Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT VỐN VAY, TỶ SUẤT LỢI NHUẬN VỐN ĐẦU TƯ VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.56 KB, 24 trang )

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT VỐN
VAY, TỶ SUẤT LỢI NHUẬN VỐN ĐẦU TƯ VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU
TƯ Ở VIỆT NAM
1. Lãi suất. 1
1.1. Thực trạng lãi suất.
Giai đoạn từ tháng 8/2000 đến 2004
Tháng 8/2000 thay cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng tiền Việt Nam, và cơ chế
lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ.
TCTD ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ
bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không được vượt quá
mức lãi suất cơ bản cộng biên độ do Thống đốc NHNN quy định từng thời kỳ.
Từ tháng 1/2003 đến nay, lãi suất có xu hướng tiếp tục gia tăng, đặc biệt là
lãi suất tiền gửi (do hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ nói chung và chính
sách lãi suất nói riêng của NHNN). Lãi suất trên thị trường mở dao động
tương đối mạnh trong năm, lãi suất thấp nhất ở mức 1,58%/năm, cao nhất là
5% và có xu hướng giảm dần.
Năm 2004, tình hình Thế giới có nhiều biến động, giá thành nguyên vật
liệu tăng mạnh tạo ra chi phí đẩy làm cho giá cả tăng nhanh, lạm phát gia
tăng. Lãi suất tăng không theo kịp lạm phát, đồng tiền mất giá, làm cho lạm
phát càng gia tăng. Đến 6 tháng đầu năm 2005, chỉ số giá tăng so năm 2004
là 8.6%, như vậy đã làm cho lãi suất thực tế trong 2 năm này ở mức âm. Lạm
phát cao ở nhiều nước, Cục dự trữ liên bang Mỹ tăng lãi suất lên cao cũng
trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình lãi suất ở Việt Nam.
Tình hình lãi suất cho vay qua các năm 2001-2004
Năm Lãi suất cho
vay
(%/năm)
Lạm phát
(%/năm)
Lãi suất cho


vay thực tế
(%/năm)
Tỷ lệ
LSCVTT/TP
(%)
2001 9.0 8.0 8.2 1052.0
2002 9.2 4.0 5.2 130.0
2003 9.6 3.0 6.6 220.0
2004 10.0 9.5 0.5 5.2
Trước tình hình năm 2004-2005 có nhiều diễn biến, giá cả tăng, nhu cầu tín
dụng cho nền kinh tế cũng tăng, NHNN không tăng mức lãi suất, chủ trương
giữ ổn định cả lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, chính
sách được áp dụng để kìm chế lạm phát đó là mức dự trữ bắt buộc.
Giai đoạn từ 2004 đến 2009
_ Lãi suất thay đổi qua các tháng trong năm.
Theo dõi bảng dưới đây để thấy được thực trạng lãi suất Việt Nam từ năm
2004 đến nay.
Thực trạng lãi suất ở Việt Nam giai đoạn 2004 – 2009
Đơn vị: %/năm
Ngày áp dụng Lãi suất cơ bản
Lãi suất cho vay tối
đa
01.03.2004 7.5 11.25
01.02.2005 7.8 11.7
01.12.2005 8.25 12.375
01.01.2008 8.25 20.625
01.02.2008 8.75 20.625
01.05.2008 8.75 20.625
19.05.2008 12 18
01.07.2008 14 27

21.10.2008 13 20
05.11.2008 12 18
21.11.2008 11 16.5
22.12.2008 10 15
01.02.2009 8.5 12.75
10.04.2009 đến
nay
8 16
Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Qua bảng số liệu trên ta thấy lãi suất cơ bản năm 2004 và 2005 tương
đối ổn định trung bình là 7.6%/năm.Trong những tháng đầu năm 2006, lãi
suất tiền gửi tiết kiệm bằng VND của dân cư kỳ hạn 12 tháng lên tới 8,5% đối
với các ngân hàng thương mại và trên 9% ở các NHCP. Lãi suất tiền gửi tiết
kiệm bằng USD cũng tăng mạnh và đạt mức xấp xỉ 5%/năm.
Lãi suất năm 2007 không có biến động nhiều giữa các tháng trong năm.
Đầu năm 2008 VND khan hiếm, có thời điểm lãi suất cho vay ở các ngân
hàng đã lên tới 27%/năm. Sang tháng 5/2008, lãi suất cơ bản một lần nữa lại
được điều chỉnh lên tới 12% - 14%/năm, kéo theo đó là lãi suất tiền vay lên
đến 20% - 21%/năm. Việc này gây không ít khó khăn cho các cá nhân và các
doanh nghiệp đi vay.
Liên tục trong 2 tuần cuối tháng 8.2008, nhiều Ngân hàng đã điều chỉnh
hạ lãi suất kinh doanh (tiền gửi, cho vay) VND. Các NHTM liên tục bám đuổi
nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Chỉ trong có 1 tuần một số NHTM
điều chỉnh lãi suất tới 2 - 3 lần.
Ngân hàng Nhà nước liên tục điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp
vốn và lãi suất tái chiết khấu. Chỉ tính riêng lãi suất cơ bản, được điều chỉnh
tới 8 lần sau 26 tháng duy trì ở mức 8,25%/năm.
Năm 2009, lãi suất đã giảm nhiệt hơn so với 2008. Từ 1/12/2009 ngân
hàng nhà nước đã điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm,
lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ

5%/năm lên 6%/năm. Lãi suất giảm mạnh chỉ còn 7.56%/năm.
Giai đoạn từ năm 2009 đến nay.
Từ đầu năm 2010, lãi suất cho vay bằng VND liên tục tăng cao lên mức
16%-18%/năm, nên nhiều doanh nghiệp chuyển sang vay bằng Đôla do lãi
suất vay USD thấp hơn nhiều so với lãi suất vay VND trong khi rủi ro tỷ giá
hối đoái chưa hiện hữu. Cuối năm 2010, lãi suất huy động và cho vay VND
của các NHTM đã giảm dần với lãi suất huy động VND không vượt quá
14%/năm. Lãi suất cho vay bình quân 15,27%năm.
Kể từ đầu tháng 11/2010, lãi suất đồng Việt Nam liên tục biến động theo
chiều hướng gia tăng, cả lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay. NHNN
phải tăng lãi suất cơ bản từ 8% lên 9% sau khi đã cố định nó suốt từ tháng
12/2009 với kỳ vọng thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát.
Vào 6 tháng đầu năm 2011, theo quy định cảu NHNN, trần lãi suất huy động
VND được áp 14%/năm chính thức từ 3/32011 cho đến nay. Mặt bằng lãi suất
ở mức cao, chính điều này làm cho doanh nghiệp khó tiếp cận với nguồn vốn
vay ngân hàng. Tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm nay xác nhận mức lãi suất
huy động bình quân là 15,5%, tăng khoảng 3% so với cuối năm ngoái, nhưng
thực tế huy động và cho vay của các ngân hàng vẫn vượt qua con số trên.
1.2. Đánh giá thực trạng lãi suất.
Từ năm 2004, Nhà nước liên tục điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng, điều này
khiến các ngân hàng thương mại thi nhau tăng lãi suất cho vay. Nhưng đến
cuối tháng 7.2008, dù lãi suất vẫn là đề tài nóng bỏng nhưng có vẻ như được
hạ nhiệt. Trước thực trạng lạm phát tăng cao làm cho nền kinh tế Việt Nam
gặp rất nhiều khó khăn, Chính phủ Việt nam đã thực thi chính sách tiền tệ
thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên lãi suất không
ngừng tăng lên mà đỉnh cao là từ tháng 7 đến tháng 10 lãi suất luôn ở mức
14%/ năm. Sau đó nhằm tập chung nỗ lực để ngăn chặn suy giảm kinh tế,
duy trì tốc độ tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội. Trong đó, các biện
pháp quan trọng là thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu
dùng và thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt => lãi suất lại được

hạ xuống cuối năm 2008 và trong năm 2009 chỉ còn vào khoảng 7 hoặc
Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt
động của các NHTM đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ
và lãi suất trong những tháng đầu năm 2009 tương đối ổn định.
Tháng 3 năm 2010, sau hơn 1 tháng áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận
cho vay trung và dài hạn, lãi suất ngân hàng đang tăng cao có nơi lên tới 18 -
20% chấp nhận của nhiều doanh nghiệp. Các chuyên gia tính toán, doanh
nghiệp phải có tỷ suất lợi nhuận khoảng 25% mới bù đắp được chi phí vốn
cao như vậy.
hoặc 8% hơn nữa vào năm 2009 chính phủ thực hiện gói kích cầu và đã hỗ
trợ lãi suất vốn vay 4% để thúc đẩy đầu tư.
2. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư.
2.1 Thực trạng tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư:
2.1.1 Tỷ suất lợi nhuận giữa các khu vực và thành phần kinh tế còn có
sự chênh lệch:
Nếu so sánh giữa các khu vực của nền kinh tế thì khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài luôn có mức tỷ suất lợi nhuận dẫn đầu bỏ xa các khu vực
khác, những năm gần đây khu vực này đều có mức tỷ suất lợi nhuận đều trên
10.
Trong khi đó các khu vực kinh tế Nhà nước và các thành phần kinh tế có
sự góp mặt của Nhà nước lại tỏ ra hoạt động không mấy hiệu quả. Như
trường hợp các doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh Quảng Ngãi quản lý trong
năm 2006 đạt lợi nhuận là 8597 tỷ đồng, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu chỉ là 0,56%.
Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn so với
các doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nước ngoài cùng lĩnh vực, Khi
chia theo các ngành sản xuất kinh doanh chính dễ dàng nhận thấy tỷ suất lợi
nhuận còn rất thấp ở một số hoạt động như: hoạt động văn hóa thể thao,
nông nghiệp và lâm nghiệp, hoạt động khoa học và công nghê. Trong khi
ngành công nghiệp khai thác mỏ lại có tỷ suất lợi nhuận rất cao (tới trên

40%, theo số liệu của tập đoàn than khoáng sản Việt Nam, tỷ suất lợi nhuận
năm 2007 đạt 40,3%) hay hoạt động vận tải kho bãi và thông tin liên lạc
cũng có mức tỷ suất lợi nhuận tương đối đều khoảng trên dưới 10% như:
CTCP Container Việt Nam đạt 8,1 % năm 2007, CTCP hàng hải Đông Đô đạt
9,4% năm 2007
Bảng 2: Điều tra tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành, các khu vực ở
Việt Nam giai đoạn 2000 - 2003
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh(%)
TỔNG SỐ
2000 2001 2002 2003
3.739 3.777 4.320 4.535
Chia theo khu vực và thành phần kinh tế
1. Khu vực doanh nghiệp nhà
nước
2.35
1
2.453 2.900
2.76
8
+ DN nhà nước Trung ương 2.271 2.397 2.756 2.595
+ DN nhà nước Địa phương 2.873 2.816 3.696 3.81
2. Khu vực doanh nghiệp ngoài
nhà nước
1.79
8
2.277 2.311
2.14
6
+ DN Tập thể 3.888 3.207 3.725 2.205
+ DN Tư nhân 4.262 3.302 3.330 2.766

+ Công ty Hợp doanh 1.291 -2.314 5.843 0.27
+ Công ty Trách nhiệm hữu hạn tư
nhân
0.432 1.202 1.242 1.536
+ CT cổ phần có vốn Nhà nước 4.721 4.803 4.529 3.53
+ CT cổ phần không có vốn Nhà nước 0.748 1.213 1.854 1.79
3. Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài
8.97
1
8.740 9.991
+ 100 % vốn nước ngoài -0.200 -0.250 1.828
+ DN liên doanh với nước ngoài
14.36
7
15.24
9
17.24
5
Chia theo ngành SXKD chính
Nông nghiệp và Lâm nghiệp 0.890 -0.254 2.483
Thuỷ sản 6.730 5.404 6.628
Công nghiệp khai thác mỏ
45.73
7
46.97
3
44.01
6
Công nghiệp chế biến 2.752 3.252 4.034

Sản xuất & phân phối điện, khí đốt và
nước
1.781 2.762 3.039
Xây dựng 1.720 2.055 1.626
Thương nghiệp, sửa chữa xe có động
cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng gia đình
0.221 -0.007 0.394
Khách sạn và nhà hàng. -3.396 -2.062 0.359
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc.
10.32
9
11.53
5
12.98
2
Tài chính, tín dụng. 1.054 0.885 1.109
Hoạt động khoa học và công nghệ. 2.559 -0.114 1.507
Các hoạt động liên quan đến kinh
doanh đến tài sản, dịch vụ tư vấn
1.459 2.679 2.213
Giáo dục và đào tạo. 5.121
15.34
2
6.296
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội.
11.69
9
13.14
4
1.789

Hoạt động văn hoá và thể thao. -0.947 -1.550 0.613
Nguồn: Điều tra toàn bộ doanh nghiệp 2000-2002 – nguồn Tổng cục thống kê
2.1.2 Tỷ suất lợi nhuận giữa ngành kinh tế, các hoạt động sản xuất kinh
doanh còn có sự chênh lệch:
Theo số liệu ước tính thì năm 2006, tỷ suất lợi nhuận của một số ngành
trung bình như sau: điện lực 29%, dầu khí 16%, dược phẩm 40%, cao su
33%, thực phẩm 17%.
Trường hợp các ngành xây dựng, tài chính tín dụng , các hoạt động kinh
doanh tài sản dịch vụ tư vấn nếu căn cứ theo bảng số liệu dưới đây thì mức tỷ
suất lợi nhuận của các ngành này còn thấp.
Bảng 3: Tỷ suất lợi nhuận ngành xây dựng tài chính ngân hàng ở Việt
Nam giai đoạn 2000 -2002
(ĐVT: %)
Năm
2000 2001 2002
TSLN
trên vốn
kinh
doanh
(%)
TSLN
trên
doanh
thu
(%)
TSLN
trên vốn
kinh
doanh
(%)

TSLN
trên
doanh
thu
(%)
TSLN
trên
vốn
kinh
doanh
(%)
TSLN
trên
doanh
thu (%)
Hoạt
động tài
chính tín
dụng
1.054 9.352 0.885 8.307 1.109 9.551
Hoạt
động kinh
doanh tài
sản,dịch
vụ tư vấn
1.459 6.809 2.679 12.475 8.307 8.409
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tuy nhiên vài năm gần đây tỷ suất lợi nhuận của ngành tài chính ngân
hàng lại khá cao đáng phải kể đến như:
- Ngân hàng GP bank có tỷ suất lợi nhuận 19.44% năm 2007

- Ngân hàng thương mại cổ phần Á châu đạt 8.1% năm 2007
2.1.3. Tỷ suất lợi nhuận giữa các doanh nghiệp trong cùng 1 ngành cũng
không đồng đều.
Tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh
chứng khoán năm 2006
(ĐVT: %)
Doanh nghiệp Tỷ suất lợi nhuận năm 2006
CTCP chứng khoán Hải Phòng 11.04%
CTCP chứng khoán Bảo Việt 14.3%
CTCP chứng khoán Kim Long 5.8%
Nguồn: www.vietstock.com.vn
Qua bảng trên ta thấy cùng trong ngành kinh doanh chứng khoán tại Việt
Nam nhưng tỷ suất lợi nhuận trong các ngành này cũng không giống nhau.
2.1.4 Tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành ở các nước, các khu vực khác
nhau trên thế giới cũng có sự chênh lệch:
Gần đây một số doanh nghiệp, tập đoàn của Việt Nam tiến hành đầu tư
ra nước ngoài như Lào, Đông Âu, một số nước châu Phi ( trong đó chủ yếu là
Lào- chiếm tới 50% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam) không chỉ
dựa trên tinh thần hợp tác, mang tính chính trị mà ẩn chứa sau đó chính là tỷ
suất lợi nhuận kỳ vọng thu được sẽ cao hơn trong nước.
2.1.5 Hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp:
Mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhìn chung
đều có mức tăng trưởng khá mạnh. Chỉ xét năm 2006 tổng doanh thu thuần
đạt 2.553.086 tỷ đồng tăng 27,03% so với năm năm 2005, bình quân giai
đoạn 2002 - 2006 tăng 28,72%/năm. Trong các ngành sản xuất - kinh doanh
chính, công nghiệp tăng bình quân 31,26%, xây dựng: 29,51%, thương
nghiệp 24,23%, vận tải 31,76%, khách sạn - nhà hàng 26,26%, các dịch vụ
khác 39,96%.
Tuy nhiên, đi sâu vào phân tích cho thấy, hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp vẫn còn đạt thấp. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn bình quân

năm 2006 đạt 4,42 %, so với mức 4,85 % năm 2005. Thậm chí, một số
doanh nghiệp nhà nước còn có tỷ suất lợi nhuận âm.
2.2 Đánh giá tỷ suất lợi nhuận thông qua hệ số ICOR
Đánh giá tỷ suất lợi nhụân thông qua hệ số ICOR của Việt Nam giai
đoạn 2000 – 2009.
Năm 200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
200
5
200
6
200
7
200
8
200
9
ICOR 4.8 4.89 5.01 5.08 4.91 4.68 4.88 4.9 6.66 8.0
GDP/VĐ
T
3.01 2.82 2.68 2.65 2.59 2.61 2.47 2.41 2.32 2.28
Nhìn vào bảng trên ta thấy, ICOR tăng nhanh đồng nghĩa với hiệu quả

đầu tư bị giảm sút đang xảy ra với vốn đầu tư toàn xã hội. ICOR tăng là một
xu hướng tất yếu do sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên ICOR tăng
nhanh lại luôn là không bình thường và đáng lo ngại trong quá trình phát
triển của mọi nền kinh tế. Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam luôn ở mức cao
so với các nước trong khu vực. Tính trung bình từ năm 2007 đến 2008 tỷ lệ
đầu tư/GDP của Việt Nam là 39.7%. Năm 2008, tỷ lệ đầu tư/GDP lên đến
43.1%, còn theo ước tính sơ bộ đến hết tháng 8 năm 2009 tỷ lệ này là
43,9%. Dù đầu tư cao như vậy nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ từ 6 - 8.5%, và
dự kiến, năm 2009, mức tăng trưởng cao của Việt Nam cũng chỉ dừng ở
5,2%, do đó, hệ số ICOR luôn ở mức cao.
ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế càng
thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài là tiền đề gây nên lạm phát, khủng
hoảng và suy thoái kinh tế.
Hệ số ICOR của nước ta trong các năm 2001-2007 là 5,2 nghĩa là cần 5,2
đồng vốn đầu tư để tăng được một đồng GDP, cao gấp rưỡi đến gấp hai
nhiều nước xung quanh trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Các nước làm
giỏi, ICOR của họ thời kỳ đầu CNH là trên dưới 3.
Tăng trưởng GDP và ICOR một số nước Đông Á
Quốc gia Giai đoạn GDP (%)
Đầu
tư/GDP
ICOR
Hàn Quốc
1961 -
1960
7,9% 23,3 3,0
Đài Loan
1961 -
1980
9,7% 26,2 2,7

Indonesia
1981 -
1995
6,9% 25,7 3,7
Thái Lan
1981 -
1995
8,1% 33,3 4,1
Trung Quốc
2001 -
2006
9,7% 38,8 4,0
Việt Nam
2001 -
2006
7,6% 39,1 5,1
Nguồn World Bank
Chỉ số ICOR năm 2009 của Việt Nam lên đến 8 - mức cao nhất từ trước đến
nay (ICOR năm 2008 ở mức 6,66). Điều này đồng nghĩa với hiệu suất đầu tư
của Việt Nam đã giảm hẳn 20%
=> Khi ICOR tăng nhẹ thì tỷ suất lợi nhuận giảm nhẹ và ngược lại.
3. Qui mô vốn đầu tư.
3.1 Thực trạng qui mô vốn đầu tư ở Việt Nam hiện nay :
Vốn đầu tư ở Việt Nam phân chia theo các thành phần kinh tế:
Cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế giai đoạn 2000 – 2009
Đầu tư phát triển phân theo thành phần kinh tế bao gồm 3 khu vực là
khu vực kinh tế nhà nước (KTNN), kinh tế ngoài ngoài quốc doanh và khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài
Đầu tư của khu vực KTNN luôn chiếm tỷ trọng cao trên dưới 50% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội.

Tỷ trọng đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh tăng mạnh từ năm 2002 đã
vượt mức 1/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Từ năm 2005 – 2008, tỷ trọng đầu tư của khu vực ngoài nhà nước và
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không ngừng tăng lên. Năm 2008 vốn đầu
tư toàn xã hội thực hiện theo giá thực tế ước tính đạt 637,3 nghìn tỷ đồng trong
đó vốn khu vực Nhà nước 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng vốn và giảm
11,4%; khu vực ngoài Nhà nước 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3% và tăng
42,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 189,9 nghìn tỷ đồng, chiếm
29,8% và tăng 46,9%. Trong năm 2009 do ảnh hưởng của cuộc suy thoái mà tỷ
trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm 5.8% so với
năm 2008 181,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,7%.
Trong năm 2009 Chính phủ đã tập trung thực hiện các gói kích cầu đầu
tư và tiêu dùng; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án,
công trình trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế vì vậy tỷ trọng khu vực đầu tư nhà nước tăng lên 245 nghìn tỷ
chiếm 34,8% tổng vốn và tăng 40,5% so với năm 2008. Khu vực ngoài Nhà
nước đạt 278 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,5% và tăng 13,9% so với 2008.
Vốn đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI )
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI không ngừng tăng qua các năm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép giai đoạn 2003 - 2009
(ĐVT: triệu USD)
Năm Vốn đăng kí Vốn thực hiện
2003 3191,2 2650,0
2004 4547,6 2852,5
2005 6839,8 3308,8
2006 12004,0 4100,1
2007 21347,8 8030,0
2008 71726 11500
2009 21482 10000

Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt
20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày
28/8/2001 của Chính phủ, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với
mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001 - 2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng
đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%),
nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ.
Đặc biệt trong 2 năm 2006 - 2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng
đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư
chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Năm 2006, cả nước thu hút
được 12004,0 triệu USD vốn FDI, tăng hơn 45% so với năm 2005, vượt kế
hoạch đầu năm đề ra (6500 triệu USD). Song song với vốn cấp mới, vốn FDI
thực hiện khoảng 4100,1 triệu USD tăng 24,2% so với các năm trước. Năm
2007, vốn FDI tiếp tục tăng khá. Năm 2007, tổng vốn dự án cấp phép mới và
vốn đăng kí thêm của các dự án đang hoạt động ước đạt 21.347,8 triệu USD,
tăng 69,1 % so với năm 2006; trong đó vốn cấp phép mới là 17,650 triệu
USD với 1406 dự án so với năm trước. Vốn thực hiện ước đạt 4600 triệu USD,
tăng 13,6 % so với năm 2006.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 7 tháng đầu năm 2008 ước đạt 6 tỷ USD
tăng 42,9 % so với cùng kì năm 2007. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
cấp mới và tăng thêm trong 7 tháng đầu năm 2008 đạt 45,2 tỷ USD, tăng 373
% so với cùng kì năm 2007; trong đó vốn dự án cấp mới đạt 44,497 triệu
USD, tăng 446,4 % so với cùng kì năm 2007.
Năm 2009, vốn đăng kí chỉ bằng 30% năm 2008. FDI chủ yếu tập trung
vào các ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm tỉ lệ 40,9% FDI.
Đầu 2010, nhiều tập đoàn, nhà đầu tư nước ngoài có dự án ở Việt Nam
đang có xu hướng trở lại thực hiện dự án sau 1 thời gian dài tạm ngưng do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm cho giải ngân vốn
FDI tháng 1 đạt khoảng 400 triệu đô la Mỹ, trong khi vốn đăng kí mới và tăng
thêm chỉ đạt 318 triệu đô la Mỹ. Bước qua 2 tháng, đã có thêm 700 triệu đô

la Mỹ vốn FDI được đưa vào thực hiện, nâng tổng vốn FDI giải ngân trong 2
tháng đầu năm nay lên 1,1 tỷ đô la Mỹ, tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái.
• Thu hút vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA:
Tổng mức ODA trong giai đoạn 2003 -2005 đạt 10027,1. Số vốn ODA
cam kết nói trên bao gồm viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 15 - 20%,
phần còn lại là vốn vay ưu đãi. Số vốn ODA cam kết này được sử dụng trong
nhiều năm, tuỳ thuộc vào thời hạn của các chương trình và dự án cụ thể.
Kết quả thu hút vốn ODA dành cho Việt Nam năm 2006 đạt 4,45 tỷ USD,
vượt cả mức kỳ vọng của Chính phủ Việt Nam là 4 tỷ USD và vượt xa mức
cam kết 2005 tới 700 triệu USD.
Năm 2007, thu hút ODA có chuyển hướng tích cực. Tại Hội nghị CG tổ
chức vào đầu tháng 12/2007 tại Hà Nội, các nhà tài trợ đã cam kết tiếp tục hỗ
trợ Việt Nam 5400 tỷ USD, cao hơn năm 2006. Giải ngân ODA cả năm 2007
ước đạt 1,932 triệu USD, tăng 2 % so với kế hoạch, trong đó vốn vay đạt
1,675 triệu USD, viện trợ 257 triệu USD
Tính đến 20/7/2008 đạt 1,389 triệu USD (trong đó vốn vay đạt 1.277
triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại đạt 112 triệu USD). Trong 7 tháng này,
mức giải ngân nguồn vốn ODA ước đạt 1,205 triệu USD, bằng 63% kế hoạch
giải ngân năm 2008.
Năm 2009, cam kết ODA lần đầu tiên vượt ngưỡng 8 tỷ, đây là mức cam
kết kỷ lục từ trước đến nay, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế thế giới đang
gặp khó khăn, việc tiếp cận các nguồn vốn vay bị hạn chế.
3.2 Đánh giá qui mô đầu tư hiện nay:
3.2.1 Thành tựu:
Kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài không ngừng tăng qua các năm
thể hiện sự tin tưởng của nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư nước ta hiện
nay mặc dù môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta đang phải đối mặt với
nhiều thách thức như lạm phát tăng cao, giá cả biến động dẫn tới chi phí tăng
đôt biến ảnh hưởng lớn tới hoạt động ĐTNN.
Việt Nam được đánh giá cao về triển vọng thu hút vốn đầu tư cả trung và

dài hạn. Về trung hạn, có 92,6% doanh nghiệp sản xuất và 88% doanh
nghiệp dịch vụ dự định mở rộng kinh doanh tại Việt Nam trong vòng 1-2 năm
tới. Về dài hạn, trong vòng 10 năm tới, Việt Nam được các nhà đầu tư Nhật
Bản đánh giá là địa điểm sản xuất tốt nhất ở Châu Á.
Nguyên nhân có được thành tựu trên là do:
- Chính phủ nỗ lực để tạo môi trường đầu tư – kinh doanh hấp dẫn hơn,
cởi mở và minh bạch, thông thoáng hơn. Các Bộ, ngành và địa phương đang
thực hiện các giải pháp chỉ đạo hữu hiệu của Thủ tướng Chính Phủ về kìm chế
lạm phát, ổn định vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững
bằng nhiều biện pháp.
- Các nhà đầu tư đã thể hiện sự tin tưởng các khó khăn của Việt Nam
hiện tại là nhất thời và sẽ nhanh chóng được Chính phủ giải quyết trong thời
gian tới.
3.2.2 Hạn chế:
- Nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với các khó khăn trong thời gian gần
đây như lạm phát cao, thâm hụt ngân sách gia tăng, thâm hụt thương mại
lớn… Tình hình trên khiến Standard & Poor đánh giá hệ số tín nhiệm của Việt
Nam đang chuyển từ “ổn định” sang “tiêu cực” (nghĩa là có khả năng giảm)
trong trung hạn,cho thấy cộng đồng quốc tế bắt đầu lo lắng về khả năng “hạ
nhiệt“ của nền kinh tế quá nóng trong thời gian vừa qua.
- Theo Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF) ngày18-6-2008, hiện nay, Việt
Nam xếp hạng 91/118 nền kinh tế có “môi trường thân thiện” với thương mại
quốc tế. Còn chỉ số hàng rào thuế quan đứng ở vị trí 11a4/118. Tuy nhiên, có
môt số chỉ số xếp hạng khả quan như hiệu quả trong dịch vụ bưu điện hạng
(33), khả năng tiếp nhận khoa học công nghệ hạng (43), an ninh vật chất
(45), chỉ số về an ninh (46), dịch vụ vận tải (48).
- Các thông tin phục vụ công tác quản lý, điều hành, phân tích, và dự
báo các biến động, các xu thế đầu tư vào Việt Nam vừa thiếu, vừa không đáp
ứng kịp được yêu cầu khiến công tác chỉ đạo, điều hành cũng bị động, thiếu
chuẩn xác.

- Ngược lại với thành tích “gọi tiền” - thu hút vốn đầu tư, khả năng “tiêu
tiền” - hấp thụ vốn của môi trường đầu tư đã không theo kịp tốc độ phát
triển. Mặc dù vốn thực hiện vẫn tăng về giá trị tuyệt đối, nhưng tỷ lệ giải
ngân chưa cao điển hình như năm 2007- năm kỉ lục về thu hút FDI, vốn FDI
kéo về 20,3 tỷ USD nhưng vốn thực hiện lại rất khiêm tốn chỉ 4,5 tỷ USD.
III. Thực trạng mối quan hệ giữa lãi suất tiền vay, tỷ suất lợi nhuận
vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư ở Việt Nam:
1. Mối quan hệ giữa lãi suất và qui mô đầu tư
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác
động làm thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện
lý thuyết cũng như thực tiễn đã chứng minh sự thay đổi của lãi suất sẽ tác
động đến giá cả, quy mô vốn đầu tư và sản lượng.
Lãi suất và đầu tư có quan hệ tỷ lệ nghịch, khi lãi suất tăng thì chi phí
đầu tăng, quy mô vốn đầu tư sẽ giảm. Và ngược lại khi lãi suất giảm thì quy
mô vốn đầu tư sẽ tăng.
Lộ trình tự do hóa lãi suất và thực hiện chính sách lãi suất huy động
vốn của Viêt Nam chia thành nhiều giai đoạn ,mỗi sự thay đổi của chính sách
lãi suất đều dẫn tới sự thay đổi của quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế.
Bắt đầu từ tháng 8/2000 trần lãi suất bắt đầu bị phá bỏ thay thế
trần lãi suất bằng một cơ chế mới trong đó lãi suất cho vay ngoại tệ của ngân
hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố
.Từ lúc này các ngân hàng bắt đầu ấn định mức lãi suất trên cơ sở thỏa thuận
với khách hàng.Chính sách này có nhiều tích cực nhưng đối tượng nông dân
và doanh nghiệp các vùng nông thôn khó tiếp cận được với những khoản vốn
vay của ngân hàng bởi việc cho các vùng nông thôn đòi hỏi chi phí cao trong
khi các tổ chức tín dụng lại bị khống chế bởi trần lãi suất cho vay => các
doanh nghiệp các hộ nông dân phải đi vay với lãi suất gấp 4 lần lãi suất ngân
hàng => quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế chưa thực sự được mở rộng.
Đến tháng 6/2002 lãi suất được tự do hóa hoàn toàn trên cơ sở các
ngân hàng tự thẩm định và thương lượng với khách hàng. Với việc chính thức

tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố chỉ có
tính chất tham khảo. Lãi suất tiền gửi tiếp tục gia tăng đồng thời lãi suất cho
vay của các ngân hàng đã ngay lập tức nhích lên. Các ngân hàng thương mại
tùy vào mức độ rủi ro của các dự án vay vốn mà ấn định các mức lãi suất
khác nhau. Các đối tượng vay như hộ gia đình, nông dân hay các doanh
nghiệp nhỏ không còn bị loại ra khỏi cuộc chơi như trước đây. Trong nền kinh
tế nhiều đối tượng hơn được tiếp cận với quy mô vốn của các ngân hàng, do đó
quy mô vốn vay của nền kinh tế được mở rộng:
Tác động của lãi suất cơ bản tới đầu tư giai đoạn 2000 – 2009:
Năm 200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
200
5
200
6
200
7
200
8
200
9
LSCB 7.2 8.0 7.2 7.5 7.5 7.8 8.25 8.32 14 8

VĐT/GD
P
34.2 35.4 37.2 37.8 38.6 40 41 44 43.1 43.9
Qua bảng trên ta nhận thấy một xu hướng là khi lãi suất cơ bản giảm,
tỷ trọng VĐT/GDP sẽ tăng .Năm 2002 lãi suất cơ bản giảm 0.8% so với 2001
đây là một nguyên nhân kích thích tăng tỷ lệ đầu tư từ 35.4% năm 2001 đến
37.2% năm 2002. Quy mô thu nhập hay những chính sách kinh tế vĩ mô của
nhà nước cũng có tác dụng kích thích cầu đầu tư.
Lạm phát năm 2003 là 3%, theo các nhà kinh tế thì với mức lãi suất như vậy
nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng thiểu phát. Từ năm 1999 -2003
bình quân tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6.54% ,CPI là 1.44% .CPI/GDP=0.22
lần ,lạm phát thấp đến mức thiểu phát tăng trưởng kinh tế ở mức độ
thấp.Nhưng tăng trưởng GDP vẫn đạt 7.24% cao nhất từ năm 1996 là do
nhà nứơc đã kích cầu tiêu dùng đúng hướng, chính sách hạ lãi suất từ năm
2002 đã phát huy tác dụng ở giai đoạn này.
Từ giữa năm 2004 đến nay cùng xu thế tăng lãi suất của các nền kinh
tế lớn trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và xu thế kiềm chế lạm phát, lãi suất của
các ngân hàng trong nước không ngừng tăng. Từ năm 2005 đến 2006 ngân
hàng nhà nước đã 3 lần tăng một số lãi suất chủ đạo là lãi súât tái cấp vốn và
lãi suất tái chiết khấu, 2 lần tăng lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam. Theo số
liệu của ngân hàng nhà nước, trong năm 2005, lãi suất huy động VNĐ tăng
0.6-1.2%/năm, lãi suất cho vay VNĐ tăng 0.6 % /năm, lãi suất huy động
bằng USD tăng 1.2-2.5%/năm và lãi suất cho vay bằng USD tăng 0.7-
1.5%/năm so với cuối năm 2004. Trong những tháng cuối năm 2006 lãi suất
lãi suất tiền gửi bằng VNĐ của dân cư kỳ hạn 12 tháng lên tới 8.25% đối với
NHTM và 8.7% đối với NHCP, lãi suất tiền gửi bằmg USD tăng mạnh và đạt
mức xấp xỉ 5% /năm.
Lãi suất năm 2007 chính thức khởi tranh giữa các ngân hàng. Mở đầu
năm kinh doanh mới, nhiều ngân hàng cổ phần lần lượt điều chỉnh lãi suất
huy động, tạo nên một áp lực cạnh tranh mới với những sắc thái mới. Lãi suất

thi nhau “phá rào”, Nhiều ngân hàng thương mại đã “phá rào” lãi suất thỏa
thuận, bỏ qua nỗ lực “dàn xếp” của các bên thời gian qua. Sau đó với lỗ lực
ổn định lãi suất của các ngân hàng, vào tháng 8 lãi suất cơ bản VND tiếp tục
ở mức 8,25%/năm. Ngày 31/7, Ngân hàng Nhà nước thông báo lãi suất cơ
bản bằng đồng Việt Nam đựơc áp dụng từ ngày 1/8 tiếp tục duy trì ở mức
8,25%/năm. Lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức
tín dụng là 6,5%/năm và lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm. Tình trạng lãi suất
ngân hàng liên tiếp tăng cao trong các tháng cuối năm đã khiến các doanh
nghiêp và các nhà đầu tư co cụm sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn này
nền kinh tế đang phát triển theo chiều rộng, nên lợi nhuận /vốn của doanh
nghiêp không cao do đó khi lãi suất tăng thì chi phí đầu vào doanh nghiệp
cũng tăng cao ,giá thành sản phẩm ngày càng cao trong khi việc tăng giá bán
trong bối cảnh lạm phát cao là rất khó khăn. Do vậy điều tất yếu là các doanh
nghiệp không muốn mở rộng sản xuất kinh doanh.

Đầu năm 2008, lãi suất ngân hàng lại tiếp tục cuộc đua mới. Việc
chạy đua tăng lãi suất huy động vốn nội tệ (VND) diễn ra từ tháng 1 đến đầu
tháng 2-2008, lan rộng ở hầu hết các ngân hàng thương mại (NHTM). Ở thời
điểm này,lãi suất kỳ hạn 12 tháng của hầu hết các ngân hàng đều đã lên mức
9,6%/năm; một số trường hợp đã vọt tới 10,5%. Trước tình trạng này hầu
hết các doanh nghiệp đều lâm vào khó khăn trong việc huy động vốn để tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày 19/5/2008 mức lãi suất cơ bản
đạt mức 12%/năm và tiếp tục tăng mạnh trong các tháng tới ngày 1/7/2008
đạt mức kỷ lục 14%/năm, ngày 21/10/2008 đạt mức 13%/năm sau đó lãi
suất cơ bản mới bắt đầu hạ nhiệt dần dần. Kéo theo đó là lãi suất tiền vay lên
đến 20% - 21%/năm. Việc này gây không ít khó khăn cho các cá nhân và các
doanh nghiệp đi vay. Và cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân
hàng.Khi LS huy động vốn tăng cao, cộng với chi phí cao do tỷ lệ dự trữ bắt
buộc tăng mạnh, chi phí bù lỗ cho việc mua tín phiếu NHNN, trong khi đó lãi
suất cho vay lại tăng chậm hơn lãi suất huy động vốn. Cộng thêm tốc độ tăng

trưởng dư nợ tăng chậm hơn tốc độ huy động vốn, làm cho lợi nhuận của các
NHTM giảm đi, điều đó đã ảnh hưởng tới năng lực tài chính và khả năng cạnh
tranh của các NHTM trong nước với các ngân hàng nước ngoài trong điều kiện
hội nhập kinh tế. Ngoài ra, Qui mô vốn lớn cũng dễ dàng đưa tới hiệu suất sử
dụng trên từng đồng vốn thấp. Khi này, mục tiêu tăng vốn để củng cố năng
lực cạnh tranh không đạt Bên cạnh đó,việc các doanh nghiệp sẽ không vay
vốn nhiều từ ngân hàng như trước và có thể gây ra hiện tượng thừa vốn
ở các ngân hàng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các ngân
hàng.
Đến năm 2009 nhìn chung nền kinh tế đang dần đi vào phục hồi
lãi suất cũng duy trì tương đối ổn định các tháng đầu năm trung bình ở
mức 7%/năm điều này đã lấy lại lòng tin từ các nhà đầu tư khuyến khích
các doanh nghiệp vay vốn trở lại hoạt động kinh doanh, từ đó dần khôi
phục nền kinh tế nước nhà.
Mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận và qui mô vốn đầu tư
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
ICOR 4.8 4.89 5.01 5.08 4.91 4.68 4.88 4.9 6.66 8.0
VĐT\GDP 34.2 35.4 37.2 37.8 38.6 40.0 41.0 44 43.1 43.9
TĐTTKT(
%)
6.75 6.89 7.08 7.26 7.7 8.4 8.17 8.48 6.23 5.32
Hệ số ICOR phản ánh giá trị sử dụng vốn hay tỷ suất lợi nhuận. Ta thấy
rằng từ năm 2000 đến năm 2007 thì hệ số ICOR có xu hướng giảm, tỷ suất lợi
nhuận vốn đầu tư tăng dần kích thích các nhà đầu tư mở rộng quy mô. Tỷ
trọng vốn đầu tư trên GDP tăng qua các năm. Tuy nhiên từ năm 2008 đến
năm 2009 thì hệ số ICOR tăng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền
kinh tế thấp. Ngoài ra việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn
nhiều lãng phí. Trong năm 2009 để thực hiện gói kích cầu nhà nước đã hỗ trợ
về lãi suất cho các doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp đã vay vốn tràn
lan và sử dụng nó không hiệu quả. Theo các nhà đầu tư nước ngoài việc đầu

tư vào Việt Nam thất thoát rất nhiều vốn do công tác của ta còn nhiều yếu
kém.
3. Thực trạng mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay và tỷ suất lợi nhuận:
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
ICOR 4.8 4.89 5.01 5.08 4.91 4.68 4.88 4.9 6.66 8
LSCB 7.2 8.0 7.2 7.5 7.5 7.8 8.25 8.32 14 8
Lãi suất vốn vay ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh
nghiệp khi lãi suất vốn vay cao sẽ làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp
giảm.

Việc lãi suất tăng cao trong năm 2008 đã khiến không ít các doanh
nghiệp bị thua lỗ hoặc lợi nhuận giảm sút so với năm trước.
4. Thực trạng mối quan hệ của lãi suất, tỷ suất lợi nhuận và quy mô
vốn đầu tư ở Việt Nam:
Bảng 9. Bảng tập hợp số liệu giai đoạn 2000-2009
Năm
Lãi suất cơ
bản(%/năm)
Tốc độ tăng vốn đầu

Hệ số ICOR
2000 7.2 _ 4.9
2001 8.0 12.8 5.0
2002 7.2 16.8 5.25
2003 7.5 16.3 5.22
2004 7.5 18.7 4.95
2005 7.8 17.9 4.54
2006 8.25 17.9 4.88
2007 8.25 28.9 4.9
2008 14 22.16 6.66

2009 8 15.3 8
Thực trạng mối quan hệ giữa LS, TSLN và quy mô vốn đầu tư ở VN
Theo số liệu hai năm 2003 - 2004, ta có thể thấy, hệ số ICOR giảm từ
5.22 xuống 4.95, phản ánh hiệu quả sử dụng biên của vốn tăng lên. Khi hiệu
quả sử dụng biên của vốn tăng, tốc độ tăng vốn đầu tư tăng từ mức 16.3%
năm 2003 lên 18.7% vào năm 2004, phản ánh tăng trưởng của quy mô vốn
đầu tư, tức là I tăng. Ta xét tác động của việc tăng tỷ suất lợi nhuận và quy
mô vốn đầu tư tới lãi suất cho vay, đây là tác động có độ trễ về thời gian,
điều đó được thể hiện bằng sự tăng lãi suất cơ bản từ mức 7.5% vào năm
2003 và 2004 lên mức 7.8% vào năm 2005. Tuy nhiên trong ba năm 2005,
2006 và 2007, khi mà chỉ số ICOR có xu hướng tăng, phản ánh hiệu quả sử
dụng biên của vốn giảm đi, trong khi đó, quy mô vốn đầu tư lại tăng, thậm
chí tăng rất mạnh từ mức tăng vốn đầu tư năm 2006 chỉ là 17.9% lên 28.9%
vào năm 2007.
Sự tăng trưởng mạnh của quy mô vốn đầu tư hay cầu đầu tư tăng mạnh,
đã tác động tới lãi suất, lãi suất cơ bản đã tăng từ mức 7.8% năm 2005 lên
8.3% năm 2007 và vào đầu năm 2008, lãi suất cơ bản đã đạt mức 14%. Có
thể thấy năm 2008 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nền
kinh tế Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Chính phủ Việt Nam đã thực thi
chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
nên lãi suất không ngừng tăng lên mà đỉnh cao là từ tháng 7 đến tháng 10 lãi
suất luôn ở mức 14%/ năm. Sau đó nhằm tập chung nỗ lực để ngăn chặn suy
giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội. Trong đó,
các biện pháp quan trọng là thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu, kích cầu đầu tư
và tiêu dùng và thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt nên lãi suất lại
được hạ xuống cuối năm 2008 và trong năm 2009 chỉ còn vào khoảng 7 hoặc
8% hơn nữa vào năm 2009 chính phủ thực hiện gói kích cầu và đã hỗ trợ lãi
suất vốn vay 4% để thúc đẩy đầu tư. Như ta thấy khi lãi suất tăng cao thì các
doanh nghiệp cảm thấy chi phí bỏ ra cho đầu tư lớn họ không muốn đầu tư
hoặc cắt giảm đầu tư. Nhưng khi chính phủ hạ lãi suất xuống các doanh

nghiệp lại tập chung vay vốn và đầu tư. Tuy nhiên có thể nói việc sử dụng
vốn chưa hiệu quả hay lợi nhuận vốn đầu tư chưa cao do chỉ số ICOR của Việt
Nam không ngừng tăng lên 6.66 năm 2008 và 8 năm 2009.

×