chương trình, kế
hoạch đã đề ra và đánh giá, rút kinh nghiệm cho công tác cải cách hành chính
giai đoạn tiếp theo.
6
UBND huyện đã đẩy mạnh tuyên truyền về cải cách hành chính. Cải
cách hành chính là một vấn đề khó, phức tạp, liên quan đến tất cả các cơ quan
trong bộ máy hành chính Nhà nước nhưng nhận thức về công tác này của đội
ngũ cán bộ công chức cấp huyện, cấp xã và của nhân dân chưa cao, vì vậy
UBND huyện xác định công tác tuyên truyền phải đi trước một bước và thực
hiện nhiều hình thức, biện pháp để tuyên truyền, nâng cao nhận thức về cải
cách hành chính cho đội ngũ cán bộ, công chức và nhân dân. Qua đó đã bước
đầu phát huy được tính tích cực, chủ động của các tổ chức, cá nhân vào quá
trình cải cách hành chính.
2. Về cải cách thể chế.
2.1. Công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật và rà soát văn
bản.
Trên cơ sở Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các quy định,
hướng dẫn của cấp trên, Thường trực HĐND và UBND huyện đã đưa công
tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật vào nề nếp. Đã xây dựng
quy định về trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo
tính thống nhất và nguyên tắc pháp chế của hệ thống pháp luật trong quản lý
Nhà nước ở địa phương. Các văn bản quy phạm pháp luật của huyện đều
hướng vào việc cụ thể hoá Luật và Pháp lệnh, Nghị quyết của HĐND, UBND
tỉnh vào thực tiễn của địa phương nhằm phát huy lợi thế, tiêm năng, khai thác
nguồn lực địa phương vào phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng –
an ninh, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của nền hành chính Nhà nước, đẩy
mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở,… các Nghị quyết, Chỉ thị và Quyết
định của HĐND, UBND huyện ban hành có chất lượng ngày càng cao; đảm
bảo về nội dung, thể thức, hình thức và thẩm quyền ban hành. Trong 3 năm
qua, HĐND và UBND huyện đã ban hành 94 văn bản quy phạm pháp luật và
23 văn bản có chứa quy phạm pháp luật, trong đó chỉ có 1 văn bản bị bãi bỏ.
UBND huyện cũng đã chỉ đạo, hướng dẫn HĐND, UBND các xã nâng
cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật Mặc dù việc ban hành
7
văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND cấp xã còn nhiều hạn chế
nhưng có thể nói trong 3 năm qua, chất lượng ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của cấp xã được nâng lên rất nhiều.
Công tác kiểm tra, rà soát, xử lý văn bản được UBND huyện thường
xuyên chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện. Trong 3 năm qua đã rà soát
6.405 văn bản của UBND huyện, trong đó có 4.820 văn bản do UBND huyện
ban hành. 1.585 văn bản do Chủ tịch UBND huyện ban hành. Qua rà soát đã
loại bỏ 361 văn bản hết hiệu lực, đề nghị bãi bỏ 1 văn bản quy phạm pháp
luật, đề nghị chỉnh sửa một số văn bản còn sai sót về nội dung, thể thức.
UBND huyện đã chỉ đạo cơ quan chức năng kiểm tra được 23 văn bản
quy phạm pháp luật của cấp xã. Qua công tác kiểm tra phát hiện những văn
bản chưa đúng về trình tự, thủ tục, nội dung và đã thông báo cho cơ quan soạn
thảo chỉnh sửa, xử lý, qua đó góp phần từng bước nâng cao chất lượng công
tác soạn thảo văn bản và ban hành văn bản quy phạm pháp luật cấp xã.
2.2. Về cải cách thủ tục hành chính.
UBND huyện đã thường xuyên rà soát, đồng thời chỉ đạo các cơ quan
chuyên môn rà soát quy trình, thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục hành
chính liên quan đến giải quyết công việc của các tổ chức, công dân theo
hướng gọn đầu mối, đơn giản hoá thủ tục, đúng pháp luật. Ngoài các lĩnh vực
thực hiện cơ chế “một cửa” tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, nhiều thủ tục
hành chính quan trọng đã được xây dựng thành quy trình cụ thể, được công
khai hoá thủ tục, hồ sơ giải quyết và vận dụng mô hình “một cửa” ngay tại cơ
quan như: Công chứng, hộ tịch, hộ khẩu, thuế, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
công tác hợp đồng và tuyển dụng, thuyên chuyển công chức, thủ tục giải
quyết vốn vay diện đối tượng chính sách xã hội, cấp giấy chứng nhận đối
tượng chính sách và đối tượng xã hội, quy trình và thủ tục ban hành văn bản
hành chính, văn bản quy phạm pháp luật…
Mộc Châu là một trong những huyện được tính chọn để triển khai thí
điểm cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” theo dự án
8
VIE/01/024/B, được Ban chỉ đạo cải cách hành chính tỉnh giúp đỡ cả về nội
dung và cơ sở vật chất. Ngày 24/11/2003, UBND tỉnh đã có Quyết định số
167/2003/QĐ-UB phê chuẩn Đề án cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa” tại UBND huyện Mộc Châu. Đề án gồm 2 nội dung cơ bản là “Quy
định về quy trình, hồ sơ, thủ tục giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa” tại UBND huyện Mộc Châu” và “Quy chế tổ chức và hoạt động
của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả”. UBND huyện đã lựa chọn, bố trí cán
bộ, công chức vào làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, đảm bảo yêu
cầu về cơ cấu, chất lượng; theo dõi hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết
quả, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong mối quan hệ phối hợp giải
quyết công việc giữa các cơ quan, giữa các cơ quan với Bộ phận tiếp nhận và
trả kết quả để công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”
ngày càng có hiệu quả hơn.
Qua hơn 2 năm thực hiện ccải cách thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa” ở 3 lĩnh vực: Đất đai, xây dựng nhà ở, cấp giấy phép kinh doanh,
Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả đã tiếp nhận 1.591 hồ sơ, gồm 1.084 hồ sơ
địa chính, 126 hồ sơ xây dựng nhà ở, 381 hồ sơ đăng ký kinh doanh. Đã trả
kết quả 1.630 hồ sơ (trong đó có cả số hồ sơ của năm trước chuyển sang)
gồm: 1.151 hồ sơ địa chính, 123 hồ sơ xây dựng nhà ở và 356 hồ sơ cấp giấy
phép kinh doanh . Còn tồn 222 hồ sơ, trong đó có 197 hồ sơ địa chính và 25
hồ sơ đăng ký kinh doanh. Có 3 hồ sơ về xây dựng nhà ở không đủ điều kiện
đã trả lại cho cá nhân.
Việc triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một
cửa” ở UBND huyện bước đầu đã đảm bảo 3 mục tiêu cơ bản: Đúng pháp
luật, nhanh gọn, giảm phiền hà. Các quy trình, thủ tục, thời gian giải quyết, lệ
phí được niêm yết, thông báo công khai và rõ ràng, đầy đủ tại Bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả đã giúp cho tổ chức, công dân nắm rõ hơn về cơ chế,
chính sách, thể lệ, thủ tục cần thiết phải làm, giải toả được những thắc mắc về
sự thiếu công khai, minh bạch đối với cơ quan Nhà nước; đồng thời qua đó
9
các tổ chức, công dân có điều kiện giám sát hoạt động của cán bộ, công chức
trong cơ quan hành chính Nhà nước một cách cụ thể hơn. Đã huỷ bỏ, sửa đổi
được nhiều thủ tục, giấy tờ, biểu mẫu không phù hợp hoặc không cần thiết,
làm mất nhiều thời gian và công sức của nhân dân mà công việc lại chậm
được giải quyết.
Kết quả rõ nhất của việc áp dụng cơ chế “một cửa” là chất lượng xử lý
công việc tại các cơ quan hành chính Nhà nước được nâng lên, quy trình công
tác được đổi mới theo hướng khoa học, hợp lý, giảm phiền hà cho tổ chức và
công dân, thời gian giải quyết công việc được rút ngắn, đảm bảo được sự
công khai, minh bạch, nhất là về thủ tục, hồ sơ, giấy tờ, phí và lệ phí. Được
các tổ chức và đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ, củng cố được niềm tin
của tổ chức, công dân vào bộ máy hành chính Nhà nước ở địa phương.
3. Công tác kiện toàn tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế.
Được sự quan tâm chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện uỷ, UBND
huyện đã thường xuyên rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy cho phù hợp với thực
tế của huyện, góp phần nâng cao chất lượng công tác tham mưu, giúp việc của
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện và các đơn vị trực thuộc. Ngoài
việc kiện toàn các cơ quan chuyên môn theo Nghị định 172 của Chính phủ và
Quyết định 189 của UBND tỉnh, UBND huyện đã kiện toàn, sắp xếp các cơ
quan, đơn vị khác và các trường học như: Tiếp nhận và kiện toàn Ban Quản lý
Di dân tái định cư, sắp xếp lại Trung tâm Văn hoá - TT – TT theo Quyết định
484 của UBND tỉnh, giải thể Ban Định canh- Định cư - KTM để chuyển
nhiệm vụ cho các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, sắp xếp lại Tổ
Thuỷ nông, thành lập Ban Bồi thường – GPMB huyện, giải thể 4 trường học,
thành lập 34 trường học. Qua sắp xếp, hệ thống tổ chức ngày càng hoàn thiện
hơn, hợp lý hơn.
UBND huyện đã xây dựng Quy chế làm việc, đồng thời chỉ đạo các cơ
quan chuyên môn xây dựng Quy chế làm việc, kịp thời sửa đổi bổ sung Quy
chế làm việc. Do xây dựng được quy chế làm việc nên đã xác định rõ chức
10
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan và của thủ trưởng, cán bộ công chức
trong cơ quan; xác định đúng đắn mối quan hệ phối hợp trong giải quyết công
việc giữa các cơ quan, giữa cơ quan với cấp trên, cấp dưới. Đặc biệt, do xây
dựng được uy chế làm việc nên đã hạn chế tối đa hiện tượng chồng chéo,
trùng lặp trong giải quyết công việc, hoặc ngược lại bỏ sót công việc mà
không có cơ quan hoặc cá nhân nào chịu trách nhiệm.
Qua sự việc rà soát chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan cũng làm rõ
hơn, phân định cụ thể hơn chức năng quản lý Nhà nước và hoạt động sự
nghiệp. Từng bước khắc phục được tình trạng lẫn lộn giữa chức năng quản lý
Nhà nước và hoạt động sự nghiệp. Góp phần làm cho nền hành chính ngày
càng minh bạch hơn.
Để tiếp tục củng cố tổ chức và bộ máy, ngoài việc sắp xếp lại đội ngũ
cán bộ công chức thông qua thuyên chuyển, điều động, UBND huyện đã giải
quyết tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết 16, Nghị quyết 09 của
Chính phủ, cho thôi việc 38 cán bộ, công chức; xét kỷ luật 27 trường hợp.
4. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII), Kế hoạch số 41/LKH-
TU ngày 04/3/2003 của Ban Thường vụ Tỉnh uy4 Sơn La, huyện Mộc Châu
đã tiến hành đánh giá, quy hoạch cán bộ lãnh đạo cấp huyện, cán bộ lãnh đạo
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, các đơn vị trường học. Thường
xuyên rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch, kiên quyết đưa ra khỏi quy
hoạch những đồng chí không còn đủ tiêu chuẩn, đồng thời bổ sung vào quy
hoạch những đồng chí có đủ phẩm chất, năng lực, nhiều triển vọng phát triển.
Do làm tốt công tác quy hoạch nên việc bổ nhiệm bầu cử các chức danh lãnh
đạo luôn chủ động được nguồn, góp phần tích cực vào công tác nhân sự cho
Đại hội các chi, đảng bộ cơ sở, cho bầu cử các chức danh chủ chốt của HĐND
– UBND cấp huyện và cấp xã, cho công tác bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cơ quan chuyên môn và các đơn vị trường học. Trong 3 năm qua,
huyện đã đánh giá để bổ nhiệm lại, bổ nhiệm có thời hạn, luân chuyển 56 lượt
11
Trưởng, Phó phòng và tương đương; 197 lượt cán bộ quản lý trường học,
đồng thời miễn nhiệm 14 cán bộ lãnh đạo các phòng ban chuyên môn và cán
bộ quản lý trường học.
Công tác tuyển dụng, hợp đồng được thực hiện đúng quy trình, đảm
bảo yêu cầu về trình độ đào tạo, chuyên ngành đào tạo, xuất phát từ yêu cầu
công việc mà tuyển dụng người, vì vậy chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
mới tuyển dụng và hợp đồng trong những năm gần đây được nâng lên rõ rệt.
UBND huyện đã hợp đồng trong chỉ tiêu biên chế, hợp đồng công chức được
bị 47 đồng chí, tuyển dụng 18 đồng chí, tiếp nhận 53 đồng chí, phân công 472
đồng chí, cho chuyển đi 65 đồng chí. Riêng đội ngũ cán bộ, công chức và cán
bộ không chuyên trách cấp xã, do mới thực hiện chế độ cán bộ, công chức
theo Nghị định 114 của Chính phủ nên UBND huyện chủ trương tuyển dụng
số thực tế đang công tác, đồng thời có kế hoạch từng bước thay thế những cán
bộ, công chức xã không đủ tiêu chuẩn trình độ và năng lực. Đến nay đã tuyển
dụng 838 đồng chí, góp phần kiện toàn, ổn định bộ máy cán bộ, công chức xã.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức nhằm nâng cao
trình độ, từng bước chuẩn hoá đội ngũ đã được UBND huyện quan tâm đúng
mức. Việc đào tạo cán bộ đã bám sát quy hoạch, nhu cầu sử dụng, quan tâm
đào tạo cán bộ nữ, cán bộ dân tộc và cán bộ trẻ, cả cán bộ đương chức và cán
bộ dự nguồn.
Từ năm 2003 đến nay, huyện đã cử đi bồi dưỡng và thi nâng ngạch
công chức 32 đồng chí, thi tuyển công chức 26 đồng chí; bồi dưỡng kiến thức
quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên chính 3 đồng chí, chuyên viên 14 đồng
chí. Đi đào tạo bác sĩ chuyên khoa I và thạc sĩ 10 đồng chí, đào tạo chuẩn và
trên chuẩn hơn 1.000 cán bộ, giáo viên; đào tạo trung cấp nông – lâm cho 20
cán bộ xã, cán bộ tư pháp xã cho 21 đồng chí, xã hội trưởng cho 10 đồng chí,
kỹ thuật viên tin học cho 56 đồng chí cán bộ, công chức xã, học bổ túc cấp II
và cấp III trong diện có học bổng 332 đồng chí cán bộ xã, tạo điều kiện cho
hơn 100 cán bộ công chức cấp huyện và cấp xã đi học lý luận chính trị từ
12
trung cấp đến cao cấp, 40 đồng chí cán bộ xã đi học đại học nông – lâm và lý
luận chính trị theo kế hoạch của Huyện uỷ. Cử hàng trăm lượt cán bộ xã đi
bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ chuyên
ngành (công an, tài chính, tư pháp,…) hàng năm.
5. Về cải cách tài chính công.
Thực hiện Luật Ngân sách, UBND huyện đã thực hiện công khai dự
toán thu, chi ngân sách huyện và công khai giao dự toán thu, chi ngân sách
hàng năm cho các đơn vị dự toán. Tổ chức khoán kinh phí chi thường xuyên
đến các đơn vị hành chính trên cơ sở mức khoán của UBND tỉnh giao hàng
năm. Thực hiện tốt chế độ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu.
hướng dẫn và công khai hoá các thủ tục liên quan đến lĩnh vực tài chính như:
Thủ tục lập dự toán ngân sách cho các đơn vị từ huyện đến xã, thủ tục giao dự
toán ngân sách, công khai dự toán ngân sách, thủ tục bổ sung dự toán ngân
sách, thủ tục cấp phát kinh phí, thủ tục thẩm định và xét duyệt quyết toán, thủ
tục thẩm tra và phê duyệt quyết toán các công trình hoàn thành, thủ tục khiếu
nại của công dân,… Vì vậy kết quả thu, chi ngân sách hàng năm đều đạt và
vượt chỉ tiêu kế hoạch, năm sau cao hơn năm trước. Các cơ chế về quản lý
điều hành ngân sách đã phát huy hiệu quả, đảm bảo theo đúng quy định của
Luật Ngân sách.
6. Hiện đại nền hành chính Nhà nước.
UBND huyện đã quan tâm chỉ đạo xây dựng kỷ luật, kỷ cương hành
chính của các cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ, công chức trong thực hiện
nhiệm vụ được giao.
Việc xây dựng và thực hiện quy chế làm việc của các cơ quan có nhiều
tiến bộ. Đã phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, thẩm quyền của
từng cán bộ, công chức và thủ trưởng cơ quan, mối quan hệ với các cơ quan
khác. Các chế độ công tác của cơ quan và đội ngũ cán bộ công chức được
thực hiện ngày càng có nề nếp, chuyển biến ngày càng tích cực. Đã hạn chế
được tình trạng trông chờ, ỷ lại, trốn tránh trách nhiệm hoặc bao biện làm
13
thay trong thực thi nhiệm vụ của cán bộ công chức, đã làm giảm thiểu tình
trạng giải quyết công việc một cách chồng chéo bỏ sót công việc.
Trong quá trình quản lý điều hành, các cơ quan hành chính Nhà nước
đã đạt được sự tiến bộ nét trong việc xây dựng và thực hiện chương trình, kế
hoạch. Việc xây dựng chương trình, kế hoạch ngày càng khoa học hơn, sát
thực tiễn hơn, đảm bảo tính khả thi ngày càng cao hơn. Công tác tổ chức thực
hiện chương trình, kế hoạch, công tác đôn đốc, kiểm tra, truy kích công việc
ngày càng triệt để hơn. Vì vậy các mặt công tác của các cơ quan hành chính
Nhà nước được thực hiện ngày càng đảm bảo yêu cầu về thời gian, với chất
lượng và hiệu quả ngày càng cao hơn.
Trong điều kiện kinh phí còn hạn chế, UBND huyện và các cơ quan
chuyên môn đã có nhiều cố gắng trong tiết kiệm chi ngân sách để đầu tư trang
thiết bị làm việc, từng bước thực hiện hiện đại hoá công sở. Nhìn chung đến
nay các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện được trang bị các phương
tiện thiết yếu phục vụ công tác chuyên môn như: Máy vi tính, ghế, thủ đựng
tài liệu, máy điện thoại,… Đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chuyên
môn.
Để từng bước triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
chỉ đạo, điều hành của UBND huyện, từ năm 2005 UBND huyện đã triển khai
xây dựng mạng LAN theo Đề án 112 của Chính phủ với số máy vi tính tham
gia nối mạng LAN là 17 máy của 3 cơ quan hành chính. Đồng thời đã triển
khai sử dụng 3 phần mềm dùng chung là: Trang thông tin điện tử phục vụ
điều hành, hệ thống quản lý văn bản và hồ sơ công việc, hệ thống thông tin
tổng hợp kinh tế – xã hội, qua đó đã bước đầu góp phần nâng cao chất lượng
công tác quản lý, điều hành của các cơ quan hành chính cấp huyện.
Trong thời gian vừa qua, UBND huyện đã tập trung chỉ đạo các xã, thị
trấn xây dựng trụ sở làm việc, nhà văn hoá, trang thiết bị phương tiện phạm vi
tại UBND cấp xã. Đến nay có 24/27 xã, thị trấn có trụ sở xây kiên cố, còn lại
3 xã có trụ sở xây cấp 4. Các xã, thị trấn đã từng bước được trang bị phương
14
tiện làm việc như: Bàn ghế, tủ tài liệu, điện thoại và đến nay có 25/27 xã được
trang bị máy vi tính.
III. đánh giá những thiếu sót, khuyết điểm.
Công tác tuyên truyền về cải cách thủ tục hành chính đã được thực hiện
nhưng còn nhiều hạn chế, chưa sâu rộng trong cán bộ, công chức và nhân dân,
nhất là ở cấp xã. Nhiều cá nhân chưa nắm được những vấn đề cơ bản của cải
cách hành chính, hiểu cải cách hành chính còn mơ hồ và phiến diện. Hình
thức tuyên truyền còn nghèo nàn, hiệu quả tuyên truyền còn thấp. Vì vậy chưa
tạo ra sự chuyển biến thật sự rõ nét về nhận thức đối với cải cách hành chính.
Ban Chỉ đạo cải cách hành chính hoạt động chưa thường xuyên, chưa
tạo thành nề nếp ổn định, chưa kịp thời xử lý những vấn đề còn tồn đọng,
vướng mắc hoặc những vấn đề mới phát sinh trong công tác cải cách hành
chính.
Do trình độ đội ngũ cán bộ, công chức chưa thật đồng đều nên còn một
số cơ quan dự thảo một số văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND
huyện chất lượng chưa cao, phải chỉnh sửa nhiều lần làm ảnh hưởng tới thời
gian ban hành văn bản. Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của HĐND,
UBND cấp xã nhìn chung còn thấp, có lúc có nơi sai về thể thức và thẩm
quyền, tính khả thi một số văn bản không cao. Quy trình, thủ tục ban hành
văn bản quy phạm pháp luật ở một số nơi chưa đảm bảo. Công tác kiểm tra,
xử lý văn bản quy phạm pháp luật cấp xã tiến hành chưa thường xuyên, số
lượng văn bản được kiểm tra ít vì vậy chưa kịp thời giúp cơ sở rút kinh
nghiệm để nâng cao chất lượng ban hành văn bản.
Mặc dù đã cố gắng trong việc cải cách thủ tục hành chính nhưng thực
tế vẫn còn nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà, nặng về hình thức. Một số
cơ quan chưa quan tâm đến việc xây dựng các quy trình, thủ tục hành chính
thực sự khoa học. Việc niêm yết, công khai hoá các thủ tục hành chính nhiều
nơi chưa thực hiện được.
15
Cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại UBND cấp
huyện tuy có nhiều tiến bộ, góp phần quan trọng vào kết quả cải cách hành
chính, tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần phải giải quyết tiếp. Cơ chế vận
hành của bộ phận “một cửa” sao cho tổ chức, công dân chỉ phải giải quyết
công việc ở bộ phận “một cửa” chứ không phải sang các cơ quan khác còn
tiếp tục phải hoàn thiện. Mối quan hệ trong giải quyết công việc giữa bộ phận
“một cửa” với các cơ quan có liên quan, giữa các cơ quan có với nhau cũng
cần phải tiếp tục cải tiến để đảm bảo tốt hơn chất lượng, hiệu quả, thời gian
theo yêu cầu của tổ chức, công dân và theo luật định. Triển khai thực hiện cải
cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại UBND cấp xã còn chậm.
Kỷ luật, kỷ cương, nề nếp hoạt động công vụ của một bộ phận cán bộ,
công chức cấp huyện và đại đa số cán bộ, công chức cấp xã còn yếu. Việc xây
dựng và thực hiện quy chế làm việc ở UBND một số xã chưa được quan tâm
đúng mức. Một số chính quyền cơ sở chưa nắm chắc chức năng, nhiệm vụ,
thoả thuận của mình nên có lúc, có nơi bỏ sót công việc, trông chờ cấp trên,
có lúc, có nơi lại giải quyết công việc sai thẩm quyền.
Đổi mới lề lối làm việc, phương thức quản lý, điều hành ở một số cơ
quan và xã, thị trấn tiến hành còn chậm, lúng túng. Việc xây dựng chương
trình, kế hoạch nhìn chung còn yếu, có lúc còn mang tính hình thức, chiếu lệ.
Việc đôn đốc, kiểm tra, truy kích công việc có lúc chưa triệt để, chưa kiên
quyết vì vậy có công việc chưa đảm bảo thời gian, chất lượng chưa cao.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức, đặc biệt là cấp
xã đã được quan tâm nhưng nhìn chung tốc độ còn chậm. Tỷ lệ cán bộ, công
chức cấp xã chưa đào tạo đạt chuẩn về chuyên môn, chưa được bồi dưỡng về
lý luận chính trị và quản lý Nhà nước còn chiếm tỷ lệ cao. Chưa có kế hoạch
dài hạn về đào tạo cán bộ, công chức. Trình độ, năng lực, kỹ năng hành chính
của nhiều cán bộ, công chức hiện tại còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập do
chưa được đào tạo, bồi dưỡng cơ bản về những nội dung nêu trên.
16
Quản lý Ngân sách nói chung và cải cách tài chính công nói riêng ở cấp
xã nhìn chung còn yếu. Quy trình, thủ tục trong thu, chi ngân sách nhiều nơi
chưa bảo đảm, từ đó dẫn đến những sai phạm, khuyết điểm trong quản lý
ngân sách.
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhìn chung còn
chậm, thiếu đồng bộ, chưa phát huy được ưu điểm, thế mạnh của công nghệ
thông tin trong hoạt động từ huyện lên Ban Chỉ đạo cải cách hành chính tỉnh.
iv. nguyên nhân.
1. Nguyên nhân của ưu điểm.
Có sự quan tâm chỉ đạo giúp đỡ về chuyên môn và cơ sở vật chất cho
cải cách hành chính của UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo cải cách hành chính tỉnh và
của Ban Thường vụ Huyện uỷ.
UBND huyện đã chủ động trong việc thể chế hoá các nội dung của cải
cách hành chính vào các chương trình, kế hoạch cụ thể và triển khai tổ chức
thực hiện. Các cơ quan chuyên môn tích cực thực hiện cải cách hành chính tại
cơ quan mình, đồng thời góp phần quan trọng vào quá trình cải cách hành
chính của huyện.
Cải cách hành chính là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân nên
được đông đảo nhân dân ủng hộ. Sự tích cực, chủ động của nhân dân vào cải
cách hành chính góp phần quan trọng vào việc thực hiện các nội dung của cải
cách hành chính.
2. Nguyên nhân của thiếu sót, khuyết điểm.
Cải cách hành chính là việc khó khăn, phức tạp và lâu dài trong khi đó
kinh nghiệm chỉ đạo cải cách hành chính của Ban Chỉ đạo cải cách hành
chính cấp huyện chưa nhiều, vì vậy trong quá trình tổ chức thực hiện cải cách
hành chính còn có biểu hiện lúng túng, hiệu quả công tác chỉ đạo chưa cao.
Công tác cải cách hành chính từ Trung ương đến địa phương còn nhiều
bất cập, thiếu đồng bộ, vì vậy gây trở ngại cho việc triển khai cải cách hành
chính ở lĩnh vực có nhiều cơ quan liên quan. Ví dụ: khi chưa có đổi mới về
17
phân cấp quản lý công tác tổ chức và cán bộ, chưa cơ chế giao quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm cho thủ trưởng các cơ quan hành chính về sử dụng biên
chế thì cũng chưa thực hiện được chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh
phí quản lý hành chính theo tinh thần Nghị định 130/2005/NĐ-CP ngày
17/10/2005 của Chính phủ.
Biên chế cán bộ, công chức của huyện được giao hàng năm; biên chế
cán bộ, công chức cấp xã theo Nghị định 114 của Chính phủ nhìn chung là ít
so với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Cường độ làm việc của cán bộ, công chức
quá lớn, vì vậy ảnh hưởng một phần đến chất lượng giải quyết công việc.
Biên chế làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả lấy từ biên chế các
phòng, ban chuyên môn cũng gây khó khăn cho các cơ quan thực hiện theo cơ
chế “một cửa”.
Trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu, vì vậy
khả năng tiếp thu nội dung cải cách hành chính còn hạn chế, việc triển khai
thực hiện cải cách hành chính hiệu quả chưa cao.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động công vụ nói chung, cho cải
cách hành chính nói riêng còn thiếu thốn, chưa đồng bộ, ảnh hưởng tới quá
trình triển khai và kết quả của cải cách hành chính.
v. bài học kinh nghiệm.
Cải cách hành chính là việc làm lâu dài, thường xuyên, vì vậy phải biết
lựa chọn nội dung trọng tâm, trọng điểm cần tập trung chỉ đạo giải quyết dứt
điểm trong từng thời điểm nhất định.
Phải thường xuyên cập nhật thông tin về cải cách hành chính để áp
dụng kịp thời vào thực tiễn công tác cải cách hành chính ở địa phương.
Cải cách hành chính là việc khó khăn, phức tạp, vì vậy phải thường
xuyên đánh giá, kịp thời phát hiện những yếu kém để rút kinh nghiệm cho
giai đoạn tiếp theo.
Cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ, có sự phối hợp chặt
chẽ của các cơ quan có liên quan thì mới đem lại có hiệu quả cao.
18
Phần thứ hai
một số giải pháp của cải cách hành chính
giai đoạn 2006 – 2010
i. giải pháp trọng tâm của công tác cải cách hành chính giai đoạn 2006 – 2010.
1. Tiếp tục đổi mới việc ban hành thể chế. Cụ thể hoá các cơ chế, chính
sách để phát triển kinh tế – xã hội của huyện. Tiếp tục cải tiến quy trình soạn
thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản ban hành chính
đảm bảo đúng luật, đơn giản, gọn nhẹ.
2. Tích cực và thường xuyên rà soát các văn bản quy phạm pháp luật,
nhất là hệ thống các cơ chế, chính sách của cấp trên, các quy định của huyện
nhằm phát hiện những vấn đề bất hợp lý để sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị
các cơ quan ban hành sửa đổi, bổ sung, phục vụ kịp thời cho nhiệm vụ phát
triển kinh tế – xã hội của huyện. Thực hiện đơn giản hoá các thủ tục hành
chính, tạo thuận lợi cho việc giao dịch của tổ chức, công dân với các cơ quan
hành chính Nhà nước ở địa phương. Phấn đấu đến năm 2010 đưa từ 6 đến 7
lĩnh vực cấp huyện và 100% số xã, thị trấn áp dụng triển khai cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế “một cửa”, đảm bảo giải quyết thông suốt, kịp thời
yêu cầu chính đáng của tổ chức, công dân.
Tăng cường sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của nhân dân đối với cán bộ,
công chức thực hiện nhiệm vụ khi tiếp nhận, xử lý công việc của công dân.
3. Đẩy mạnh thực hiện phân cấp giữa tỉnh với huyện, giữa huyện với
xã, đặc biệt quan tâm đến phân cấp công tác tổ chức và cán bộ, phân cấp lập
quy hoạch, kế hoạch, phân cấp về đầu tư, phân cấp về ngân sách, phân cấp về
hoạt động quản lý hoạt động sự nghiệp… theo tinh thần Nghị quyết số
08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ.
Thực hiện mạnh mẽ phân cấp trong hệ thống hành chính đi đôi với
nâng cao tính tập trung thống nhất trong việc ban hành thể chế. Quy định rõ
trách nhiệm quyền hạn của từng cấp, từng tổ chức và cá nhân.
19
Chấn chỉnh bộ máy hành chính theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực theo
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, yêu cầu bộ máy hành chính trong sạch,
vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục thực hiện tách chức năng công vụ của
đội ngũ cán bộ, công chức, ngăn chặn, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, tiêu
cực. Xây dựng cơ cấu công chức hợp lý gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của từng tổ chức, cán bộ công chức. Đề cao trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan, đơn vị.
Xem xét khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi
nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các
tổ chức thực hiện một số dịch vụ với sự giám sát của cộng đồng.
4. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, chú trọng đội ngũ
cán bộ xã, thị trấn. Phấn đấu đến năm 2010 có 90% cán bộ, công chức cấp
huyện có trình độ đại học chuyên môn, 80% có trình độ trung cấp về lý luận
trở lên và qua bồi dưỡng về quản lý hành chính Nhà nước. 90% trở lên công
chức xã được đào tạo chuẩn hoá về chuyên môn, 70% trở lên cán bộ chuyên
trách xã được đào tạo về chuyên môn và lý luận chính trị. Đổi mới và đưa vào
nề nếp việc thực hiện quy chế tuyển dụng, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật,
nâng lương, nâng ngạch…
Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Bảo
đảm cho nhân dân tiếp xúc dễ dàng với cơ quan công quyền, có điều kiện
kiểm tra cán bộ, công chức, nhất là những người trực tiếp làm việc với dân.
5. Thực hiện tốt cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và kinh
phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. Tăng thẩm
quyền tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu theo quy định
của Chính phủ. Phấn đấu đến năm 2010 có 100% số cơ quan hành chính thực
hiện khoán biên chế và chi phí hành chính, 100% đơn vị sự nghiệp có thu
chuyển sang thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính.
6. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về cải cách hành chính Nhà nước,
tập trung tuyên truyền những nội dung của Chương trình tổng thể cải cách
20
hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 – 2010. Thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng để làm cho mọi người hiểu rõ chủ trương, chính sách, nội
dung về cải cách hành chính Nhà nước và những lợi ích cơ bản do cải cách
hành chính đem lại.
7. Tranh thủ các nguồn lực đầu tư, triệt để tiết kiệm chi ngân sách để
xây dựng, triển khai chương trình hiện đại hoá công sở, tin học hoá hành
chính. Phấn đấu đến năm 2010 có 100% số xã được trang bị máy vi tính, máy
phôtô coppy. 100% các cơ quan hành chính cấp huyện đủ điều kiện để nối
mạng LAN, sử dụng các phần mềm dùng chung, góp phần đẩy mạnh cải cách
hành chính và nâng cao hiệu quả công vụ.
ii. những giải pháp trọng tâm công tác cải cách hành chính năm 2006.
1. Cải cách thể chế và thủ tục hành chính.
Rà soát, đánh giá tình hình phân cấp quản lý Nhà nước hiện nay giữa
cấp tỉnh với cấp huyện, giữa cấp huyện với cấp xã, trên cơ sở đó đề nghị cấp
trên tiếp tục phân cấp hoặc điều chỉnh, sửa đổi phân cấp theo tinh thần Nghị
quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ.
Thực hiện việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
đồng thời đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện của Chính phủ.
Kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật. Qua rà soát để đề
nghị với cơ quan ban hành văn bản bãi bỏ, sửa đổi hoặc bổ sung.
Triển khai xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc của
UBND cấp huyện và cấp xã theo quy chế làm việc mẫu do Chính phủ ban
hành.
Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc khi
quy chế làm việc của UBND huyện thay đổi.
Tổ chức sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Đề án cải cách thủ tục hành chính
theo cơ chế “một cửa” tại UBND cấp huyện; tập trung vào văn bản quy định
việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ theo cơ chế “một cửa” bản quy chế tổ chức
và hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
21
Chỉ đạo các xã xây dựng Đề án và triển khai thực hiện cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế “một cửa” tại UBND cấp xã.
2. Công tác kiện toàn tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế.
Tiếp tục kiện toàn các cơ quan chuyên môn theo Nghị định 172 của
Chính phủ. Kiện toàn cán bộ lãnh đạo một số phòng, ban còn thiếu cấp phó.
Rà soát, kiến nghị với cấp trên phân cấp lại về công tác tổ chức và cán bộ cho
phù hợp với tình hình cải cách hành chính hiện nay. Rà soát lại chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan, đánh giá mức độ phù hợp về chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan theo quy định của cấp trên.
Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cho
phù hợp với năng lực, sở trường và trình độ chuyên môn được đào tạo.
3. Công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Nâng cao năng lực và kỹ năng hành chính trong hoạt động công vụ đối
với đội ngũ cán bộ, công chức. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống quan
liêu, tham nhũng, xa rời thực tế, xa dân trong đội ngũ cán bộ, công chức từ
huyện đến cơ sở. Nâng cao năng lực tham mưu, giúp việc và thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao của cán bộ, công chức. Phấn định rõ thẩm quyền,
trách nhiệm của mỗi cá nhân cán bộ, công chức trong thực hiện công vụ.
Đề nghị với tỉnh đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cả về
chuyên môn, lý luận chính trị và quản lý Nhà nước. Quan tâm đào tạo cán bộ
xã. Tổ chức tốt các lớp bồi dưỡng cho cán bộ, công chức xã và cán bộ bản
theo kế hoạch tỉnh giao năm 2006.
4. Cải cách tài chính công.
Tiếp tục thực hiện tốt Luật Ngân sách. Thực hiện công khai thu, chi
ngân sách và các khoản kinh phí theo quy định của pháp luật. Tiếp tục hoàn
thiện và thực hiện tốt các quy trình, thủ tục về quản lý ngân sách đang triển
khai thực hiện. Từng bước triển khai có hiệu quả Nghị định 130 của Chính
phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh
phí quản lý hành chính đối với cơ quan Nhà nước.
22
5. Hiện đại hoá nền hành chính Nhà nước.
Tiếp tục nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính của cơ quan, đơn vị và
cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Tiếp tục đổi mới lề lối và phương thức làm việc của các cơ quan, đơn
vị.
Đẩy mạnh việc ứng dụng tin học trong quản lý hành chính Nhà nước,
trong nghiệp vụ hành chính, trong soạn thảo và xử lý văn bản. Triệt để tiết
kiệm ngân sách để dành kinh phí mua sắm trang thiết bị, góp phần thực hiện
tốt cải cách hành chính và nâng cao hi
ệu quả hoạt động công vụ.