Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản theo luật phá sản 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.38 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, phá sản doanh nghiệp là hiện tượng tất
yếu của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên để loại bỏ các
doanh nghiệp yếu kém, khẳng định sự tồn tại và phát triển đối với doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả. Vì những lí do khác nhau mà trong q trình hoạt
động kinh doanh, doanh nghiệp, hợp tác xã có thể lâm vào tình trạng khơng
thể trả được các khoản nợ khi đến hạn. Để cứu vãn doanh nghiệp trong
những trường hợp này, pháp luật về phá sản các nước thường quy định các
biện pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hợp
tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Trình tự, thủ tục phục hồi doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản là một bộ phận quan trọng trong trình
tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp được quy định trong Luật phá sản 2004.
Thủ tục này nhằm tạo những điều kiện, cơ hội để doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản có thể vượt qua được tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn, tránh nguy cơ bị tuyên bố phá sản. Bên cạnh đó nếu
doanh nghiệp, hợp tác xã phục hồi thành cơng cịn có thể bảo đảm quyền, lợi
ích của các chủ nợ và những người có liên quan, cũng như giải quyết cơng
việc làm ăn cho người lao động, duy trì trật tự ổn định xã hội, từ đó góp
phần làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.
Ý thức rõ được tầm quan trọng của vấn đề đã nêu, do đó em xin chọn
bài tập số 14 với nội dung: “Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản theo Luật phá sản
2004”. Tuy đã có sự cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu, nhưng do khối
lượng kiến thức lớn mà nhận thức của em có hạn, do đó bài viết của em
khơng thể tránh khỏi sự sai sót. Kính mong các thầy cơ chỉ bảo, giúp đỡ để
bài viết em thêm hồn thiện. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô !

1


I.



MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1. Khái niệm Luật Phá sản:
1.1. Khái niệm:
Pháp luật phá sản là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết
yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Trong pháp luật thương mại, pháp luật phá sản là một chế định đặc
thù, thể hiện ở chỗ, trong chế định này vừa chứa đựng các quy phạm của
pháp luật nội dung vừa chứa đựng các quy phạm của pháp luật hình thức
(pháp luật tố tụng). Với tư cách là pháp luật nội dung, pháp luật phá sản điều
chỉnh các quan hệ tài sản giữa chủ nợ và con nợ, ghi nhận đầy đủ quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ tài sản đó. Cịn với tư cách là
pháp luật hình thức, pháp luật phá sảnđiêu chỉnh quan hệ tố tụng giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền với chủ nợ, con nợ và những người có liên
quan, quy định quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể, trình tự, thủ tục
giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
1.2. Phân loại phá sản:
* Dựa vào nguyên nhân gây ra phá sản:
- Phá sản trung thực: là hiện tượng phá sản do những nguyên nhân
khách quan hay những rủi ro trong kinh doanh gây ra.
- Phá sản gian trá: là hiện tượng phá sản do con nợ có những thủ đoạn
gian trá, có sắp đặt trước nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
* Dựa vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp lý:
- Phá sản tự nguyện: là phá sản do chính con nợ u cầu khi thấy
mình lâm vào tình trạng phá sản.

2



- Phá sản bắt buộc: là phá sản được thực hiện theo yêu cầu của chủ nợ
hoặc của đại diện chủ sở hữu ở một số loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp
nhà nước, công ty cổ phần, công ty hợp danh).
* Dựa vào đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản: phá sản
được chia thành: phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và phá sản cá nhân.
2. Khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Danh từ “phá sản” bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng Latin , có nghĩa
là “sự khánh tận”. Khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu
và chi của một doanh nghiêp mà biểu hiện trực tiếp là sự mất cân đối ấy
chính là tình trạng mất khả ăng thnh toán nợ đến hạn
Ở Việt Nam hiện tượng phá sản và pháp luật phá sản mới chỉ ra đời do
sự chuyển hướng nền kinh tế sang cơ chế thị trường. Luật Công ty 1990 lần
đầu tiên đề cập đến khái niệm Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như
sau: “Cơng ty gặp khó khăn thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến mức tại
một thời điểm tổng số các tài sản của công ty không đủ khả năng thanh toán
tổng số các khoản nợ đến hạn là cơng ty lâm vào tình trạng phá sản.”(Điều
24 – Luật Công ty 1990).
Luật phá sản doanh nghiệp 1993 đã có quy định cụ thể về doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản như sau: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh
doanh sau khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn” (Điều 2 – Luật Phá sản doanh nghiệp 1993).
Cả hai khái niệm này đều có những hạn chế dẫn đến việc áp dụng trong
thực tiễn gặp nhiều khó khăn. Luật phá sản 2004 ra đời đã khắc phục được
phần nào những hạn chế đó. Khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản quy định trong Luật Phá sản 2004 được xây dựng theo hướng đơn giản
và hợp lý hơn, cụ thể: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh
3



nghiệp khơng có khả năng thanh tốn được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ
có yêu cầu”. (Điều 3 – Luật Phá sản 2004).
Từ khái niệm trên có thể nhận thấy, dấu hiệu đặc trưng để xác định
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là mất khả năng thanh tốn. Song,
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chưa hẳn đã bị phá sản, doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ được coi là bị phá sản khi đã tiến hành
thủ tục tuyên bố phá sản.
3. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản.
Bản chất của thủ tục phục hồi hoạt động doanh nghiệp là khi một doanh
nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn nợ đến hạn thì doanh
nghiệp đó được Tịa án dành cho một thời gian “đệm” nhất định nhằm tạo cơ
hội để nó bằng các nỗ lực của chính mình và với sự giúp đỡ của các chủ nợ
mà khôi phục lại hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
Có thể nhận thấy tính đặc thù của thủ tục này ở những điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể ra quyết định: trong quá trình kinh doanh, DN,
HTX có thể gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ. Khi đó, chủ DN, HTX có thể thực
hiện việc tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh hay nói cách khác tự
phục hồi DN, HTX mình, q trình này hồn tồn phụ thuộc vào ý chí của
chủ DN, HTX. Trong khi đó, chủ thể ra quyết định phục hồi DN, HTX lâm
vào tình trạng phá sản là Tòa án, đồng thời, hoạt động phục hồi này đặt dưới
sự giám sát chặt chẽ của Tòa án và các chủ nợ.
Thứ hai, về thông qua phương án phục hồi: đối với phục hồi DN thông
thường, chủ doanh nghiệp là người tự chủ, họ là người tự thông qua phương
án phục hồi doanh nghiệp mà họ cho là hợp lý. Đối với phục hồi DN, HTX
trong Luật Phá sản thì chủ thể thông qua là Hội nghị chủ nợ.

4



Thứ ba, về thủ tục tiến hành: quá trình tự phục hồi doanh nghiệp của
chủ doanh nghiệp là giải pháp tổ chức sản xuất kinh doanh được chủ doanh
nghiệp chủ động thực hiện, còn phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá
sản theo Luật Phá sản lại là thủ tục tư pháp, chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của
pháp luật.
II. THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP, HTX LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO LUẬT
PHÁ SẢN 2004.
Sự ưu tiên cứu vãn doanh nghiệp khi có dấu hiệu lâm vào tình trạng
phá sản của pháp luật phá sản đã làm cho thủ tục phục hồi có vai trị quan
trọng trong q trình giải quyết u cầu tun bố phá sản doanh nghiệp. Mặc
dù cịn có các quy định khác nhau trong nội dung của trình tự thủ tục,song
thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản của các nước trên
thế giới có thể chia làm ba giai đoạn như sau: Giai đoạn nộp đơn yêu cầu và
mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản; giai đoạn giải
quyết yêu cầu mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản;
giai đoạn thực hiện phương án phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản. Phù hợp với xu hướng đó, pháp luật phá sản Việt Nam cũng quy định
thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo ba giai đoạn
như trên. Sau đây là những quy định cụ thể của Luật phá sản 2004 về thủ tục
phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
1. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình
trạng phá sản theo LPS 2004.
1.1 Giai đoạn nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
* Chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
5



Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ được mở
khi có đơn yêu cầu của các chủ thể có quyền và nghĩa vụ. Quyết định mở thủ
tục phục hồi chính là cơ sở pháp lý cho quá trình áp dụng thủ tục phục hồi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Pháp luật về phá sản của các quốc
gia trên thế giới đều quy định cho hai chủ thể cơ bản có quyền và nghĩa vụ
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp là chủ nợ và doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Đối với các chủ nợ, việc nộp đơn chính là
quyền mà pháp luật dành cho họ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình trong trường hợp cần thiết. Song đối với bản thân doanh nghiệp thì
việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ.
Theo quy định của Luật Phá sản 2004, chủ thể có quyền và nghĩa vụ
nộp đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản doanh nghiệp tương đối đa
dạng. So với Luật phá sản doanh nghiệp 1993 thì đối tượng có quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá ản đã được mở rộng rất nhiều. Tuy nhiên, trong
nội dung của đơn yêu cầu mở thủ tục phá sả, Luật phá sản lại khơng quy
định người nộp đơn có quyền u cầu mở thủ tục phục hồi hay thủ tục thanh
lý tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy mặc dù được thiết kế là thủ tục tương
đối độc lập, song ngay từ thời điểm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, do yêu
cầu áp dụng thủ tục phục hồi không được ghi nhận nên thủ tục phục hồi
không được tách ra để giải quyết riêng biệt mà là một trong những thủ tục
của quá trình mở thủ tục phá sản.
Theo tinh thần của Luật phá sản 2004, em cho rằng chỉ có chủ nợ và
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản mới có quyền nộp đơn u cầu Tịa
án mở thủ tục phục hồi. Chúng ta không mở rộng thêm chủ thể nọp đơn yêu
cầu mở thủ tục phục hồi, bởi chúng ta quan niệm rằng phá sản thực chất là
cũng là thủ tục đòi nợ. Do vậy việc yêu cầu mở thủ tục là quyền và nghĩa vụ
của các ben trong quan hệ đòi nợ.
6



Tuy nhiên, khơng phải doanh nghiệp nào lâm vào tình trạng phá sản nếu có
đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi đều có thể được áp dụng thủ tục phục hồi.
Theo quy định của Luật phá sản 2004, những doanh nghiệp này muốn được
áp dụng thủ tục phục hồi thì cịn phải thỏa mãn những điều kiện nhất định.
* Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh:
Khi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, các chủ nợ cũng như những
người có quyền và nghĩa vụ liên quan đều mong muốn quyền lợi của mình
được đảm bảo. Phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình
trạng phá sản là một cách hữu hiệu để họ có thể đạt được mục đích đó cũng
như giúp bản thân DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản phục hồi hoạt động
kinh doanh, quay trở lại thương trường. Song, trên thực tế, việc thủ tục phục
hồi có được áp dụng hay khơng lại phải phục thuộc vào một số yếu tố nhất
định. Khoản 1 Điều 68 LPS 2004 quy định: “Thẩm phán ra quyết định áp
dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ nợ lần thứ
nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động
kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh
nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh”.
Từ quy định trên, có thể xác định điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản như sau:
Thứ nhất, Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất tổ chức thành (hợp lệ). Theo
quy định tại Điều 65 LPS 2004, Hội nghị chủ nợ hợp lệ khi có đầy đủ các
điều kiện sau: “Quá nửa số chủ nợ khơng có bảo đảm đại diện cho từ hai
phần ba tổng số nợ khơng có bảo đảm trở lên tham gia; Có sự tham gia của
người có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ quy định tại điều 63 của Luật
này”.

7



Thứ hai, Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết đồng ý với
các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạc thanh toán nợ cho
các chủ nợ và yêu cầu DN, HTX phải xây dựng phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh.
* Thẩm quyền ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình
trạng phá sản:
Theo quy định của Luật phá sản 2004, thẩm quyền ra quyết định mở
thủ tục và tiến hành áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản là Tịa án kinh tế thuộc hệ thống tòa án các cấp. Theo nguyên
tắc, cơ quan hành chính cấp nào (cấp tỉnh hay huyện) cấp giấy chứng nhận
đăng ký kih doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
thì Tịa án nhân dân cấp đó sẽ thụ lý việc giải quyết phá sản. Cụ thể:
- Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền thụ lý đơn và tiến hành thủ
tục phục hồi đối với hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan
đăng ký kinh doanh của Ủy ban nhân dân huyện đó và do một thẩm
phán phụ trách.
- Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền thụ lý đơn và tiến hành thủ
tục phục hồi đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng ký kinh
doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh đó và đối với doanh
nghiệp có vốn nước ngồi nếu có trụ sở chính của doanh nghiệp đặt
tại tỉnh đó. Trên thực tế có những hợp tác xã tuy đăng ký kinh doanh ở
cấp huyện nhưng lại có quy mô vốn, số lượng lao động cũng như năng
lực kinh doanh khơng nhỏ, nếu để Tịa án nhân dân cấp huyện giải
quyết phá sản đối với chúng thì có thể sẽ gặp khó khăn. Do đó, Luật
phá sản 2004 quy định trong trường hợp này Tòa án nhân dân cấp tỉnh
có thể lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản cũng như thủ tục phục hồi.
Việc tiến hành thủ tục phục hồi tạu Tòa án cấp tỉnh do một Thẩm
8



phán hay một tổ thẩm phán gồm ba thẩm phán phụ trách, trong đó có
một thẩm phán được giao làm tổ trưởng.
1.2. Giai đoạn giải quyết yêu cầu mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
* Xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm
vào tình trạng phá sản:
- Chủ thể xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh:
LPS 2004 quy định tại khoản 2 Điều 68 quy định những chủ thể sau
đây có quyền và nghĩa vụ tham gia xây dựng phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh:
Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất
thông qua Nghị quyết, DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản phải xây dựng
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của mình và nộp cho Tịa án; nếu
thấy cần phải có thời gian dài hơn thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán
gia hạn, thời gian gia hạn không quá ba mươi ngày.
Trong thời hạn nói trên, bất kỳ chủ nợ hoặc người nào nhận nghĩa vụ
phục hồi hoạt động phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX đều có
quyền xây dựng dự thảo phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cho DN,
HTX và nộp cho Tòa án.
Như vậy, theo quy định của LPS 2004 các chủ thể có quyền và nghĩa
vụ tham gia xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh là DN,
HTX lâm vào tình trạng phá sản và bất kỳ chủ nợ hoặc người nào nhận
nghĩa vụ phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX . Việc xây dựng
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh là nghĩa vụ của DN, HTX nhưng
lại là quyền của các chủ nợ và người nhận nghĩa vụ phục hồi hoạt động kinh
doanh của DN, HTX.

9



- Nội dung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh:
Nội dung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX
khơng những có ý nghĩa đối với việc thông qua hoặc không thông qua tại
Hội nghị chủ nợ mà cịn có vai trị quyết định đến sự thành cơng hay thất bại
của q trình áp dụng thủ tục phục hồi. Do vậy, khi tham gia xây dựng
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, các chủ thể có quyền và nghĩa vụ
đều cố gắng đưa ra những phương án, giải pháp phù hợp với tình hình thực
tế của DN, HTX để nhanh chóng đưa DN, HTX thốt khỏi những khó khăn
trong thực tế.
Điều 69 LPS 2004 quy định: “Phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản phải nêu rõ
các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh; các điều kiện,
thời hạn và kế hoạch thanh toán các khoản nợ”.
Điều 69 LPS 2004 cũng liệt kê một số biện pháp cần thiết để phục hồi
hoạt động kinh doanh, gồm có: huy động vốn mới; thay đổi mặt hàng sản
xuất, kinh doanh; đổi mới công nghệ sản xuất; tổ chức lại bộ máy quản lý,
sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng sản xuất; bán lại cổ phẩn cho chủ nợ; bán hoặc cho thuê tài sản không
cần thiết; các biện pháp khác không trái pháp luật.
- Thời hạn xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh:
Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất
thông qua Nghị quyết, DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản phải xây dựng
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của mình và nộp cho Tịa án; nếu
thấy cần phải có thời gian dài hơn thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán
gia hạn, thời gian gia hạn không quá ba mươi ngày (Điều 68 LPS 2004).

10



* Xem xét, thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Điều 71 LPS 2004 quy định việc xem xét, thông qua phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản được
thực hiện theo trình tự sau:
- Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày quyết định đưa phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản ra Hội
nghị chủ nợ, Thẩm phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét, thông
qua phương án phục hồi;
- Hội nghị chủ nợ xem xét, thảo luận phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh.
Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN,
HTX được thơng qua khi có q nửa số chủ nợ khơng có bảo đảm có mặt đại
diện cho từ hai phần ba tổng số nợ khơng có bảo đảm trở lên biểu quyết tán
thành.
* Công nhận nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh chỉ được thực hiện và có hiệu lực đối với các bên liên quan sau khi
được Thẩm phán ra quyết định công nhận.
Điều 72 LPS 2004 quy định:
(1) Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ
nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình
trạng phá sản. Nghị quyết này có hiệu lực đối với tất cả các bên có liên
quan,
(2). Tịa án phải gửi quyết định cơng nhận Nghị quyết của Hội nghị
chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cho DN, HTX lâm vào
tình trạng phá sản và các chủ nợ trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra
quyết định.
11



Như vậy, chủ thể có thẩm quyền ra quyết định công nhận Nghị quyết
về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh chính là Thầm phán phụ trách
giải quyết vụ việc phá sản. Quyết định này sẽ là cơ sở pháp lý để DN, HTX
lâm vào tình trạng phá sản tiến hành thực hiện phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh trên thực tế và là cơ sở để các chủ nợ bắt đầu thực hiện
nghĩa vụ giám sát đối với việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của DN, HTX.
1.3. Giai đoạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN,
HTX lâm vào tình trạng phá sản.
* Giám sát thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh:
Điều 73 LPS 2004 quy định: “Sáu tháng một lần, DN, HTX phải gửi cho Tịa
án báo cáo về tình hình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
ở DN, HTX. Chủ nợ có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệ, hợp tác xã”
Như vậy, DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản là chủ thể duy nhất có
nghĩa vụ thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh được thông
qua tại Hội nghị chủ nợ và phải chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của Tòa
án cũng như các chủ nợ trong quá trình thực hiện. Giám sát việc thực hiện
phương án phục hồi vứa là quyền đồng thời là nghĩa vụ của chủ nợ, thông
qua hoạt động này, các chủ nợ có thể kiểm tra DN, HTX có thực hiện đúng,
đầy đủ nội dung đã cam kết về phục hồi hoạt động kinh doanh và thời gian,
kế hoạch trả nợ cho các chủ nợ.
Có thể khẳng định đây là lần đầu tiên Luật phá sản ghi nhận quyền
nưng này cho các chủ nợ. Điều đó chững tỏ bên cạnh mục đích nhằm cứu
vãn doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, Luật phá sản 2004 cịn hướng
tới mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ nợ.

12



Ngồi chủ nợ, Tịa án cũng có thẩm quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản. Sự kiểm tra, giám sát đó sẽ được thực hiện thơng qua báo cáo về
tình hình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh do DN, HTX
gửi đến cho Tòa án sáu tháng một lần.
* Thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Để có thể thực hiện phương án phục hồi thành cơng, doanh nghiệp cần có
một khoảng thời gian hợp lý. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định thời gian
để thực hiện phương án phục hồi là điều hết sức phưc tạp.
Điều 74 LPS 2004 quy định về thời hạn thực hiện phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh như sau: “Thời hạn tối đa để thực hiện phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản là ba năm, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của
Toà án công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã”.
So với quy định trong LPSDN 1993, LPS 2004 quy định thời hạn tối
đa để thực hiện phương án phục hồi nhiều hơn 1 năm. Điều này mang lại
cho DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản thời gian dài hơn để thực hiện việc
phục hồi. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của từng DN, HTX, các chủ nợ và
con nợ sẽ đưa ra khoảng thời gian hợp lý cho việc thực hiện phương án phục
hồi chứ không nhất thiết phải là ba năm.
*Sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh:
Điều 75 LPS 2004 quy định:
1. Trong quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh, các chủ nợ và DN, HTX có quyền thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

13



2. Thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh của DN, HTX được chấp nhận khi có q nửa số chủ nợ khơng
có bảo đảm đại diện cho hai phần ba tổng số nợ khơng có bảo đảm trở lên
đồng ý.
3. Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên và
gửi quyết định đó cho DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản và các chủ nợ
trong thời hạn bày ngày, kể từ ngày ra quyết định.
Trong quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh,
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản gặp phải những khó khăn nhất định là
điều khó tránh khỏi. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc phục hồi hoạt
động kinh doanh, những khó khăn đó cần được khắc phục bằng cách sửa
đổi, bổ sung phương án phục hồi. Đây là quy định lần đầu tiên được ghi
nhận trong LPS, chứng tỏ LPS 2004 luôn tạo cơ hội để phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh nói riêng và thủ tục phục hồi nói chung đạt được
thành cơng trên thực tế.
2. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 76 LPS 2004, Thẩm phán sẽ ra quyết
định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào
tình trạng phá sản nếu có một trong các trường hợp sau đây: (a) DN, HTX đã
thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh; (b) Được quá
nửa số phiếu của các chủ nợ khơng có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba
tổng số nợ khơng có bảo đảm trở lên chưa thanh tốn đồng ý đình chỉ.
Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh được quy định trong Điều 77 LPS 2004 như sau:
(1) Trường hợp Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản thì DN,
HTX đó được coi khơng cịn lâm vào tình trạng phá sản.
14



(2) Trường hợp việc thi hành án dân sự hoặc việc giải quyết vụ án bị
đình chỉ theo quy định tại điều 57 của LPS 2004 chưa được thi hành hoặc
chưa được giải quyết thì ngay sau khi ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, việc thi
hành án dân sự hoặc việc giải quyết vụ án được tiếp tục. Tịa án ra quyết
định đình chỉ thủ tục phục hồi phải gửi trả lại hồ sơ vụ án cho Tịa án có
thẩm quyền để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Việc một DN, HTX được coi là khơng cịn lâm vào tình trạng phá sản
có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân DN, HTX, với các chủ nợ và cả nền
kinh tế - xã hội. Đối với bản thân DN, HTX, trong quá trình thực hiện việc
phục hồi hoạt động kinh doanh, họ tích lũy được những kinh nghiệm, những
bài học trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc được coi là không cịn lâm
vào tình trạng phá sản là cơ hội thứ hai cho họ được tiếp tục thực hiện hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Đối với các chủ nợ, khi DN, HTX thốt khỏi tình
trạng phá sản khả năng được DN, HTX hoàn trả đầy đủ các khoản nợ là rất
lớn. Đối với nền kinh tế - xã hội, khi thoát khỏi tình trạng phá sản, DN, HTX
sẽ tiếp tục tạo ra sản phẩm vật chất hay tinh thần cho xã hội, đóng góp vó sự
phát triển chung của nền kinh tế quốc dân và nộp thuế vào ngân sách; DN,
HTX sẽ lại tạo ra công ăn việc làm và nguồn thu nhập cho người lao động,
góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp.
3. So sánh thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh DN, HTX lâm vào tình
trạng phá sản trong LPSDN 1993 và LPS 2004:
* Về mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh: Điều 20 LPSDN
1993 quy định: “Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Thẩm phán phải yêu cầu chủ doanh nghiệp
hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp xây dựng phương án hoà giải và
các giải pháp tổ chức lại kinh doanh”.
15



Trong LPSDN 1993, phục hồi hoạt động kinh doanh gần như là một
hoạt động bắt buộc trước hoạt động thanh lý. Chỉ sau khi phục hồi không
thành công – thực hiện kế hoạch tổ chức lại hoạt động kinh doanh không
đem lại kết quả, con nợ vi phạm cam kết, hoặc Hội nghỉ chủ nợ không chấp
nhận kế hoạch phục hồi hoặc con nợ khơng có kế hoạch thì lúc đó Tịa án
mới có thể quyết định chuyển sang tun bố phá sản với con nợ và tiến hành
thanh lý tài sản của nó. Theo Điều 5 LPS 2004, thủ tục phá sản là một thủ
tục lớn bao gồm nhiều thủ tục cấu thành (thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh, thủ tục thanh lý tài sản, thủ tục tuyên bố phá sản) và giữa những thủ
tục cấu thành đó có mối liên hệ với nhau theo những nguyên tắc khác nhau.
Tính thứ tự, nối tiếp nhau khơng phải là yếu tố bắt buộc giữa các thủ tục cấu
thành. Đây là điểm khác biệt đầu tiên giữa hai văn bản LPS.
* Về thời hạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh:
LPSDN 1993 quy định thời hạn tối đa là 2 năm, song LPS 2004 quy định
thời hạn tối đa là 3 năm. Rõ ràng quy định tại LPS 2004 đã tạo thêm những
thuận lợi nhất định cho chủ DN, HTX thực hiện việc phục hồi hoạt động
kinh doanh.
* Về nội dung phương án phục hồi hoạt động kinh doanh: LPS 2004
quy định ngay trong một điều luật cụ thể (Điều 69 LPS 2004), trong khi đó
LPSDN 1993 chỉ quy định một cách chung chung, không cụ thể: “Phương
án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại kinh doanh phải có biện pháp, kế
hoạch cụ thể và lịch thời gian trả nợ cho các chủ nợ, trả lương cho người
lao động”(Điều 20 LPSDN 1993).
* Ngoài ra, LPSDN 1993 quy định chưa cụ thể về một số vấn đề như
giám sát việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, đình chỉ
và hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
16



III. Ý NGHĨA THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
DN, HTX LÂM VÀO TRÌNH TRẠNG PHÁ SẢN.
Thủ tục phục hồi DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản có ý nghĩa hết
sức quan trọng khơng chỉ đối với chính DN, HTX lâm vào tình trạng phá
sản, với chủ nợ mà cịn cả với Nhà nước và tồn xã hội.
1. Đối với DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản:
Quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh DN, HTX lâm
vào tình trạng phá sản bảo vê lợi ích của những DN, HTX này, đưa DN,
HTX thoát khỏi khó khăn về tài chính, hoạt động kinh doanh trở lại bình
thường. Khơng một DN, HTX nào muốn hoạt động kinh doanh của mình bị
phá sản, do vậy, khi lâm vào tình trạng phá sản, họ ln có những phương
án nhằm khắc phục những khó khăn, đưa DN, HTX thốt khỏi tình trạng đó.
Quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào
tình trạng phá sản có thể được xem là tạo thêm một cơ hội cho DN, HTX
giải quyết những khó khăn tài chính của mình, quay trở lại kinh doanh bình
thường. Hơn nữa, việc thanh lý DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản có thể
làm mất cơng cụ sản xuất, mất đi những kiến thức về khoa học, công nghệ
của DN, HTX . Bản thân DN, HTX trong quá trình hoạt động kinh doanh
của mình phải có quan hệ với các đối tác khác, vì thế, nếu bị phá sản thì các
đối tác kinh doanh sẽ mất đi một bạn hàng. Do đó, cần thiết phải bảo vệ
quyền lợi của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản.
Vai trị của thủ tục phục hồi trong việc bảo vệ quyền lợi của DN, HTX
lâm vào tình trạng phá sản được thể hiện ở chỗ, khi thủ tục phục hồi được
mở, DN, HTX sẽ có một khoảng thời gian cần thiết, dưới sự bảo vệ của pháp
luật để xây dựng và thực hiện việc phục hồi hoạt động kinh doanh của mình.
Đồng thời, DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản cũng tranh thủ được kinh
nghiệm trong công tác quản lý, điều hành, tổ chức và phương thức kinh
17



doanh của các chủ nợ khi họ tham gia vào q trình đóng góp ý kiến, xây
dựng và thơng qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX.
2. Đối với các chủ nợ:
Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX lâm vào tình
trạng phá sản tối đa hóa việc trả nợ cho các chủ nợ, thơng qua đó bảo vệ
quyền lợi cho các chủ nợ và những người có liên quan. Khi doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản, đối tượng phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất về tài sản
là chủ nợ. Trừ những chủ nợ có bảo đảm, quyền lợi của các chủ nợ cịn lại
khơng được bảo đảm, vì lúc đó tài sản nợ lớn hơn rất nhiều so với tài sản có
của DN, HTX. Điều này có thể dẫn đến hậu quả sẽ có DN lâm vào tình trạng
phá sản khi bạn hàng, đối tác của họ bị tuyên bố phá sản. Để bảo vệ tối đa
quyền lợi cho các chủ nợ và những người có liên quan, phục hồi DN, HTX
lâm vào tình trạng phá sản là giải pháp mà các chủ nợ luôn mong muốn. Bởi
lẽ, khi doanh nghiệp thốt khỏi khó khăn hiện tại và tiếp tục hoạt động kinh
doanh thì khả năng trả nợ cho các chủ nợ là rất lớn. Vì vậy, trong quá trình
xây dựng, thông qua phương án phục hồi DN, HTX, vai trò của các chủ nợ
là hết sức quan trọng.
3. Đối với Nhà nước và toàn xã hội.
Việc một DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản thực hiện thành cơng
phương án phục hồi và quay trở lại hoạt động bình thường cũng có ý nghĩa
to lớn đối với Nhà nước. Trước hết, DN, HTX sẽ tiếp tục tạo ra những sản
phẩm vật chất và tinh thần, đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế quốc dân
và nộp thuế vào cho Ngân sách. Đồng thời, nếu DN, HTX bị tuyên bố phá
sản sẽ kéo theo những DN, HTX là bạn hàng, đối tác chịu sự tác động nhất
định về tài chính. Đặc biệt là những DN hoạt động trong lĩnh vực tài chính,
ngân hàng. Đối với những DN này, việc phá sản của một DN có thể kéo theo

18



sự đổ vỡ của cả một hệ thống các DN hoạt động cùng loại, gây hậu quả rất
lớn cho nền kinh tế, xã hội.
Mặt khác, nếu DN, HTX bị tuyên bố phá sản, vấn đề đi liền với nó là
việc làm và tiền lương của người lao động. Trong điều kiện của thị trường
lao động hiện nay, khi mà cung lớn hơn cầu, thì giải quyết tình trạng thất
nghiệp khơng phải là một vấn đề dễ dàng.
Phục hồi thành công DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản sẽ góp
phần hạn chế những tác động tiêu cực nếu DN, HTX bị tuyên bố phá sản.
DN, HTX phục hồi thành công vẫn tiếp tục hoạt động kinh doanh và tạo ra
của cải vật chất, tinh thần cho xã hội, đảm bảo nguồn thu nhập và việc làm
cho người lao động. Đặc biệt, nếu giải quyết thỏa đáng mối quan hệ lợi ích
giữa chủ nợ và con nợ khi DN, HTX phục hồi, thủ tục phục hồi DN, HTX
lâm vào tình trạng phá sản sẽ góp phần hạn chế những mâu thuẫn, căng
thẳng có thể có giữa những chủ thể này với nhau, từ đó góp phần duy trì trật
tự, ổn định xã hội và lành mạnh hóa mơi trường kinh doanh cho các DN,
HTX.
KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường, việc phá sản DN, HTX là một trong những
hiện tượng mang tính quy luật của q trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải
nhằm loại bỏ những DN, HTX yếu kém, khẳng định sự tồn tại của những
DN, HTX làm ăn có hiệu quả. Pháp luật phá sản ra đời đã tạo ra khung pháp
lý tương đối đầy đủ để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình giải
quyết phá sản cho DN, HTX, trong đó có thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh. Việc phát huy vai trò của thủ tục này nói riêng và pháp luật phá sản
nói chung trong thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền kinh tế.

19


.


20



×