Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đề tài: Lạm phát ở Việt Nam hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.22 KB, 27 trang )

Nội dung thảo luận: Lạm phát ở Việt Nam hiện nay
1. Cơ sở lý luận chung về lạm phát.
1.1 Khái niệm về lạm phát.
Lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong một thời gian dài.
1.2 Phương pháp đo lường lạm phát.
Lạm phát còn được đo bằng chỉ số giá cả
1.2.1 Chỉ số giá tiêu dùng.
Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI. CPI
tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường. Các nhóm chính đó
là hàng lương thực thực, thực phẩm, quần áo , nhà cửa , chất đốt …
Trong thực tế nó được thay thế nó được thay thế bằng chỉ số giá cả tiêu dùng hoặc
chỉ số giá bán buôn: I
p
=
1
n
pj
j
i
=

.
j
d
Trong đó: p chỉ số giá cả từng loại nhóm hàng
d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại nhóm hàng
1.2.2 Chỉ số giá buôn.
Chỉ số thứ 2 cũng thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản suất PPI. Đây là chỉ số
giá bán buôn. PPI được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản
xuất ấn định.
1.2.3 Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội.


Đây là chỉ số đo mức giá bình quân của tất cả hàng hoá và dịch vụ tạo nên tổng
sản phẩm quốc nội, được xác định theo công thức:
Chỉ số giảm phát GDP =
n
r
GDP
GDP
1.2.4 Chỉ số lạm phát cơ bản.
Vì CPI là chỉ số lạm phát cho bất kỳ một thời kỳ nào, có thể là tháng, quý, năm. .
. Vậy, làm thế nào để xác định được xu hướng thay đổi giá cả hàng hoá và dịch vụ
trong dài hạn. Để làm được điều này, người ta dùng chỉ tiêu lạm phát cơ bản. Đây là
- 1 -
chỉ số phản ánh sự tăng giá trong dài hạn sau khi đã loại bỏ những dao động về giá
mang tính thời vụ, và những đột biến về giá bắt nguồn từ những cú “sốc cung” tạm
thời. Chỉ số lạm phát cơ bản không thay thế CPI, mà chỉ đóng vai trò là chỉ tiêu bổ
sung cho CPI, nó cung cấp thông tin về xu hướng dài hạncủa giá tiêu dùng và được sử
dụng như chỉ số lạm phát tương lai. Như vậy, lạm phát cơ bản được hiểu là tỷ lệ lạm
phát đã được điều chỉnh loại bỏ những biến động ngắn hạn về giá cả, giúp các nhà
hoạch định chính sách xác định xu hướng lạm phát trong dài hạn, là thông tin hữu ích
hoạch định CSTT.
1.3 Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
1.3.1. Căn cứ vào mức độ:
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm ,người ta chia lạm phát ra thành
a. Lạm phát vừa phải (lạm phát 1 con số mỗi năm):
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dưới 10%/năm.
Đây mà mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được,với mức lạm phát này,những tác
động kém hiệu quả của nó là không đáng kể.
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý cho người lao động chỉ trông chờ vào thu
nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoảng thu nhập ổn định, ít rủi ro

nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
b. Lạm phát phi mã (2 con số mỗi năm):
Khi tỷ lệ tăng,giá đã bắt đầu tăng đến 2 chữ số mỗi năm.Ở mức lạm phát 2 chữ số
thấp (11,12,13%/năm), nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể,nền
kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức 2 chữ số cao, lạm
phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó là
không nhỏ. Lúc đó lạm phát 2 chữ số sẽ trở thành mối đe dọa đến sự ổn định của nền
kinh tế. Ở mức 2 chữ số, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhah chóng, gây biến
động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng
hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường.
Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
- 2 -
c. Siêu lạm phát:
Tùy theo quan điểm của các nhà kinh tế, ngoài các loại lam phát trên, còn có lạm
phát 3 chữ số. Nhiều người coi các loại lạm phát này là siêu lạm phát vì nó có tỷ lệ lạm
phát rất cao và tốc độ tăng nhanh.Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó
đến đời sống và đến nền kinh trở nên nghiêm trọng: Kinh tế suy sụp một cách nhanh
chóng ,thu nhập thực tế của người lao động giảm mạnh …dẫn đến đời sống kinh tế của
người dân trở nên khó khăn. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít khi xảy ra
1.3.2.Căn cứ vào tính chất:
a. Lạm phát thuần tuý:
Là lạm phát mà giá tất cả các hàng hoá và dịch vụ tăng cùng một tỷ lệ, nên giá cả
tương đối giữa các mặt hàng là không thay đổi. Do đó, lạm phát thuần tuý không làm
thay đổi cơ cấu hàng hoá và dịch vụ trong tiêu dùng.
dự đoán trước va lạm phát bất thường:
b. Lạm phát dự kiến:
Đây là loại lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dàivới tỷ lệ lạm phát
tăng hàng năm khá đều đặn và ổn định.Do vậy,người ta có thể dự đoán trước được tỷ lệ
lạm phát cho những năm tiếp theo.Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình hình lạm
phát đó và người ta đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này.

c. Lạm phát không dự kiến hay lạm phát bất thường:
Là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa từng xuất hiện. Do vậy tâm
lý, cuộc sống và thói quen của người dân đều chưa thích ứng được.Lạm phát bất thường
gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính
quyền.
1.3.3. Căn cứ vào nguyên nhân:
Lạm phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát cơ cấu, lạm
phát ngân sách.
1.3.4. Căn cứ sự biến động:
a. Lạm phát ngắn hạn:
Biểu hiện mức giá cả biến động trong ngắn hạn, có tính chất thời vụ, như lạm phát
tháng, quý, năm. Lạm phát ngắn hạn thường đo bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
- 3 -
b. Lạm phát dài hạn:
Thể hiện của xu hướng lạm phát trong dài hạn, được loại trừ sự biến động tạm
thời có tính thời vụ giá cả. Lạm phát dài hạn được đo bằng chỉ số lạm phát cơ bản.
1.4 Nguyên nhân gây ra lạm phát.
1.4.1. Lạm phát theo thuyết tiền tệ:
Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá… có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm
phát. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng
cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục
mức giá chung và có thể giải thích theo các cách sau:
Theo thuyết tiền tệ: Theo quan điểm của các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ, khi
cung tiền tệ tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát, được thể hiện qua mô hình sau:


(Tổng mức giá)
P AS
3


P
3
3 AS
2

2’

AS
1
P
2
2


1’ AD
3
P
1
1 AD
2



AD
1
Y

0

Y

1
Y
n
(

Tổng sản phẩm)

Cung ứng tiền tệ và lạm phát tiền tệ.
Ban đầu nền kinh tế ở điểm 1,với sản lượng đạt ở mức sản lượng tự nhiên Yn tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả P
1
đường giao nhau với đường tổng cung AD
1
.Khi
cung tiền tệ tăng lên thì đường tổng cầu di chuyển sang phải đến AD
2
. Trong một thời
gian rất ngắn,nền kinh tế sẽ chuyển động đến điển 1

và sản phẩm tăng lên trên mức tỷ
- 4 -
lệ tự nhiên,tức là đạt tới Y
1
(Y
1
>Yn). Điều đó đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới
mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, tiền lương tăng lên và giảm tổng cung đường tổng cung
dịch chuyển vào đến AS
2
. Tại


đây nền kinh tế quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản
phẩm trên đường tổng cung dài hạn.Ở điểm cân băng mới(điểm2), mức giá đã tăng từ
P
1
đến P
2.
Cung tiền tệ tiếp tục tăng ,đường tổng cầu lại dịch chuyển ra đến AS
3
, nền kinh tế
đạt tới mức cân bằng mới tại điểm 3. Tại đây mức giá giả đã tăng lên đến P
3
. Nếu cung
tiền tệ vẫn tiếp tục diễn ra và nền kinh tế đạt tới mức giá cả ngày càng cao hơn, lạm
phát tăng cao
1.4.2. Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy:
Lạm phát này xảy ra do những cú sốc tiêu cực hoặc do kết quả của những cuộc
đấu tranh đòi tăng lương gây ra. Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy được thể hiện qua mô
hình sau:

(Tổng mức giá)

P
AS
3
3’ AS
2

P
3

3

P
2’
2’

AS
1
P
2
2

P
1’
1’ AD
3


P
1
1

AD
2 .


AD
1
Y


0

Y
1
Y
n
(

Tổng sản phẩm)
Lạm phát chi phí đẩy.
- 5 -
Lúc đầu nền kinh tế ở điểm1, là giáp điểm của đường tổng cầu AD
1
và đường
tổng cung AS
1
,với mức sản lượng tự nhiên(sản lượng tiềm năng)và tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên. Do mong muốn có được mức sống cao hơn hoặc do cho rằng tỷ lệ lạm phát dự
tính trong nền kinh tế sẽ tăng cao,những người công nhân đấu tranh đòi tăng lương.Vì
tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên những đòi hỏi tăng lương
của công nhân dễ được giới chủ chấp nhận,ảnh hưởng của việc tăng lương(cũng giống
như ảnh hưởng của những cú sốc cung tiêu cực) làm đường tổng cung AS
1
dịch chuyển
vào đến AS
2.
Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm1

giao điểm của đường tổng cung mới AS
2


đường tổng cầu AD
1
. Sản lượng đã giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiênY

(Y

<Y
n
) và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, đồng thời mức giá cả
tăng lên đến P

1
. Vì mục đích muốn duy trì một mức công ăn việc làm cao hơn hiện
tại,Chính phủ sẽ thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động nhằm tác động lên
tổng cầu,làm tăng tổng cầu,lúc này đường tổng cầu AD
1
dịch chuyển ra AD
2
, nền kinh
tế quay trở lại mức sản lượng tiềm năng,và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tại điểm cân bằng
điểm2, mức giá cả tăng lên đến P
2.
Các công nhân đã được nhượng bộ và được tăng lương vẫn có thể tiếp tục đòi
tăng lương lên cao hơn. Đồng thời,những sự nhượng bộ đó đã tạo ra sự chênh lệch về
mức lương trong tầng lớp công nhân, tình trạng đòi tăng lương lại tiếp diễn, kết quả là
đường tổng cung lại dịch chuyển vào đến AS
3
, thất nghiệp lại tăng lên cao hơn mức tỷ
lệ tự nhiên và Chính phủ lại thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động làm dịch

chuyển đường tổng cầu AD
3
để đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tiềm năng và tỷ
lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả cũng tăng lên đến P
3
. Nếu quá trình này cứ tục tiếp
diễn thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của mức giá cả, đây là tình trạng lạm phát chi
phí đẩy
1.4.3. Lạm phát cầu kéo:
Một trường hợp khác vì mục tiêu công ăn việc làm cao, cũng dẫn đến lạm phát
cao, đó là lạm phát cầu kéo được thể hiện qua mô hình sau:
- 6 -

(Tổng mức giá)
P AS
3

P
3
3 AS
2

2’

AS
1
P
2
2



1’

AD
3
P
1
1
AD
2

AD
1
Y

0

Y
n
Y
1
(

Tổng sản phẩm)

Lạm phát cầu kéo
Giả sử ban đầu nền kinh tế đang đạt tới mức sản lượng tiềm năng,và tỷ lệ thất
nghiệp đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên,nền kinh tế đạt mức cân bằng ở điểm 1.
Nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ hoạch định và theo đuổi một tỷ lệ thất nghiệp
dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên

Để đạt được mục tiêu này, nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đưa ra
những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng,
mức chỉ tiêu sản lượng cần đạt được đó làYt (Yt>Yn).Các biện pháp mà họ đưa ra sẽ
tác động lên tổng cầu,đường tổng cầu sẽ dịch chuyển ra đến AD
2 ,
nền kinh tế chuyển
đến điểm 1

(giao điểm giữa đường tổng cầu mới AD
2
và đường tổng cung ban đầu
AS
1
). Sản lượng bây giờ đã đạt tới mức Y
1
lớn hơn sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên đã đạt được.
Vì hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế là thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên nên tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ di chuyển vào đến AS
2
, đưa nền
kinh tế từ điểm 1’ chuyển sang điểm 2

. Nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm
năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P
2
cao hơn P
1.
- 7 -
Đến lúc này, tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn muc tiêumà các nhà hoạch định chính

sách cần đạt được. Do đó họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách lam tăng tổng cầu.Quá
trình này cứ tiếp diễn liên tục và đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn.
1.4.4. Lạm phát do thâm hụt ngân sách.
Thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ
và gây ra lạm phát cao.
Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bằng biện
pháp phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường tài chính để vay tiền trong dân
chúng, bù đắp cho phần bị thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số
tiền tệ và do đó, không tăng cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát.Một biện pháp
khác Chính phủ có thể sử dụng để bù đắp cho thâm hụt ngân sách nhà nước là phát
hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng
tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên ở các nước đang phát
triển,do thị trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù
đắp cho thâm hụt ngân sách là rầt khó thực hiện.Đối với các quốc gia này,con đường
duy nhất đối với họ là “sử dụng máy in tiền”. Vì thế, khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách của
các quốc gia đó tăng cao thì tiền tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng.
Do vậy, trong mọi trường hợp,tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao,kéo dài
là nguồn gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát
1.4.5. Lạm phát theo tỷ giá hối đoái:
Tỷ hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng cũng là nguyên
nhân gây ra lạm phát
Thứ nhất, khi tỷ giá tăng ,đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của
những người sản xuất trong nước,muốn kéo giá hàng lên cao theo mức tăng của tỷ giá
hối đoái.
Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu ,hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao,đẩy
chi phí về nguyên liệu tăng lên,lại quay trở về lạm phát phí đẩy như đã phân tích ở trên.
Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng hóa nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây
chuyền, làm tăng giá cả ở rất nhiều hàng hóa khác, đặc biệt là các hàng hóa của những
ngành có sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và nhũng ngành có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau (nguyên liệu của ngành này là sản phẩm của ngành khác….)

- 8 -
2. Tình hình về lạm phát ở Việt Nam.
2.1. Năm 2010
2.1.1.Thực trạng lạm phát năm 2010.
Mức lạm phát 2 con số của Việt Nam trong năm 2010 đã chính thức được khẳng
định. Con số 11,75% tuy không quá bất ngờ nhưng vẫn vượt so với chỉ tiêu được
Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 7%.
Trong tháng 12/2010, mức tăng giá tiêu dùng (CPI) của cả nước là 1,98%, cũng
là mức tăng cao nhất trong năm. Đóng góp chủ yếu vào con số này là mức tăng giá ở
khu vực hàng ăn và dịch vụ ăn uống, tăng 3,31% (riêng lương thực tăng tới 4,67%).
Cũng trong tháng này, giá nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng mạnh tới 2,53%.
Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2010, giáo dục mới là nhóm tăng giá mạnh
nhất trong rổ hàng hóa tính CPI (gần 20%). Tiếp đó là hàng ăn (16,18%) và nhà ở -
vật liệu xây dựng (15,74%). Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá với
mức giảm gần 6% trong năm 2010.
Về CPI của các vùng miền, đáng chú ý là chỉ số CPI khu vực nông thôn tháng 12
tăng 2,04%; cao hơn 1,87% của khu vực thành thị.
Trong tháng 12, giá vàng và đôla Mỹ không leo thang mạnh như những tháng
trước (lần lượt tăng 5,43% và 2,86%). Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2010, giá
vàng đã tăng tới 30% trong khi mức tăng của đôla Mỹ là xấp xỉ 10%.
Như vậy, tháng 12 đã là tháng có chỉ số CPI tăng mạnh nhất trong năm 2010.
Việc CPI năm 2010 tăng ở mức 2 con số không nằm ngoài dự báo khi từ tháng 9
đến nay chỉ số này đã liên tục tăng mạnh. Song năm này có thể coi là một năm chỉ số
giá diễn biến khá phức tạp., chỉ riêng 3 tháng đầu năm 2010, CPI đã tăng 4,12%, gây
sức ép lớn lên mục tiêu kiềm chế lạm phát của Chính phủ.
Theo tổng cục thống kê, trong tỷ lệ lạm phát 11,75% năm 2010 của Việt Nam,
yếu tố tiền tệ đóng góp tới 4,65% và các yếu tố khác góp 7,1%. Yếu tố tiền tệ đã có
một “đóng góp” đáng kể trong sự gia tăng vượt chỉ tiêu (dù đã được điều chỉnh) của
lạm phát năm 2010, đặc biệt là từ đầu quý IV.
Đến quý 3/2010, về cơ bản lạm phát được kiềm chế; nhưng sang quý 4/2010,

lạm phát tăng cao ngoài khả năng dự đoán. Đến cuối năm 2010 Việt Nam vẫn chưa
"cắt nghĩa" đúng được tình hình lạm phát nên các giải pháp điều hành thời gian qua
- 9 -
vẫn nghiêng về "giải pháp để bình ổn giá" mà không phải là để "kiểm soát lạm phát".
"Tất cả các biện pháp đối phó của VN đều được đưa ra khi giá cả đã biến động rồi,
nên hiệu quả không cao. Minh chứng là nước ta đã đưa ra nhiều giải pháp tập trung
vào quý IV của năm nay, trong khi trước đó đều không có hoặc chưa quyết liệt.
Các giải pháp bình ổn giá vẫn "nặng về hành chính" nên đã hạn chế tác dụng.Ví
dụ, để kiểm soát giá, chúng ta cũng yêu cầu tiểu thương tại các chợ niêm yết giá bán.
Tuy nhiên, tiểu thương có hàng nghìn lý do như vàng, tỷ giá tăng, bão lụt… để tăng
giá mà các cơ quan chức năng không thể làm gì được.
2.1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát.
- “Nguyên nhân chủ yếu không phải do sai lầm của chính sách và điều hành vĩ
mô, chính sách tiền tệ trong năm cũng không phải là nhân tố làm cho lạm phát tăng
cao. Nguyên nhân chính là xuất phát từ những nhân tố khách quan như sự bất ổn kinh
tế, giá cả thế giới và một số yếu tố chủ quan nội tại của nền kinh tế”.bên cạnh đó, giá
cả một số hàng hóa thiết yếu thế giới tiếp tục tăng cao (giá dầu thô và giá xăng - gas
tăng, sắt thép, nguyên vật liệu nhập khẩu tăng do kinh tế thế giới phục hồi, giá cả
nguyên vật liệu tăng trên 10%), giá vàng biến động mạnh; Trung Quốc mất mùa nên
đã thu hút hàng hóa của Việt Nam khá mạnh.
- Trong nước, dịch bệnh trong nông nghiệp, bão lũ nặng nề ở miền Trung làm
ảnh hưởng khá lớn đến cung cầu hàng hóa, giá lương thực thực phẩm tăng do việc
chủ động đưa giá lên để tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước và nông dân;
tăng lương cơ bản, tăng chi phí giáo dục, y tế; do chi tiêu ngân sách và đầu tư công
khá lớn những năm qua và cả năm 2010; kết hợp tỷ giá tăng, giá vàng tăng, yếu tố
tâm lý kỳ vọng lạm phát trong dân dẫn đến tổng cầu tăng đột biến, làm giá tăng mạnh.
- Việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ) và xuất nhập khẩu. Trong năm 2010 tỷ
giá trên thị trường tự do tăng trên 10% và tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng
(TCTD) đối với khách hàng tăng 5,9%. Tỷ giá chính thức từ cuối năm 2009 đến hết
năm 2010 được ngân hàng nhà nước (NHNN) điều chỉnh tăng hai lần. Riêng đợt điều

chỉnh ngày 18/8/2010, tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa Đồng Việt Nam và Đô la
Mỹ tăng 2,1%, từ 18.544 VND/USD, lên mức 18.932 VND/USD. Mục tiêu của việc
điều chỉnh nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
- 10 -
- Do tác động của lãi suất. Tình trạng vòng “luẩn quẩn”: Tổ chức tín dụng thiếu
tiền vốn so với cầu tín dụng phải huy động với mức cao hơn mức trần Nhà nước quy
định dẫn đến lãi suất cho vay cũng tăng, trong khi thị trường thì thừa tiền để tiêu dùng
hàng hoá hợp thị hiếu, làm cho tiền trong lưu thông đổ vào lĩnh vực phi sản xuất,
không qua ngân hàng, đọng lại ở thị trường bất động sản rộng lớn nhưng lại bị “đóng
băng” do giá cao chơi vơi. Thiếu thanh khoản cục bộ đã “thổi” lãi suất thị trường liên
ngân hàng lên mức khá cao.
- Do biến động của giá vàng và diễn biến tâm lý của người dân. Lạm phát tâm lý
trong nền kinh tế đang ảnh hưởng đến nhiều mặt đời sống xã hội, đặc biệt là giá các
loại hàng hóa trên thị trường. Thứ nhất: Các chính sách quản lý nhà nước nhằm mục
tiêu điều hành tốt hơn nền kinh tế nhưng đôi khi chính yếu tố tâm lý của người dân lại
làm nảy sinh lạm phát tâm lý. Thứ hai: Tâm lý người dân rất nhạy cảm với lạm phát
và thường có phản ứng đôi khi quá mức càng đẩy lạm phát lên cao. Trong khi đó, các
phản ứng của Chính phủ chống lại lạm phát thường chậm, chính sách điều hành
không nhất quán, khiến người dân càng mất niềm tin vào hiệu quả chính sách. Điều
này thể hiện qua những cơn sốt của thị trường vàng, đô la, hay bất động sản khi người
dân đổ xô đầu tư và găm giữ các loại tài sản khác thay thế tiền đồng. Thứ ba: Tâm lý
không cất trữ.
- Do vấn đề tiền tệ. Đối với năm 2010, Có thể nói kênh tiền tệ qua hệ thống ngân
hàng không phải là nguyên nhân chủ yếu gây nên lạm phát cao trong năm 2010. Thứ
nhất, qua phân tích các nguyên nhân ở phần đầu tiểu luận cùng với sự tác động lên
các nhóm hàng hóa và dịch vụ. Thứ hai là mức tăng tổng phương tiện thanh toán và
tăng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng đến hết năm 2010 so với nhiều năm gần
đây không phải là cao, vẫn nằm trong tầm kiểm soát theo mục tiêu đề ra từ đầu năm.
2.1.3. Các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính Phủ đã áp dụng tại Việt Nam
năm 2010.

Thứ nhất, tập trung kiềm chế lạm phát. Chính phủ giao NHNN tiếp tục điều hành
chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng; bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín
dụng khoảng 25% và tổng phương tiện thanh toán khoảng 20%. Điều hành linh hoạt
các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm phù hợp với mục
tiêu phát triển và điều kiện thực tế của thị trường tài chính, tiền tệ và nền kinh tế. Sử
- 11 -
dụng linh hoạt các công cụ lãi suất theo hướng giảm dần để tạo điều kiện giảm mặt
bằng lãi suất thị trường.
Thứ hai, thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán.
NHNN được giao điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt trong mối quan hệ
với lãi suất giữa tiền VN và ngoại tệ, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các
kênh đầu tư khác theo hướng ổn định, góp phần khuyến khích xuất khẩu, hạn chế
nhập siêu, huy động được các nguồn ngoại tệ hiện chưa thu hút được từ DN và các
tầng lớp dân cư, kiều hối, tiền gửi từ bên ngoài vào VN, cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế, tạo điều kiện để tăng dự trữ ngoại hối. Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập
siêu theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng để bảo đảm tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
đạt trên 6% và tỷ lệ nhập siêu khoảng 20% trong năm 2010.
Thứ ba, bảo đảm nguồn lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Bộ Tài
chính được giao tăng cường quản lý, bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả chi ngân sách nhà
nước. Sử dụng linh hoạt các nguồn vốn để bảo đảm yêu cầu chi của ngân sách nhà
nước.
Thứ tư, bảo đảm ổn định, an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng. Chính phủ
giao NHNN kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng; tăng
cường công tác thanh kiểm tra, giám sát để đánh giá được thực trạng hoạt động của
từng ngân hàng thương mại tổ chức tín dụng và của toàn bộ hệ thống ngân hàng, các
tổ chức tín dụng để có phương án xử lý kịp thời khi cần thiết.
Thứ năm, tiếp tục thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh. Thúc đẩy phát triển
sản xuất, xuất khẩu hàng nông sản, chú ý những mặt hàng VN có thế mạnh như gạo,
cà phê, thủy sản
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận

cao trong xã hội.
2.2. Năm 2011.
2.2.1.Thực trạng lạm phát năm 2011.
- 12 -
Chỉ số giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2011 tăng 9,69% so với
quý trước và tăng 23,12% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá sản xuất công nghiệp
quý I/2011 tăng 5,05% so với quý trước và tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ
số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý I/2011 tăng 5,91% so với quý trước
và tăng 15,23% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá xuất khẩu quý I/2011 tăng 4,48%
- 13 -
Ngay quý 1 tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam đã lên đến mức cao nhất trong vòng hai năm
2010 và 2011, với gần 14% trong tháng 3/2011, trong khi chính quyền đang cố gắng
ổn định nền kinh tế sau thời gian dài dành ưu tiên cho việc tăng trưởng.
Tỷ lệ lạm phát trong quý 1 tăng trung bình 12,79% so với cùng kỳ năm ngoái,
chủ yếu là do giá thực phẩm tăng 17%.
Vào thời gian này, chính phủ tuyên bố sẽ theo đuổi “một chính sách tiền tệ chặt
chẽ và thận trọng”, với việc “giảm bớt đầu tư vào khu vực công và quản lý thâm hụt
thương mại” vốn đã lên đến 12,4 tỉ đô la trong năm 2010.
Chính Phủ đã xoa dịu nỗi lo ngại của các nhà đầu tư và nhà kinh tế hồi tháng 2,
thời điểm mà Ngân hàng Nhà nước loan báo phá giá đồng bạc lần thứ tư trong vòng
14 tháng, ở mức 9,3%. Ngân hàng đã tăng một số lãi suất cơ bản và tiến hành hàng
loạt biện pháp nhằm ổn định các chỉ số quan trọng. Ngược lại, chính phủ đã quyết
định tăng giá xăng dầu lên 18% và giá điện lên 15% kể từ ngày 1/3.
Với chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2011 tăng 2,17% so với tháng trước. Trong các
nhóm hàng hóa và dịch vụ, hai nhóm có chỉ số giá tăng cao hơn nhiều mức tăng chung
là: Giao thông tăng 6,69%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,67%. Các nhóm hàng hóa
và dịch vụ có chỉ số giá thấp hơn mức tăng chung nhưng cao hơn 1% là: Hàng ăn và
dịch vụ ăn uống tăng 1,98%
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2011 tăng 6,12% so với tháng 12/2010; tăng
13,89% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý I năm nay

tăng 12,79% so với bình quân cùng kỳ năm 2010.
Chỉ số giá vàng tháng 3/2011 tăng 5,0% so với tháng trước; tăng 4,58% so với
tháng 12/2010; tăng 41,27% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng
3/2011 tăng 3,06% so với tháng trước; tăng 3,70% so với tháng 12/2010; tăng
12,05% so với cùng kỳ năm 2010.
so với quý trước và tăng 9,89% so với cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá nhập khẩu quý
I/2011 tăng 3,38% so với quý trước và tăng 7,99% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số
giá cước vận tải quý I/2011 tăng 5,86% so với quý trước và tăng 11,47% so với cùng
kỳ năm 2010.
Đến quý 2 lạm phát gia tăng mạnh. Trong những tháng đầu năm 2011, chỉ số giá
tiêu dùng CPI tăng rất cao. Giá tiêu dùng tháng 6/2011 so với tháng 12/2010 đã lên
đến 13,29% (so với cùng kỳ tăng đến 20,82%). Tại thời điểm này, lạm phát của Việt
Nam đang cao nhất Châu Á, nhì thế giới, chỉ sau mỗi Venezuela, trong khi Trung
Quốc lạm phát 6,4%, Thái Lan 4%, Indonesia 5,5%, Philippines 4,7%.
Bên cạnh đó, chỉ số giá của tất cả các nhóm hàng trong rổ tính CPI đều tăng so
với cùng kỳ năm 2010, trừ nhóm hàng bưu chính viễn thông giảm 6,43% so với cùng
kỳ.
Lạm phát tăng cao tác động đến xu hướng tăng mạnh của lãi suất huy động và
cho vay trên thị trường. Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành thông tư
02/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam
không vượt quá 14%/năm, nhằm tránh một cuộc đua lãi suất không lành mạnh giữa
các ngân hàng, gây bất ổn cho hệ thống. Tuy nhiên, với trần lãi suất 14%/năm, cùng
với việc tỷ lệ lạm phát so với cùng kỳ đã lên đến 20,82%, lãi suất huy động và cho
vay thực đang ở mức âm. Vì thế, trong thời gian qua các ngân hàng thương mại đã
“xé rào” lãi suất huy động cả VND và USD, huy động vốn với mức lãi suất bình quân
khoảng 17-18%/năm, lãi suất cho vay VND bình quân thực tế khoảng 18,74%/năm,
trong đó lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất đã lên đến 22-25%/năm, lãi suất huy
động USD với mức 3-3,5%/năm, cao hơn mức quy định là 2%. Cuộc chạy đua lãi suất
giữa các ngân hàng nếu không được ngăn chặn triệt để sẽ có thể đem lại những hệ lụy
lớn cho nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, đây là một áp lực lớn đối với cơ quan điều

hành CSTT và hệ thống ngân hàng trong thời gian tới.
Tới quý 3 được tạo đà từ kỳ trước, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2011 tiếp
tục hạ thấp hơn, khi tăng 0,82% so với tháng 8.
Với mức tăng vẫn treo khá cao, chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 so với cuối năm
2010 đã tăng 16,63%, cao hơn tới gần 1 điểm phần trăm so với con số được Tổng cục
- 14 -
Thống kê công bố tháng trước. Sức tăng CPI theo tháng là thách thức lớn với mục
tiêu kiềm chế lạm phát, mới được điều chỉnh lên khoảng 18%.
Suốt từ nửa cuối tháng 7 đến hết tháng 9/2011, một số nguồn dữ liệu cho thấy
Ngân hàng Nhà nước không còn hút ròng qua thị trường mở. Ngược lại, lãi suất qua
đêm thị trường liên ngân hàng đột ngột tăng mạnh từ khoảng cuối tháng 8 đến đầu
tháng 9, giai đoạn này lãi suất từ khoảng 10,25% đã tăng lên đến đỉnh điểm có lúc gần
14%.
Chỉ số giá vàng tháng 9/2011 tăng mạnh 13,14% so với tháng trước; so với cuối
năm ngoái tăng gần 30,5% và so với cách đây một năm tăng trên 61%. Chỉ số giá
USD tương ứng tăng 0,8%; 1,12% và 7,78%.
Quý 4 CPI cả nước tháng 10 tăng 0,36% so với tháng 9. So với tháng 12/2010,
CPI tháng 10/2011 tăng 17,05% ; so với tháng 10 năm 2010 tăng 21,59%. So với
tháng 9, nhóm giáo dục là nhóm có mức tăng lớn nhất, tăng 3,2%.
Tổng cục thống kê vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng CPI cả nước tháng 10 năm
2011. Theo đó,CPI tháng 10/2011 tăng 0,36% so với tháng trước.
Có 3 nhóm giảm so với tháng trước là:
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,03%. Nhóm giao thông giảm 0,13%.
Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,17%
So với tháng 12/2010, CPI tháng 10/2011 tăng 17,05% ; so với tháng 10 năm
2010 tăng 21,59%. 10 tháng đầu năm 2011, CPI cả nước tăng 18,5% so với cùng kỳ
năm 2010.
2.2.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát.
Thứ nhất, xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng
cuối cùng, hay đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng

năm, phải nhập siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp.
Thứ 2, nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa của lạm phát là hiệu quả đầu tư và năng suất
lao động thấp. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR cao và tăng lên qua các
thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 là 5 lần, thời kỳ 2001-2005 lên 5,2 lần, thời kỳ 2006-2010
lên 6,2 lần, cao gấp đôi nhiều nước trong khu vực).
- 15 -
Tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư của Việt Nam từ năm 2003 trở về trước ở
mức trên dưới 57%, từ 2004 đã giảm xuống nhưng vẫn ở mức trên dưới 40%, trong
khi ICOR của khu vực này cao gấp rưỡi hệ số chung của cả nước.
Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/người,
chỉ tương đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một số
nước.
Thứ 3, tổng thu ngân sách/GDP của Việt Nam thuộc loại khá cao (mấy năm nay
đạt trên dưới 28%), nhưng thu từ dầu thô, từ hải quan, thu từ đất đai là những khoản
không trực tiếp phản ánh hiệu quả kinh tế và có xu hướng giảm (thu từ dầu thô năm
2005 chiếm 29,2%, 6 tháng đầu năm 2011 chiếm 13,9%; thu từ hải quan, tương ứng
chiếm 16,7% và 22,5%; thu từ đất đai chiếm khoảng 6-7%).
Bội chi ngân sách/GDP từ năm 2006 trở về trước ở mức thấp, nhưng từ năm
2007 đến nay ở mức cao, tuy đã có xu hướng giảm xuống trong vài năm nay, nhưng
vẫn thuộc loại cao.
Thứ 4, tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp và bộc lộ ra cuối cùng của lạm phát. Tốc
độ tăng dư nợ tín dụng cao gấp nhiều lần tốc độ tăng GDP.
Năm 2010 so với năm 2000, tín dụng cao gấp trên 13,7 lần, trong khi GDP chỉ
gấp trên 2 lần; hệ số giữa tốc độ tăng của tín dụng và của GDP lên đến trên 6,2 lần-
một hệ số rất cao. Do vậy, dư nợ tín dụng/GDP đã ở mức khoảng 125%, cao gấp đôi
con số tương ứng của nhiều nước. Cùng với tăng trưởng tín dụng là tăng trưởng tổng
phương tiện thanh toán, mà tổng phương tiện thanh toán của Việt Nam không chỉ là
tiền đồng mà còn có vàng, có ngoại tệ.
Thứ 5, tình trạng vàng hóa và Đô la hóa khá cao, tác động tiêu cực đối với lạm
phát trên 4 mặt.

- Hút vào đây một lượng vốn lớn của xã hội mà không được đầu tư trực tiếp cho sản
xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với tiền.
- Vàng và USD trở thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương tiện thanh
toán tăng lên.
- Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn giá vàng thế giới, tác động tới
nhập lậu, kéo tỷ giá biến động theo. Khi giá vàng và tỷ giá tăng cao lại tác động đến
tâm lý, đến lòng tin vào đồng nội tệ
- 16 -
- Tỷ giá tăng tuy khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại lạm phát ở trong
nước và đây là yếu tố lạm cho lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của thế giới;
làm tăng nợ quốc gia khi tính bằng VND.
Thứ 6. việc thực hiện lộ trình giá thị trường khi chuyển sang kinh tế thị trường
là tất yếu, đúng hướng, là một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới.
Thứ 7, giá cả thế giới tăng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đối với
lạm phát ở trong nước xét trên các góc độ khác nhau.
- Tỷ lệ xuất, nhập khẩu/GDP của Việt Nam đã tăng nhanh và hiện ở mức khá cao
(năm 1992 đạt 51,6%, năm 1995 đạt 65,4%, năm 2000 đạt 96,5%, năm 2005 đạt
130,8%, năm 2010 đạt 154,4%, khả năng năm 2011 sẽ còn cao hơn)-tức là có độ mở
khá cao, đứng thứ 5 thế giới-nên biến động giá cả trên thế giới sẽ tác động nhiều đến
biến động giá ở Việt Nam hơn các nước khác.
- Giá thế giới tăng sẽ làm cho chi phí đẩy ở trong nước tính bằng VNĐ tăng kép: vừa
tăng do đơn giá tính bằng USD tăng, vừa tăng do tính bằng VNĐ tăng.
Thứ 8, ngoài ra, cũng cần tính đến sự chuyển động của dòng tiền giữa các kênh
đầu tư. Từ quý 2/2007, thị trường chứng khoán sau khi lên đỉnh đã đao xuống mạnh,
làm cho một lượng tiền lớn từ kênh này chuyển sang làm cho giá bất động sản bốc lên
và giá tiêu dùng tăng cao vào cuối năm 2007, đạt đỉnh điểm vào năm 2008.
Giá vàng, giá bất động sản tăng cao vào năm 2009, đầu năm 2010 cũng đã hút
một lượng tiền lớn vào đây, nên CPI cũng tăng chậm lại. Từ cuối 2010, chứng khoán
và bất động sản đều giảm, góp phần làm cho sức ép tăng giá tiêu dùng cao lên.Sự
chuyển động của dòng tiền giữa các kênh cũng góp phần tạo lên sự cộng hưởng và

chia sẻ dòng tiền với thị trường tiêu dùng.
2.2.3. Các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính Phủ đã áp dụng tại Việt Nam
năm 2011.
* Để kiềm chế lạm phát do chi phí đẩy, Việt Nam đã có những biện pháp tích cực
như: giảm thuế nhập khẩu , dãn nợ, bù giá, cho các doanh nghiệp nhập khẩu và sử
dụng nguyên, nhiên liệu nhập khẩu
Tác động: đây cũng được coi là nguyên nhân chính đẩy CPI lên. Các biện pháp
liên quan đến lạm phát chi phí đẩy, trong thực tế ít hiệu lực, vì khi giảm thuế nhập
khẩu còn có độ trễ nhất định về thời gian (không phải giảm thuế nhập khẩu, các sản
- 17 -
phẩm được sản xuất từ các nguyên liệu nhập khẩu này có thể giảm giá ngay được),
mặt khác Nhà nước không kiểm soát được các Doanh nghiệp có giảm giá đúng với
mức độ giảm thuế nhập khẩu, trong khi đó lại có doanh nghiệp tuy được hưởng chính
sách giảm thuế nhập khẩu, nhưng giá sản phẩm sản xuất ra không những không giảm
mà lại còn tăng; và trên một mức độ nhất định, Nhà nước hơi quá kỳ vọng vào biện
pháp này, trong khi đã không tính toán được mức độ sẽ giữ giá hoặc giảm giá không
phải chỉ với một nhóm sản phẩm mà toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, dùng biện pháp
bù giá, đây là biện pháp không lâu dài, không có tính cơ bản vì không phù hợp với
kinh tế thị trường, không làm trên phạm vi rộng (ngân sách Nhà nước không đủ sức
làm việc này), thay vì bằng trợ cấp cho nhân dân các vùng thiên tai, dịch bệnh,
* Các biện pháp thắt chặt tiền tệ
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ngân hàng nhà nước đã ra quyết định
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng them 1%. Như
vậy, việc tiếp tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ sẽ trực tiếp tác động đến chi
phí huy động vốn bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng; lãi suất cho vay ngoại tệ
theo đó dự báo sẽ tăng trong thời gian tới, hạn chế nhất định cầu và tăng trưởng tín
dụng ngoại tệ sau khi đã tăng rất mạnh kể từ đầu năm (trên 18%).
Đây là lần thứ 3 kể từ đầu năm nay, NHNN có quyết định điều chỉnh tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, mỗi lần điều chỉnh tăng thêm 1%. Đây là một trong những động thái
của NHNN nhằm chống tình trạng đô la hóa, giảm áp lực tỷ giá, kiềm chế lạm phát

trong bối cảnh, gần đây, nhiều ngân hàng đẩy lãi suất đồng USD "vượt trần" nhằm thu
hút nguồn vốn huy động.
Kể từ ngày 1/5/2011, lãi suất tái cấp vốn sẽ tăng lên 14%/năm thay cho mức
13%/năm áp dụng từ ngày 1/4 vừa qua. Lãi suất chiết khấu cũng được tăng lên
13%/năm thay cho mức 12%/năm áp dụng từ ngày 8/3/2011.
* Chính phủ ban hành nghị quyết số 11/NQ-CP
Ngày 24/02/2011, chính phủ đã ban hành nghị quyết số 11/NQ-CP về những giải
pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội. Với những nội dung chính sau đây:
- Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, Chính phủ đề nghị Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách
- 18 -
tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và
tổng dư nợ tín dụng. Các hoạt động của ngân hàng thương mại về huy động, cho vay,
tín dụng cần được giám sát chặt chẽ, đảm bảo đúng quy định.
- Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi
ngân sách nhà nước. Chính phủ sẽ điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng kiểm
soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công gồm tăng thu ngân sách vượt dự toán,
giảm chi phí hành chính. Các hạng mục đầu tư sẽ được rà soát chặt chẽ. Cắt bỏ công
trình đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành. Bộ Tài
chính sẽ đảm trách việc rà soát, đề xuất biện pháp chấn chỉnh hoạt động đầu tư của
các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn. Giảm bội chi ngân
sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP. Giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ
nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. Thực hiện rà soát nợ Chính
phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh
của Chính phủ. Bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới
hạn an toàn và an toàn tài chính quốc gia.
- Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu,
sử dụng tiết kiệm năng lượng.
- Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo: Bộ Tài chính chủ động

điều hành linh hoạt giá xăng dầu theo đúng quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP
ngày 15 tháng 9 năm
2009 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, bảo đảm giá xăng dầu trong nước
bám sát giá xăng dầu thế giới.
- Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội: Thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh
xã hội theo các chương trình, dự án, kế hoạch đã được phê duyệt; đẩy mạnh thực hiện
các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ.
Các biện pháp thích hợp tiếp theo sẽ được đề ra tùy thuộc vào diễn biến của lạm phát.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền: Các phương tiện thông tin đại
chúng cần đẩy mạnh thông tin và tuyên truyền một cách chính xác, ủng hộ các chủ
trương,chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh thông tin sai sự
thật có tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã hội.
* Một số biện pháp khác:
- 19 -
- Bảo đảm cân đối cung-cầu hàng hoá, dịch vụ trong mọi tình huống, trước hết
là các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu hàng
sốt giá. Sắp xếp lại tổ chức mạng lưới lưu thông hợp lý, tránh đẩy chi phí lưu thông
tăng cao. Rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và có các giải pháp hỗ trợ
phù hợp về tiếp cận vốn, lãi suất, thuế…cho sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy
sản xuất phát triển để tăng cung cho thị trường, giảm chi phí tạo ra cơ hội giảm sức ép
đẩy giá tăng.
- Thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường, ngăn chặn các hành vi
gian lận thương mại, đầu cơ găm hàng thao túng thị trường giá cả. Tiếp tục thực hiện
các biện pháp quản lý thị trường vàng, thị trường ngoại hối.
- Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; tiếp tục có lộ trình thích hợp để xoá
bao cấp qua giá đối với các loại hàng hoá dịch vụ còn bao cấp và phù hợp với mục
tiêu kiềm chế lạm phát như: điện, xăng dầu, nước sạch, than bán cho điện…
2.3 Năm 2012
2.3.1 Thực trạng lạm phát.
* 6 tháng đầu năm:

- Lạm phát giảm nhanh so với kỳ vọng:
Quả thật, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 6 tháng đầu năm 2012 giảm tốc khá
nhanh, vượt mọi dự báo và tạo sự ngỡ ngàng cho nhiều người.
So với tháng trước, CPI tháng 1/2012 tăng 1% và tháng 2/2012 tăng 1,37%
(bằng mức cùng kỳ năm 2009, nhưng là mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua), tháng
3/2012 CPI chỉ tăng 0,16% (mức tăng thấp nhất trong vòng gần 2 năm qua, tăng
2,55% so với tháng 12/2011 và tăng 14,15% so với cùng kỳ năm trước).
CPI tháng 4/2012 chỉ tăng 0,05% và là tháng thứ 9 liên tiếp tăng chậm lại so với
tháng cùng kỳ (tháng 8/2011 tăng 23,02%; tháng 9/2011 tăng 22,42%; tháng 10/2011
tăng 21,59%; tháng 11/2011 tăng 19,83%; tháng 12/2011 tăng 18,13%; tháng 1/2012
tăng 17,27%; tháng 2/2012 tăng 16,44%, tháng 3/2012 tăng 14,15%). Tổng cộng CPI
trong 4 tháng đầu năm 2012 đã tăng 2,6% so với tháng 12/2011 và tăng 10,54% so
với tháng 4/2011.
CPI tháng 5/2012 tăng trở lại với mức tăng 0,18% so tháng trước và tăng 8,4%
so với cùng kỳ năm trước.
- 20 -
CPI tháng 6/2012 đã giảm 0,26% so với tháng trước, tức sau 38 tháng tăng liên
tục (kể từ tháng 3/2009). So với 12/2011, CPI tháng này còn tăng 2,52%; so với tháng
6/2011 chỉ còn tăng 6,9%, không bằng 1/3 so với đỉnh lạm phát theo năm vào tháng
8/2011.
Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm 2012, mức tăng giá âm duy nhất thuộc về
nhóm dịch vụ bưu chính viễn thông. Nhóm hàng hóa tăng mạnh nhất vẫn là lương
thực, thực phẩm, ăn uống, giáo dục và giao thông. Nhóm hàng tăng thấp là thuốc và
dịch vụ y tế, tiếp đó là văn hóa phẩm, dịch vụ du lịch, giải trí…
Ngoài ra, tỷ giá VND với USD rất ổn định (tăng 0,32%), chỉ số giá vàng khá ổn
định (tăng 16,24%), tức chỉ bằng khoảng 1/2 so với mức tăng cùng kỳ của mấy năm
trước.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, CPI tính trong 6 tháng đầu năm 2012 so với cũng kỳ
năm 2011 với mức tới 12,2% (bảng 1) vẫn là rất cao, thậm chí gấp tới 3 - 4 lần nếu so
với mức lạm phát trung bình của các khu vực và thế giới trong cùng kỳ so sánh.

Bảng 1: Mức tăng CPI các tháng đầu năm 2012
(Đơn vị (%). Nguồn: Tổng cục Thống kê).

- Giảm lạm phát - không hẳn tích cực:
Động thái CPI những tháng đầu năm 2012 nêu trên là kết quả hợp thành của
nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài:
Thứ nhất, nhờ quyết tâm kiềm chế lạm phát xuống 1 con số của toàn bộ máy
chính trị đã được khẳng định và nhất quán thực hiện khá quyết liệt từ trên xuống dưới
trong suốt thời gian năm qua, nhất là ngay từ những tháng đầu năm 2012.
- 21 -
Thứ hai, nhờ bối cảnh lạm phát thấp trên toàn thế giới và xu hướng giảm giá liên
tục nhiều mặt hàng nhạy cảm đối với CPI của Việt Nam như giá xăng, dầu, giá gạo và
giá một số hàng tiêu dùng, xa xỉ khác nhập khẩu.
Thứ ba, còn do dòng ngoại tệ nước ngoài chảy vào khá nhiều, trong khi có sự
giảm nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu, buôn lậu và thanh toán quốc tế (cán cân thanh toán
quốc tế dự báo thặng dư khoảng 7,5 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2012 nhờ vào sự
cải thiện của cán cân thương mại). Sự thành công tăng mua vào ngoại tệ và sự “nóng”
trở lại của trái phiếu Chính phủ (điều ngược với tình trạng cuối năm 2011) giúp cải
thiện dự trữ ngoại tệ (tăng 30% so với đầu năm) trong khi điều hòa, rút khỏi được lưu
thông một lượng khá lớn tiền tung ra cho mua ngoại tệ
Thứ tư, sự hạn chế lượng tín dụng vào lưu thông trái với mong đợi cũng góp
phần giảm áp lực tổng cầu, kiềm chế CPI (mức tăng trưởng tín dụng âm 0,28% tính
đến 31/5/2012 và chỉ tăng vẻn vẹn có 0,17% tính đến 12/6/2012 so với đầu năm
2012).
Thứ năm, việc giảm các lãi suất và những nhân tố thị trường khác cũng giúp
giảm áp lực tăng CPI.
Thực tế kinh tế Việt Nam những tháng đầu năm 2012 cho thấy những tín hiệu
khả quan nhất định: Về giảm nhập siêu (trong 4 tháng đầu năm 2012, tổng nhập siêu
khoảng 176 triệu USD, bằng khoảng 0,53% tổng kim ngạch xuất khẩu, mức thấp hơn
nhiều so với cùng kỳ nhiều năm gần đây). Cải thiện chất lượng thu hút vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài (FDI) cả về nguồn vốn (tăng vị thế các nguồn FDI từ các nước
công nghiệp phát triển) và lĩnh vực thu hút (tăng FDI vào các ngành công nghiệp chế
biến, giảm dòng vào các dự án bất động sản). Đấu thấu thành công trái phiếu Chính
phủ khả quan hơn nhiều so với năm trước (đấu thầu thành công tới 5.900/7.000 tỷ
đồng phiên ngày 16/2/2012 và trong quý 1/2012 đã phát hành được trên 9.000 tỷ đồng
trái phiếu Chính phủ). Cải thiện về sản xuất điện (tăng 15,1%), khai thác dầu thô
(tăng 10,3%), phát triển nông nghiệp, tính thanh khoản ngân hàng (NH).
Mặc dù nợ xấu tính đến cuối quý 2/2012 đã lên tới 10% so với mức 3,4% trong
quý 1/2012, nhưng các tổ chức tín dụng có tình hình tài chính yếu kém đang bị NH
Nhà nước kiểm soát chặt chẽ để tái cơ cấu. Các tổ chức này chỉ chiếm chưa đến 10%
trong họat động của toàn hệ thống NH. Qua một thời gian chấn chỉnh, thị phần của họ
- 22 -
hiện chỉ khoảng 6%. Nhờ đó, ngày càng nhiều NH thương mại ổn định được thanh
khoản. Tổng cầu xã hội đang có xu hướng tăng do cung tiền và tín dụng đều bắt đầu
tăng nhanh hơn kể từ quý 2/2012.
Bên cạnh đó, thực tế cũng cho thấy đang đậm dần lên một số dấu hiệu bất ổn
kinh tế đáng lo ngại: Tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm chỉ đạt 4,38%. Nhập khẩu
các nguyên vật liệu đầu vào của nhóm hàng chủ lực trong kim ngạch xuất khẩu, như
dệt may, giày dép và có độ phụ thuộc cao vào nguyên vật liệu nhập ngoại trong các
tháng đầu năm 2012 giảm mạnh, cho thấy khó khăn trong tìm kiếm thị trường xuất
khẩu thời gian tới.
Huy động vốn của hệ thống NH tăng cao hơn cho vay, cho thấy rõ xu hướng
người dân đang tiết giảm chi tiêu, DN hạn chế vay vốn đầu tư kinh doanh. Thêm vào
đó, khả năng tín dụng ảo (nhất là cho vay để đảo nợ và để tăng tổng dư nợ) có thể xảy
ra, khi các NH coi đó là một cách để giảm tỷ lệ nợ xấu, tránh bị đưa vào diện kiểm
soát đặc biệt.
Đáng chú ý, bức tranh toàn cảnh DN năm 2012 đang đậm dần xu hướng tăng
nhanh trên phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương số lượng các DN trong hầu hết các
lĩnh vực kinh doanh, với đủ loại hình và quy mô, gặp khó khăn, phải giải thể, dừng
hoạt động có thời hạn hoặc không phát sinh doanh thu, thua lỗ, phá sản, nợ nần chồng

chất và thu hẹp sản xuất - kinh doanh, hàng tồn kho lớn, thị trường xuất khẩu khó
khăn trong khi sức mua và thị phần trong nước thu hẹp Nhiều DN không nộp thuế,
bỏ trốn hoặc không thực hiện nổi các nghĩa vụ tài chính kéo theo nhiều hệ lụy kinh tế
- xã hội ở cả cấp vĩ mô và vi mô.
Tình trạng vay "nóng" hay xiết nợ hàng loạt hiện diễn ra khá phổ biến. Mối lo nợ
đọng và phá sản gia tăng ở mọi ngành và DN, dù là đại gia, hay DN nhỏ và vừa tiểu
thủ công nghiệp, nhất là trong ngành kinh doanh bất động sản, thép và chế biến thủy
sản. Không ít DN chuyển từ sản xuất qua làm thương mại, nhập hàng bán ở nội địa,
lúng túng và không đủ nguồn lực tái cấu trúc theo chiều sâu như kêu gọi của Chính
phủ và đòi hỏi của thực tiễn cạnh tranh thị trường ngày càng gay gắt…
* 6 tháng cuối năm:
- Triển vọng lạm phát cuối năm 2012:
- 23 -
Mặc dù các nhà đầu tư trong và ngoài nước đánh giá cao triển vọng trung và dài
hạn của nền kinh tế. Song, làn sóng DN trong nước phá sản, dừng hoạt động và không
nộp thuế sẽ tiếp tục gia tăng vì không chịu nổi chi phí vốn và sản xuất cao từ đó dễ
làm tăng áp lực thất nghiệp và an sinh xã hội, giảm thu nhập, giảm sức mua thị trường
và căng thẳng cân đối ngân sách Nhà nước như một vòng xoáy lặp lại với mức độ
ngày càng cao.
Điều đó, đến lượt mình, có thể làm tăng bất ổn kinh tế - xã hội vĩ mô do nguy cơ
vỡ nợ DN và NH, tăng sức ép thất nghiệp và an sinh xã hội, tăng các tranh chấp kinh
tế và lao động, cũng như nguy cơ sụt giảm mạnh động lực tăng trưởng, thậm chí đứt
gẫy các chuỗi giá trị gia tăng trong guồng máy tái sản xuất trong nước, cũng như quốc
tế (ví dụ, đánh bắt hải sản với chế biến và xuất khẩu hải sản…); cũng như tăng làn
sóng thâu tóm các DN và thị trường Việt Nam của các nhà đầu tư ngoại trong bối
cảnh các DN Việt Nam đang đối diện với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ bên
ngoài.
Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục đối diện với sức ép lạm phát do khả năng tiếp
tục mất giá các đồng tiền chủ chốt trên thế giới như là hệ quả tiêu cực từ cuộc khủng
hoảng nợ công và suy giảm kinh tế toàn cầu. Sức ép tăng CPI còn gia tăng do xu

hướng ngày càng đậm dần hơn việc chuyển từ thắt chặt sang từng bước nới lỏng
chính sách tài chính - tín dụng cả trên quy mô thế giới (được Mỹ cổ súy và Đức nhân
nhượng), cũng như trong nước.
Ngoài ra, tình trạng tham nhũng, lãng phí và sự chi phối của lợi ích nhóm chưa
được đẩy lùi, trong khi cần những nhu cầu chi phí tài chính to lớn cho hỗ trợ DN vượt
khó, ổn định vĩ mô và bảo vệ chủ quyền quốc gia cũng tạo thêm sức ép bất ổn cho
những thành quả kiềm chế lạm phát vừa qua của Việt Nam.
Đồng thời, trong thời gian tới vẫn tiềm tàng làn sóng tăng giá hàng thiết yếu,
như giá điện, sữa; giá một số mặt hàng hoá mỹ phẩm, nhất là xà bông cục, nước rửa
tay, chăm sóc cơ thể, tẩy rửa, băng vệ sinh, một số đồ dùng và thực phẩm giành cho
trẻ em; nước sinh hoạt ở nhiều đô thị lớn; và có thể cả giá dầu mỏ gắn với xu hướng
gia tăng nhu cầu tiêu thụ xăng dầu cho phát triển kinh tế và tiêu dùng…
Những nhân tố trên khiến mục tiêu kiềm chế CPI xuống mức 1 con số (dự báo có
thể ở mức 6 - 8%) trong năm 2012 dễ trở nên mong manh hơn, nếu thiếu các nỗ lực
- 24 -
2.3.2 Nguyên nhân gây ra lạm phát.
2.3.3 Các giải pháp của Chính phủ đã áp dụng
Tại Nghị quyết vừa ban hành, Chính phủ nhận định tình hình kinh tế - xã hội
tháng 10 và 10 tháng đầu năm 2012 tiếp tục có những chuyển biến tích cực, đúng
hướng. Các giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục phát huy tác
dụng; chỉ số giá tiêu dùng tháng l0 chỉ tăng 0,85% so với tháng 9; lãi suất huy động
tín dụng giảm, cơ cấu tín dụng chuyển biến tích cực cho các lĩnh vực ưu tiên; tỷ giá
cơ bản ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng. Xuất khẩu tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10 tăng 5,8% so với tháng 9, hàng tồn kho có xu
hướng giảm dần
- Đối với NHNN, Chính phủ yêu cầu NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền
tệ linh hoạt, phù hợp với các cân đối vĩ mô, phối hợp với chính sách tài khóa giúp
doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay cho sản xuất, kinh doanh nhưng không để lạm
phát tăng trở cao trở lại. Ưu tiên vốn cho phát triển nhà ở xã hội cho người có thu
nhập thấp.

- Bên cạnh đó, NHNN cần tiếp tục thực hiện các biện pháp tăng cường kỷ cương
trong lĩnh vực ngân hàng; tập trung xử lý các ngân hàng yếu kém. Tăng cường dự trữ
ngoại tệ, đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất, kinh doanh và nhân dân về ngoại tệ trong
những tháng cuối năm 2012; Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hoàn thiện Đề án xử
lý nợ xấu, báo cáo Chính phủ cho ý kiến trước khi trình Bộ Chính trị.
- Chính phủ nhất trí cho rằng chưa điều chỉnh chỉ tiêu, phải kiên trì giữ vững các
mục tiêu đã đề ra cho năm 2012: chủ động điều hành kiềm chế lạm phát ở mức
khoảng 7 – 8%, ổn định vĩ mô, bảo đảm tăng trưởng hợp lý ở mức khoảng 6%.
- Chính phủ phải triển khai đồng bộ, quyết liệt, linh hoạt và có hiệu quả các giải
pháp, chính sách đề ra trong Nghị quyết số 01 và Nghị quyết số 13 của Chính phủ.
Đồng thời, khẳng định sẽ từng bước hạ lãi suất tín dụng, giải quyết nợ xấu, hỗ trợ DN
xử lý hàng tồn kho, kích thích tổng cầu của nền kinh tế
- Tiếp tục thực hiện hiệu quả, đồng bộ các giải pháp giải quyết hàng tồn kho,
nhất là qua xúc tiến thương mại ở thị trường ngoài nước và thị trường nội địa. Cùng
với đó, tạo điều kiện thuận lợi nhằm khuyến khích sản xuất đối với những lĩnh vực,
- 25 -

×