Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

LUẬN VĂN: Đặc điểm, thưc trạng và giải pháp cho Doanh nghiệp Nhà nước docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.58 KB, 16 trang )











LUẬN VĂN:
Đặc điểm, thưc trạng và giải pháp
cho Doanh nghiệp Nhà nước









Lời nói đầu

Trọng tâm của công việc đổi mới kinh tế do Đảng ta đề ra và tổ chức thực
hiện là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tậo trung sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới thì
DNNN tiếp tục phát triển nâng cao hiệu quả, cần điều chỉnh cơ chấy để DNNN tập
trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, và địa bàn quan trọng, không nhất thiết
giữ tỷ trọng lớn trong các ngành, qui mô thuộc loại vừa và lớn cán bộ tiên tiến.


Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay DNNN cần phải thay đổi lớn để
phù hợp với sự thay đổi trong bối cảnh hội nhập thế giới và phát triển kinh tế xã hội
đi lên công nghệ hoá - hiện đại hoá.
Nếu doanh nghiệp Nhà nước không có biện pháp khắc phục thực trạng như
hiện nat thì sản phẩm làm ra không thể cạnh tranh nổi với các nước khác do công
nghệ lạc hậu, quản lý kém, vốn hao hụt, năng suất lao động thấp, làm ăn thua lỗ kéo
dài, kém hiệu quả như vậy liệu có thể điều tiết được nền kinh tế vĩ mô hay không.
Nêu vấn đề tìm giải pháp để cho DNNN thực hiện vai trò chủ đạo, ổn định và phát
triển kinh tế xã hội là một việc làm cấp thiết.
Nội dung bài tiểu luận được chia thành các phần sau:
I. Khái niệm về Doanh nghiệp Nhà nước
II. Đặc điểm Doanh nghiệp Nhà nước
III. Thực trạng Doanh nghiệp Nhà nước
IV. Giải pháp cho Doanh nghiệp Nhà nước
Đề tài: “Đặc điểm, thưc trạng và giải pháp cho Doanh nghiệp Nhà nước”



I. Khái niệm về doanh nghiệp Nhà nước

Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) theo Điều 1 ngày 20 tháng 4 năm 1995 thì
DNNN là tổ chức kinh doanh do Nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý,
hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế
- xã hội do Nhà nước giao.
DNNN có tư cách pháp nhâm có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách
nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do Nhà nước quản lý.
DNNN có tên gọi, có con dấu riêng, và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt
Nam
Luật DNNN đề cập đến hai chủ thể đều được coi là doanh nghiệp. Đó là
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp Nhà nước hoạt động

công ích Nhà nước có chức năng kinh tế và xã hội với tư cách là đại diện chủ sở
hứu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước có trách nhiệm duy trì và ot
khối tài sản to lớn của Nhà nước nhằm phục vụ các lợi ích chung của toàn xã hội.
Doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước đầu tư vốn và thành lập, được sử dụng như
một công cụ quan trọng của công tác quản lý và điều hành vĩ mô của Nhà nước. Do
đó DNNN vừa phải thực hiện nhiệm vụ xã hội vừa phải đồng thời tổ chức các hoạt
động kinh tế với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.



II. đặc điểm của doanh nghiệp Nhà nước

- Thứ nhất: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư và thành lập.
Trước hế, DNNN là một tổ chức kinh tế nên phải lấy các hoạt động sản xuất
kinh doanh làm chủ yếu. Hoạt động này có tính chất liên tục trong suốt quá trình tồn
tại của doanh nghiệp theo đúng lĩnh vực, ngành nghề đã đăng ký tổ chức kinh tế
chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình với tư cách là một tổ chức kinh tế,
DNNN là một thực thể độc lập với cơ quan công quyền, tổ chức xã hội.
DNNN trước hết phải được Nhà nước đầu tư vốn, nhưng vấn đề ở đây là Nhà
nước đầu tư vốn như thế nào? xét trên khía cạnh hình thành thì doanh nghiệp hay
một công ty mới thành lập, vấn đề sở hữu ban đầu quyết định loại hình của doanh
nghiệp hay của công ty đó, nếu vốn ban đầu của một công ty là vốn cổ phần thì rõ
ràng là công ty cổ phần. Nếu vốn ban đầu là của nhóm người không phải phát hành
cổ phiếu thì doanh nghiệp đó là công ty trách nhiệm hữu hạn.
Vì Nhà nước là người đầu tư toàn bộ vốn điều lệ và không chia sẻ với bất cứ
ai quyền đầu tư vốn ban đầu để thành lập doanh nghiệp, cho nên Nhà nước đương
nhiên là sáng lập viên duy nhất và giữ quyền quyết định, thành lập DNNN khác với
doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác là Nhà nước cho phép thành lập theo sáng
kiến của cá nhân, tổ chức tuân theo thủ tục do pháp luật quy định.
Thứ hai: Doanh nghiệp Nhà nước do mnn tổ chức quản lý và hoạt động theo

các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao doanh nghiệp Nhà nước không chỉ là
đối tượng quản lý của Nhà nước như các loại hình doanh nghiệp khác, mà nó còn là
công cụ để Nhà nước thực hiện điều tiết kinh tế theo định hướng vạch ra. Do đó,
một mặt, Nhà nước trao cho doanh nghiệp quyền tự chủ sản xuất kinh doanh để
doanh nghiệp đủ sức để có thể tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường
trong môi trường cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần
khác. Mặt khác, Nhà nước phải thiết lập được mối quan hệ chắc chắnm bền vững
với các DNNN về mặt tổ chức quản lý doanh nghiệp. Quyền của Nhà nước trong
việc thực hiện tổ chức quản lý đối với DNNN bao gồm những nội dung chủ yếu
sau:
- Nhà nước quy định mô hình cơ cấu tổ chức quản lý cho từng loại DNNN
phù hợp với qui mô của nó.



- Nhà nước quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ cấu, tổ chức
trong doanh nghiệp như Hội đồng quản trị, Chủ tịch HĐQT, Giám đốc, Ban kiểm
soát, Đại hội công nhân viên chức, các tổ chức Đảng và đoàn thể xã hội và mối
quan hệ giữa các cơ cấu tổ chức này trong nội bộ với Nhà nước.
- Xác định thẩm quyền, trình tự thủ tục, của việc Nhà nước bổ nhiệm, miễm
nhiệm các chức vụ quan trọng của doanh nghiệp như Chủ tịch HĐQT, Giám đốc,
Tổng giám đốc, các thành viên HĐQT, Kế toán trưởng, các thành viên ban kiểm
soát.
Hoạt động của DNNN chịu sự chi phối của Nhà nước về các mục tiêu kinh tế
- xã hội do Nhà nước giao. So với qui định tại Nghị định 388/HĐBT. "Doanh
nghiệp Nhà nước hoạt động theo định hướng của Nhà nước thì quản lý hoạt động
của DNNN theo mục tiêu đặt ra, rõ ràng là thoáng hơn phù hợp tính đa dạng của
loại hình DNNN trong cơ chế thị trường. Quản lý theo mục tiêu cho phép doanh
nghiệp có thể chủ động nghiên cứu chuyển đổi hướng kinh doanh, tất nhiên phải
đăng ký theo quy định chung. DNNN không phải thực hiện mục tiêu do Nhà nước

đề ra theo thiết kế ban đầu. Nhưng cũng không thể quy định chỉ có các doanh
nghiệp công ích hoạt động trên lĩnh vực công cộng, đảm bảo an ninh, quốc phòng,
mới bắt buộc phải theo thiết kế ban đầu của Nhà nước còn các doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh có thể tự thay đổi hướng kinh doanh miễn là kinh doanh có lãi có
đóng góp cho ngân sách, tạo làm việc, thu nhập cho công nhân theo chúng tôi
DNNN có thể thay đổi mục tiêu nhưng không thể tự ý thay đổi mà không có sự cho
phép của Nhà nước. Nhà nước là chủ sở hứu được DNNN, do đó quyền đặt ra mục
tiêu và thay đổi mục tiêu là quá trình hoạt động của doanh nghiệp là quyền của Nhà
nước.
- Thứ ba: DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền quản lý vốn và tài sản do
Nhà nước giao, DNNN có tư cách pháp nhân tức là nó có tư cách để trở thành một
chủ thể đầy đủ của các quan hệ pháp luật dân sự, có khả năng hưởng quyền dân sự
và năng lực dân sự, có quyền dân sự và chịu trách nhiệm dân sự.
Nói đến tài sản của pháp nhân là tổ chức kinh tế trước hết là nói đến vốn của
nó, vốn của pháp nhân phải phù hợp với quy định của pháp luật. Pháp nhân phải có
đủ số vốn cần thiết để có đủ tư cách độc lập tham gia vào các quan hệ dân sự. ở
đây, tài sản của doanh nghiệp phải hội tụ hai điều kiện.



- Một: Tài sản của pháp nhân phải độc lập với người đầu tư và do pháp nhân
độc lập chi phối.
- Hai: Tài sản của pháp nhân phải đạt tới mức tối thiểu do pháp luật qui định
(không thấp hơn mức vốn pháp định).
DNNN cũng phải thoả mãn hai điều kiện trên đây, nhưng điều kiện 1 đối với
DNNN là rất đặc thù là vấn đề mấu chố liên quan đến hàng loạt vấn đề về tổ chức
và hoạt động của DNNN.
Một nguyên tắc luôn được đề cao đó là tài sản trong DNNN là tài sản thuộc
sở hữu Nhà nước, doanh nghiệp chỉ có quyền quản lý và sử dụng. Nhưng vấn đề là
ở chỗ làm thế nào để một mặt vẫn đảm bảo về nguyên tắc tài sản của Nhà nước đầu

tư vào doanh nghiệp vẫn thuộc sở hữu của Nhà nước. Mặt khác, tách bạch được
giữa tài sản của Nhà nước do Nhà nước quản lý với khối tài sản còn lại thuộc sở
hữu Nhà nước tạo tiền đề vật chất bảo đảm quyền tự chủ thực sự cho doanh nghiệp
trong sản xuất kinh doanh thích ứng nhanh nhạy với những biến động ngày cangf
tăng của thị trường mở cửa hoà nhập với thị trường quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường "Các xí nghiệp chỉ tồn tại nhờ sự phân chia
quyền tài sản thành quyền vật dụng và quyền cam kết " Quyền vật dụng hay
quyền đối với tài sản thuộc về công ty còn quyền cam kết thuộc về cổ đông Người
góp vốn chỉ có quyền cam kết những gì liên quan đến công ty. Do đó để dnnn có thể
tồn tại và trách nhiệm bảo toàn vốn cho DNNN. Bằng việc làm đó Nhà nước đã tạo
ra sự tách bạch giữa tài sản đầu tư với khối tài sản còn lại của Nhà nước. Tuy nhiên
mức độ tách bạch này chưa thể sánh với tự tách bạch ở các công ty cổ phần. Như
vậy tư cách pháp nhân của doanh nghiệp Nhà nước gắn liền với nó là trách nhiệm
hữu hạn của doanh nghiệp, ngay cả đối với doanh nghiệp 100% với Nhà nước.
Nếu doanh nghiệp không có tài sản riêng cần thiết thì không đủ điều kiện để
trở thành pháp nhân. Doanh nghiệp không có quyền độc lập, chi phối đối với tài sản
của nó thì không có khả năng gạnh chịu pháp luật dân sự và do đó không thể trở
thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự khác. Các quyền tài sản này do pháp
luật quy định. Thực chất quyền tài sản DNNN với tư cách là một pháp nhân là các
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với tài sản của nó, khác với các quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể dân sự khác đối với tài sản của họ. Đó là các quyền lợi về
tài sản theo nghĩa rộng gồm có quyển sử dụng đối với vốn và tài sản được Nhà nước



giao quyền của chủ nợ, quyền sở hữu trí tuệ, quyền hưởng dụng, quyền thu lãi do
đầu tư nước ngoài doanh nghiệp.
Ngoài tư cách là chủ thể độc lập của các quan hệ pháp luật dân sự DNNN
còn là một chủ thể cạnh tranh trên thị trường có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh,
tự chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh, tự phát triển tự ràng buộc, DNNN

có quyền tự sản xuất kinh doanh và cốt lõi vật chất của quyền này quyền tự chủ về
vốn, của DNNN được mở rộng. Để hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm lĩnh thị
trường, giành ưu thế trong cạnh trạnh, pháp luật cho phép DNNN được quyền sử
dụng tài sản, thế chấp tài sản (những thiết bị, nhà xưởng, quan trọng phải được cơ
quan có thẩm quyền cho phép) trên cơ sở bảo toàn và phát triển vốn, có quyền dùng
tài sản của doanh nghiệp để đầu tư, liên doanh góp vốn cổ phần theo quy định của
pháp luật, được giữ lại với khấu hao cơ bản để tích luỹ, sử dụng lợi nhuận để tái
đầu tư.

III. Thực trạng DNNN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới, sự ra đời và tồn tại của kinh
tế quốc doanh đều có những nguyên nhân khách quan chi phối. Trong suốt thời kỳ
dài, chúng ta thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lấy việc mở rônghj
phát triển khu vực kinh tế Nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm
mục tiêu cho việc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy mà khu vực
kinh tế quốc doanh đã phát triển rộng khắp trên mọi lĩnh vực và chiểm tỷ trọng
tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân.


Biểu 1: Cơ cấu các khu vực kinh tế - những chỉ tiêu chủ yếu
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu
Kinh tế xã hội chủ nghĩa
Kinh t
ế t
ư
nhân cá thể
T
ổng

số
Qu
ốc doanh và
công ty hợp danh
T
ập
thể
T
ổng
số
Tư b
ản
tư nhân

1. Cơ cấu tổng sản phẩm xã hội

70,9 35,7 35,2 29,1



2. Cơ cấu thu nhập quốc dân 67,3 24,4 42,9 32,7
3. Cơ cấu lao động xã hội 86,2 17,7 71,5 13,8 0,04

Với cơ chế bao cấp sản xuất kinh doanh thua lỗ được ngân sách Nhà nước
cấp bù, các DNNN đã hoàn toàn thụ động trong sản xuất kinh doanh theo kế hoạch
tập trung của Nhà nước từ khâu thua mua sản xuất tiêu thụ định đoạt giá không phát
huy được tính năng động, chủ động sáng tạo của doanh nghiệp, hậu quả là cácung
cấp doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, trở thành gánh nặng nề cho ngân sách Nhà nước
thâm hụt và bội chi triền miên.
Biểu 2: Tỷ trọng DNNN trong nền kinh tế quốc dân

Ch
ỉ tiêu

Đơn v
ị tính

1985

1986

1987

1. Trong tổng sản phẩm xã hội % 37,1 35,7 34,4
2. Trong thu nhập quốc dân % 27,0 30,4 28,1
3. Trong công nghiệp % 56,3 56,3 56,3
4. Số bù lỗ từ ngân sách Tỷ đồng 5,01 47,38

Năm 1987, cùng với việc thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần Đảng và
Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế, xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp, chuyển
sang cơ chế hạch toán kinh doanh mở rộng quyền tự chủ về tài chính cho doanh
nghiệp. Bằng một loạt hệ thống văn bản pháp qui, từ quyết định 217/HĐBT ngày 14
tháng 11 năm 1987 của Hội đồng Bộ trưởng xác lập quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh của DNNN, tiếp đó là Nghị định số 500/HĐBT ngày 23 tháng 3 năm 1998
của Hội đồng Bộ trưởng ban hành điều lệ xí nghiệp quốc doanh. Nghị định số
98/HĐBT ngày 20 tháng 6 năm 1988 ban hành quy định về quyền làm chủ tập thể
lao động tại xí nghiệp quốc doanh
Do áp dụng các biện pháp sát nhập, giải thể những doanh nghiệp nhỏ làm ăn
thua lỗ, đến nay còn khoảng 5280 DNNN, giảm được hơn 7.000 doanh nghiệp. Kết

quả nâng qui mô vốn bình quân của doanh nghiệp là 3,3, tỷ đồng (1990) đến 11 tỷ
đồng (1996) hơn 18 tỷ đồng (1998) và hơn 20 tỷ đồng (1999). DNNN vẫn giữ được
vai trò chủ đạo trong nhiều ngành kinh tế khác nhau đặc biệt là những ngành quan



trọng, sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ quan trọng của nền kinh tế như điện,
nước, than, xi măng, vận tải, hàng không, bưu chính viễn thông, công nghệ thông
tin DNNN chiếm tỷ trọng lớn trong GDP: 1992 là 40,12%, năm 1996 là 39,9%,
năm 1997 là 40,5%, năm 1998 là 40,2%, năm 1999 là 40,12%. Trong 5 năm từ
1991 - 1995 tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của doanh nghiệp là 11,7% gần
gấp rưỡi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và gần gấp đôi kinh tế ngoài quốc
doanh. Trong giai đoạn 1996 đến 1999 tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cũng như
của DNNN giảm do nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng của DNNN
vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nói chung tỷ trọng tổng sản phẩm
của DNNN trong cơ cấu tổng sản phẩm. Trong nước tăng từ 40,7% (1995) lên đến
41,23% (1998) DNNN đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Tốc độ
tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm 20%. DNNN là đầu mối xuất khẩu
hầu hết các mặt hàng quan trọng như dầu thô, than, gạo, hàng may mặc. Trong lúc
các thành phần kinh tế khác chưa vươn lên được thì DNNN là đối tác chính trong
liên doanh, liên kết với bên ngoài (chiếm 98% dự án) góp phần tạo ra nguồn thu
đáng kể từ khu vực này.
Trong thời gian qua, phần lớn doanh nghiệp Nhà nước đã gần thích ứng với
cơ chế thị trường, đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần đáng kể vào việc
ổn định nền kinh tế - xã hội, đưa nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng. Đứng vững trước
những tác động tiêu cực của cuộc củng khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực và
thế giới. Do đó lại càng chứng tỏ vai trò sức mạnh vật chất của DNNN trong việc
giúp Nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, cũng như hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cũng phát triển.


Biểu 3: Khu vực kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế quốc dân
Ch
ỉ tiêu

1995

1996

1997

1. Tổng sản phẩm trong nước GDP (tỷ đồng) 228.893 272.035 313.624
Trong đó khu vực kinh tế quốc doanh 91.977 108.634 116.924
2. Tỷ trọng GDP của DNNN trong tổng sản phẩm
trong nước
40,2 39,9 40,5
3. Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 9,5 9,34 8,15
Trong đó khu vực kinh tế quốc dân 9,4 11,3 9,7




Bên cạnh những thành quả đạt được DNNN đang bộc lộ nhiều yếu kém.
Những năm gần đây tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN sau thời gian đạt liên
tục 13%, đến năm 1998 và đầu năm 1999 giảm xuống còn 8 - 9%. Hiệu quả sử dụng
vốn giảm. Năm 1995 một đồng vốn Nhà nước tạo ra được 3,46 đồng doanh thu và
0,19 đồng lợi nhuận. Tỷ lệ tương ứng của năm 1998 chỉ còn 2,9 và 0,024 đồng lợi
nhuận. Số doanh nghiệp lỗ trong ngành thương mại, dịch vụ, khách sạn chiếm tới
41%. Tỷ lệ DNNN thực sự có hiệu quả giảm dần từ khoảng 50% đầu những năm
90. Năm 1999, theo đánh giá chung số doanh nghiệp có lãi thực sự còn khoảng
20%, số doanh nghiệp bị lỗ chiếm 25%. Nếu tính đủ khấu hau giá trị tài sản cố định

thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn lớn hơn số doanh nghiệp còn lại nằm trong
tình trạng không ổn định, khi lỗ khi lãi và lãi cũng không lớn.
Biểu 4: Hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp Nhà nước
Ch
ỉ tiêu

1995

1996

1997

Vốn Nhà nước (tỷ đồng) 76.770 93.816 107.343
Lợi nhuận thực hiện (tỷ đồng) 10.913 13.466 14.072
Tỷ suất lợi nhuận/ vốn (%) 14,2 14,3 13,0

Công nợ trong các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay là quá lớn. Nợ phải thu
chiếm tới trên 60%. Nợ phải trả bằng 124% vốn Nhà nước trong doanh nghiệp. Mặc
dù ngân sách Nhà nước luôn thâm hụt nhưng Nhà nước vẫn giành một tỷ lệ nhất
định để hỗ trợ cho một số doanh nghiệp Nhà nước. Trong 3 năm 1994 - 1997 ngân
sách Nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp 8.000 tỷ đồng, trong đó 6.428
tỷ đồng cấp bổ sung vốn cho doanh nghiệp, 1.464,4 tỷ đồng là bù lỗ, hỗ trợ cho các
doanh nghiệp để giảm bớt khó khăn về tài chính.
Ngoài ra, Nhà nước còn miễn giảm thuế 3.392 tỷ đồng, giảm nợ 540 tỷ đồng,
cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ đồng. Tuy nhiên việc hỗ trợ này ở một số
doanh nghiệp không mang lại hiệu quả tương ứng, số nộp vào ngân sách Nhà nước
ít hơn phần mà Nhà nước đã hỗ trợ cho doanh nghiệp loại này.
DNNN nhiều về số lượng nhưng nhỏ về qui mô, về quy mô vốn cho đến năm
nay vẫn còn 2,21% số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, 31,7% doanh nghiệp
vốn từ 1 -> 5 tỷ đồng, 29,49% doanh nghiệp vốn từ 5 -> 10 tỷ đồng. Đến 31 tháng




12 năm 1999 tổng số nợ của các doanh nghiệp là 10.130 tỷ đồng. Tổng số vốn huy
động vào Nhà nước kinh doanh 70,93 tỷ đồng. Khả năng mất vốn ở vật tư hàng hoá
kém phẩm chất, nợ khó đòi, nợ lũy kế là gần 568 tỷ đồng.
Trình độ kỹ thuật, công nghệ hầu hết các DNNN đều lạc hậu. Báo cáo điều
ra ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho biết, ở Hà Nội 33% máy móc thiết bị
trên 20 năm, còn ở thành phố Hồ Chí Minh con số 31%. Trong đó con số tương ứng
của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 21% và 22,5%.
Hàng hoá do các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất ra kém chất lượng, giá
thành cao, do vậy yếu về sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước.
Tình hình trên là do nhiều nguyên nhân. có thể chỉ ra một số nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến các DNNN kinh doanh kém hiệu quả.
- Thứ nhất: trong nhiều năm doanh nghiệp Nhà nước luôn được bảo vệ tài
trợ và nâng đỡ của Nhà nước, không có sức ép kinh tế nào buộc doanh nghiệp Nhà
nước đầu tư nâng cao hiệu quả. chuyển sang kinh tế thị trường sự bao cấp của Nhà
nước giảm đáng kể nhưng tư tưởng bao cấp vẫn còn nặng nề, chưa quen với môi
trường cạnh tranh chưa nhanh nhạy trong quá trình sản xuất kinh doanh mặt khác do
DNNN công nghệ lạc hậu, các doanh nghiệp không chủ động đầu tư đổi mới, do đó
năng suất lao động thấp chất lượng sản phẩm kém, không đủ sức cạnh tranh.
- Thứ hai: Tổ chức bộ máy DNNN không phù hợp, cơ cấu lãnh đạo chủ
chốt trong DNNN thường do cấp trên sắp xếp, bổ nhiệm thiếu căn cứ khoa học. Do
vậy thường thiếu cán bộ quản lý điều hành sản xuất kinh doanh giỏi.
- Thứ ba: Tình trạng đầu tư vốn dàn trải, quản lý vốn lỏng lẻo dẫn đến tình
trạng các DNNN thiếu vốn nghiêm trọng, chiếm dụng vốn vòng vo, trong khi đó
thiếu các phương thức tạo vốn thích hợp trong điều kiện kinh tế thị trường, nó thể
hiện trong sự mất cân đối giữa ngân sách Nhà nước co hẹp với nhu cầu vốn cho
đầu tư rất lớn của DNNN và mất cân đối giữa nhu cầu vay với sự đơn diện về
phương thức thu hút vốn của DNNN.


IV. biện pháp khắc phục thực trạng trên.

Từ thực trạng và nguyên nhân kinh doanh kém hiệu quả của các DNNN đòi
hỏi chúng ta phải sắp xếp lại, đổi mới DNNN, chỉ giữ lại những doanh nghiệp Nhà



nước có tính chất mũi nhọn, phục vụ những chức năng của Nhà nước, tập trung đầu
tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý để các doanh nghiệp này đủ sức
cạnh tranh trên thị trường. Các DNNN còn lại phải được chuyển hình thức sở hữu
như tư nhân hoá và cổ phần hoá để một mặt giảm gánh nặng cho Nhà nước, mặt
khác để tạo ra mô hình kinh doanh có hiệu quả hơn. một trong những giải pháp khắc
phục hạn chế DNNN đang được thực hiện có hiệu quả là cổ phần hoá doanh nghiệp
lợi ích của biện pháp này làm cho Nhà nướcgiảm gánh nặng đối với các doanh
nghiệp, đồng thời Nhà nước có một khoản thu khá lớn để có thể tập trung đầu tư
vốn, đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý.
Các doanh nghiệp Nhà nước còn lại để chúng có thể đủ sức đứng vững cạnh
tranh trên thị trường, đảm bảo điều kiện Nhà nước thực hiện có hiệu quả chức năng
và nhiệm vụ của mình.
Tạo ra một loạt các doanh nghiệp mới đó là công ty cổ phần là một mô hình
quản lý kinh doanh có hiệu quả nhất. Một mặt huy động được nguồn vốn kinh
doanh trong xã hội, khai thác tối đa có hiệu quả nội lực kinh tế xã hội. Mặt khác là
hình thức liên doanh tốt với sự tham gia đầu tư của nước ngoài, tạo mọi điều kiện để
thành viên trong công ty được trở thành chủ thực sự, phát huy đầy đủ tối đa tính
năng động sáng tạo của họ, học tập nhiều kinh nghiệm quản lý quý báu của nước
ngoài, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và cũng là con đường để
đưa nước ta tăng trưởng và phát triển một cách ổn định và vững chắc.




Kết luận
Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
chuyển sang kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa từng
bước hội nhập nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Nghiên cứu vấn đề này đề tài đi đến
kết luận sau:
1. Doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, DNNN là doanh nghiệp luôn đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả để các
doanh nghiệp khác noi theo, DNNN còn là công cụ để Nhà nước thực hiện có hiệu
quả chức năng và nhiệm vụ của mình.
2. Đổi mới các DNNN là tất yếu để hàng hoá của Việt Nam nâng cao khả
năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và khu vực. Tuy nhiên để làm được điều
này còn nhiều khó khăn trong điều kiện kinh tế kém phát triển thị trường chưa đồng
bộ, hệ thống khuôn khổ pháp lý còn lỏng lẻo, công tác chỉ đạo và thực hiện còn
nhiều thiếu sót, tư tưởng chưa thống nhất. Vì vậy DNNN vẫn còn phát triển chậm
trễ.
3. Doanh nghiệp Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ đổi mới đó là nhiệm vụ
bức xúc, đòi hỏi phải tiên quyết thực hiện những giải pháp đồng bộ nhưng phức tạp.
tuy nhiên không còn cách nào khác để thành công tiến trình hội nhập nền kinh tế
nước ta với nền kinh tế thế giới và khu vực.
















Một số ý kiến cá nhân đối với Doanh nghiệp Nhà nước

- Doanh nghiệp Nhà nước nên tiến hành cổ phần hoá chỉ nên giữ lại những
doanh nghiệp chủ chốt trong việc điều hành kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô.
- Cải cách cơ chế quản lý DNNN đồng bộ hơn tránh bộ phận hành chính
kồng kềnh.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm trong thời kỳ hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới hiện nay một số môi trường kinh doanh cạnh tranh gay gắt.
- Về sửa đổi bổ sung các cơ chế chính sách.
* Đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
+ Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu
+ Thực hiện chính sách ưu đãi với các ngành vùng sản phẩm và dịch vụ cần
ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế
- Ban hành luật cạnh tranh, tổ chức một số DNNN cạnh tranh bình đẳng.
- Có qui định kiểm soát giá và điều tiết lợi nhuận
- Ban tiêu chí đánh giá hiệu quả
- Ban hành cơ chế giám sát DNNN
- Đổi mới chế độ kế toán, kiểm tra, chế độ báo cáo, thực hiện công khai hoạt
động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp.
* Đặc biệt vốn:
- Doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị trường, được
chủ động xử lý tài sản dư thừa, vật tư hàng hoá ứ đọng.
- Doanh nghiệp tự chủ trong kinh doanh.
- Chuyển hình thức cấp vốn sang đầu tư vốn.












Tài liệu tham khảo

1. Luật kinh tế Việt Nam
2. Nghị quyết Trung ương 3 - Khoá IX
3. Số liệu thống kê lấy trong tư liệu báo cáo.































Mục lục
Trang
L
ời nói
đ
ầu

1
I. Khái niệm về Doanh nghiệp Nhà nước 2
II. Đặc điểm Doanh nghiệp Nhà nước 3
III. Thực trạng Doanh nghiệp Nhà nước 6
IV. Biện pháp khắc phục thực trạng trên 11
K
ết luận


12
M
ột số ý kiến cá nhân
đ
ối với doanh nghiệp Nhà n
ư
ớc

13
Tài li
ệu tham khảo

14





×