Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

TIỂU LUẬN: Công tác quản lý chất lượng xi măng PC 30 tại công ty xi măng Hải Phòng pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.27 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN:

Công tác quản lý chất lượng xi
măng PC 30 tại cơng ty xi
măng Hải Phịng


Lời mở đầu
Hiện nay, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực
và thế giới, vậy phải làm sao để nước ta có thể có một vị thế tương xứng với các
nước khác. Điều đó có nghĩa là nước ta phải có năng lực cạnh tranh trên thị trường
thế giới mà yếu tố quan trọng, cơ bản nhất của năng lực cạnh tranh chính là chất
lượng của hàng hoá và dịch vụ.
“Chất lượng” đã, đang và sẽ trở thành vấn đề sống còn của bất cứ một doanh
nghiệp nào nếu muốn tồn tại, phát triển trong nền kinh tế hiện nay và đặc biệt là
nền kinh tế tri thức trong tương lai không xa. Nhưng chất lượng khơng tự nhiên
mà có nên nó địi hỏi các doanh nghiệp phải có sự đầu tư, chính vì vậy không chỉ
các doanh nghiệp mà cả nhà nước rất quan tâm chú ý tới công tác quản lý chất
lượng. Nhờ có quản lý chất lượng mà xét về tầm vi mơ, nó mang lại hiệu quả kinh
doanh cao hơn cho doanh nghiệp nói riêng, xét ở tầm vĩ mơ, nó mang lại chỗ đứng
ổn định, vững chắc cho một quốc gia trên phạm vi thế giới nói chung.
Với mong muốn hiểu sâu hơn về môn học “Quản lý chất lượng hàng hoá và
dịch vụ” mà em được học tại trường Đại học Ngoại Thương cũng như tìm hiểu
thực tế cơng tác quản lý chất lượng hàng hố và dịch vụ của các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay để từ đó có cái nhìn tồn diện hơn về mơn học nên em viết bài tiểu
luận: “Công tác quản lý chất lượng xi măng PC 30 tại công ty xi măng Hải
Phòng”. Qua đây em rút ra được những ưu điểm cần phát huy và những nhược
điểm cần khắc phục để ngày càng nâng cao chất lượng của hàng hoá và dịch vụ
Việt Nam, thúc đẩy nhanh quá trình đất nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực
và thế giới.
I-/



Giới thiệu về cơng ty Xi măng Hải Phịng
Nhà máy Xi măng Hải Phòng được thành lập vào 25-12-1899 tại thành phố

cảng Hải Phòng và Xi măng Hải Phòng nhãn hiệu “Con rồng” cũng chính thức ra
đời vào năm đó. 100 năm kinh nghiệm sản xuất và quản lý cùng với việc áp dụng
tiến bộ khoa học kĩ thuật công nghệ mới vào sản suất, sản phẩm PC30,


PC40,P600, Xi măng bền sun phát cao, Xi măng trắng do công ty sản suất cũng
đã được sử dụng để xây dựng các cơng trình trọng điểm như tồn quốc như: Lăng
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Cầu Thăng Long, Thuỷ điện Hồ
Bình... và các cơng trình xây dựng dân dụng khác. Xi măng Hải Phịng đã đạt
được nhiều huy chương vàng trong hội chợ Quốc tế hàng cơng nghiệp Việt Nam,
được người tiêu dùng tín dụng và sử dụng rộng rãi trên thị trường trong nước và
khu vực do Xi măng PCB30, PCB40... có độ dẻo cao, dễ thi công và rất phù hợp
với điều kiện khí hậu ở Việt Nam và khu vực.
Giờ đây khi nhìn lại chặng đường lịch sử 100 năm đầy gian nan thử thách
nhưng cũng đầy tự hào.
100 năm xây dựng và trưởng thành thì già nửa thời gian (1899-1955) cơng ty
nằm trong tay thực dân Pháp. Chính sách đàn áp bóc lột dã man của Tư bản thực
dân đã đẩy những người cơng nhân khốn khổ và gia đình họ đến chỗ bần cùng.
Đồng lương rẻ mạt, cúp phạt và hàng trăm thứ bất công đã đè lên đầu những ngưịi
cơng nhân hết thế hệ này đến thế hệ khác.
Không để thực đân Pháp ngày càng lấn tới, phải vùng dậy đấu tranh tìm cho
mình một con đường sống nên những cuộc đấu tranh tự phát của công nhân đã nổ
ra vào các năm 1912, 1923, 1925. 8-1-1930 là ngày đánh đấu mốc lịch sử của toàn
ngành Xi măng, công nhân cùng với lực lượng vũ trang đã đấu tranh và giành
thắng lợi, cuối cùng ta tiếp quản nhà máy, chấm dứt cuộc đời nô lệ và tủi nhục.
12-5-1955 Nhà máy chính thức thuộc về tay giai cấp cơng nhân. 8-1955

chính phủ ra quyết định khơi phục lại nhà máy. mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do
chiến tranh để lại nhưng với lịng nhiệt tình và hăng say sáng tạo quyết tâm đổi đời
của cán bộ Đảng viên, cơng nhân viên cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các
chuyên gia Liên Xô, ngày 7-11-1955 nhà máy Xi măng Hải Phịng lại nhả khói,
các lị và máy móc được phục hồi. Và nhà máy đã xây dựng lắp đặt thêm 2 lò mới,
đưa sản xuất hàng năm đều vượt mức kế hoạch. Năm 1964 đạt gần 60 vạn tấn (gần
gấp đơi sản lượng năm 1939- năm có sản lượng cao nhất dưới thời Pháp cai trị).
Nhà máy đã sản xuất được tất cả các chủng loại Xi măng từ thấp tới cao, đã xuất
khẩu sang các nước trong khu vực Đơng Nam á và góp phần quan trọng vào quá


trình xây dựng Miền Bắc Xã hội chủ nghĩa, giải phóng Miền nam thống nhất đất
nước.
4-1967 địch đánh phá Thành phố và nhà máy, Nhà máy nằm trong vùng tam
giác lửa nên đã phải chịu hàn nghìn tấn bom đạn, vượt lên trên tất cả những khó
khăn, cơng nhân ngày đêm vẫn bám máy, sửa chữa khôi phục lại để sản xuất. Khi
địch buộc phải ngừng ném bom miền bắc thì nhà máy đã nhanh chóng sữa chữa để
kịp thời sản xuất, cung cấp Xi măng để khôi phục kinh tế đất nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Sau năm 1975 đất nước thống nhất, cán bộ công nhân viên nhà máy đã nhận
thức sâu sắc trách nhiệm của mình là nhà máy duy nhất ở miền bắc lúc đó nên phải
gồng mình lên vượt qua mọi thử thách với khẩu hiệu “Hãy sản xuất nhiều Xi măng
cho Tổ quốc” để mau chóng hàn gắn vết thương chiến tranh. Chính những năm
tháng này nhà máy đã sản xuất được Xi măng P400, P500, P600 và nhiều chủng
loại Xi măng khác đáp ứng kịp thời những nhu cầu cấp bách đặt ra.
10 năm đổi mối cũng là thời kì thử thách khốc liệt nhất. Trước đây ở Việt
Nam chỉ có duy nhất một nhà máy Xi măng Hải Phòng đén nay đã có thêm rất
nhiều nhà máy mới như Xi măng Chinh phong, Thủ Đức, Bỉm Sơn, Thanh Hoá...
và hàng chục nhà máy địa phương khác, nhà máy Xi măng Hải Phòng lại đứng
trước sự lựa chọn và thách thức mới. Vói truyền thống sẵn có nên tồn bộ nhà máy

đẽ từng bước vượt lên chính mình, vượt lên trên hết khó khăn để tồn tại và phát
triển như ngày nay. Chất lượng Xi măng không ngừng được nâng cao, công suất
các thiết bị chính đến nay đã vượt xa cơng suất thiết kế, sản lượng hành năm đều
vượt kế hoạch đề ra. Chính vì vậy đời sống cơng nhân viên được đảm bảo, trật tự,
kỉ cương an ninh được giữ vững.
Năm 1998 nhà máy chính thức đổi tên thành Cơng ty Xi măng Hải Phịng và
cho đến nay Cơng ty đã 8 lần được khen thưởng huân chương lao động, 72 cá
nhân tập thể dược tặng huân chương lao động. Ngày 29-1-1996 Nhà nước phong
tặng các cán bộ công nhân viên chức cơng ty Xi măng Hải Phịng danh hiệu cao
q Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Thực hiện chủ trương cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước của Đảng, thực
hiện chủ trương chuyển đổi sản xuất của Thủ tướng chính phủ nhằm đảm bảo mơi
trường trong khu vực theo luật định đồng thời nhằm đổi mới công nghệ để nâng
cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường
Công ty đang triển khai xây dựng một nhà máy Xi măng Hải Phịng mới có cơng
suất hiện đại với sản lượng 1.400.000 tấn/năm tại Tràng Kênh (Minh Đức Thuỷ
Ngun Hải Phịng). Tại mặt bằng nhà máy cũ cơng ty vừa sản xuất vừa từng bước
xây dựng thành một khu cơng nghiệp sạch với 3 dự án: Xí nghiệp sản xuất bao bì,
xí nghiệp vận tải và sửa chữa thuỷ, trường đào tạo công nhân kĩ thuật cho ngành
Xi măng đã và đang được đi vào hoạt động trong năm 1999. Các dự án tiếp theo
đang được tìm kiếm.
Trong những chặng đường tiếp theo Cơng ty sẽ cịn gặp nhiều những khó
khăn mới và những thách thức mới nhưng với lịng quyết tâm và tự hào với cơng
ty của cán bộ cơng nhân viên thì Xi măng Hải Phịng nhãn hiệu “Con rồng xanh”
sẽ còn tiếp tục bay cao và bay xa hơn nữa.
II-/ Tiêu chuẩn cơ sở sản xuất Xi măng xám PC30
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh cũng như trong cuộc sống bất kì hoạt
động nào cũng cần phải có một “mốc” để đánh giá xem kết quả đạt được có phù

hợp hay khơng. Nếu như khơng có một tiêu chuẩn cụ thể nào thì mọi doanh nghiệp
sẽ tự do sản xuất, sản phẩm dù chất lượng như thế nào thì cũng được đem ra ngồi
thị trường tiêu thụ vì khơng có một căn cứ chuẩn mực để xác định sản phẩm đó là
chính phẩm hay phế phẩm. Và như vậy người tiêu dùng sẽ phải gánh chịu những
thiệt hại đó, ở phạm vi cá nhân có thiệt hại ít nhưng xét trên phạm vi Quốc gia thì
khơng phải là nhỏ. Do vậy trên thế giới khơng một quốc gia nào lại khơng có bộ
“Tiêu chuẩn hoá” cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước mình.
Tiêu chuẩn hố là một lĩnh vực hoạt động Quản lý chất lượng nói riêng,
Quản lý kinh tế nói chung nhằm soạn thảo và ban hành các tiêu chuẩn cho từng
lĩnh vực để đưa hoạt động của các ngành kinh tế kĩ thuật nghiệp vụ đạt kết quả
cao. ở Việt Nam tiêu chuẩn hố khơng nằm ngồi mục đích chính là ổn định và
không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ tạo điều kiện nâng cao


năng lực cạnh tranh hàng hoá dịch vụ - mục tiêu mà mọi doanh nghiệp muốn đạt
tới. Trước những năm 90, hoạt động tiêu chuẩn hoá ở Việt Nam được tiến hành
theo những quy định của điều lệ tiêu chuẩn hoá được ban hành kèm theo Nghị
định 141-HĐBT ngày 24/8/1982 và hệ thống tiêu chuẩn hoá nước ta chia thành 4
cấp:
 Tiêu chuẩn Nhà nước (TCVN)
 Tiêu chuẩn ngành (TCN)
 Tiêu chuẩn tỉnh, lãnh thổ (TCV)
 Tiêu chuẩn cơ sở (TCCS)
Để phù hợp với cơ chế quản lý mới, cho đến nayhệ thống tiêu chuẩn nước ta
chia thành 2 cấp đó là Tiêu chuẩn Nhà nước (TCVN) và Tiêu chuẩn cơ sở (TCCS)
nhằm đơn giản hoá thủ tục mà vẫn đạt hiệu quả quản lý cao.
Ban lãnh đạo công ty Xi măng Hải Phòng căn cứ vào Tiêu chuẩn Nhà nước
và tình hình sản xuất kinh doanh ở cơng ty mình đã soạn thảo ra bộ Tiêu chuẩn cơ
sở sản xuất xi măng xám PCB30 yêu cầu các đơn vị trong tồn cơng ty căn cứ vào
các tiêu chuẩn để tổ chức sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm, quản lý kinh tế

kĩ thuật và kinh doanh của công ty có hiệu quả. Bộ tiêu chuẩn cơ sở này có hiệu
lực từ ngày 01/06/1999 và thay thế cho tất cả các bộ tiêu chuẩn trước đó.
Trong bộ tiêu chuẩn này đề ra các chỉ tiêu kĩ thuật từ khâu chọn nguyên liệu
đến khi sản xuất ra thành phẩm là xi măng PCB30 để có được sản phẩm tốt phục
vụ người tiêu dùng.
Để có thể sản xuất ra sản phẩm xi măng PCB30 đạt tiêu chuẩn địi hỏi cán bộ
cơng nhân viên cơng ty phải hết sức có trách nhiệm trong từng cơng việc, chỉ cần
ở một khâu nào đó xảy ra sai sót, hỏng hóc thì sẽ gây ảnh hưởng tới chất lượng xi
măng vì sản xuất xi măng là theo một dây chuyền liên tục như các mắt xích liên
kết với nhau.
Bắt đầu từ khâu nguyên liệu cần phải có:
 Đất sét


 Đá vơi
 Đất quỵ khê, Pháp cổ
 Quặng sắt
Ngồi ra cịn cần có các khống và phụ gia, phụ gia điều chỉnh:
 Quặng CaF2
 Phụ gia cho xi măng xám: xỉ tuyển nhiệt điện Phả Lại, xỉ lò cao
Thái Nguyên, đá Silic
 Thạch cao
 Nhiên liệu
Đối với từng nguyên liệu có u cầu và phân tích cụ thể.
Quan trọng hơn cả là q trình gia cơng, chế biến những nguyên, nhiên, vật
liệu trên để tạo ra xi măng. Chính cơng đoạn này có cả sự kết hợp của cơng nhân
và kĩ thuật cơng nghệ nên tiêu chuẩn hố ngày càng được chú trọng hơn. Có rất
nhiều yêu cầu đề ra trong khâu này nhằm hạn chế tối đa những khuyết tật có thể
làm ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm.
Để xem xét một cách cụ thể Tiêu chuẩn cơ sở về quy trình sản xuất xi măng

PCB30 em xin trình bày chi tiết trong bảng phụ lục.
Tóm lại, Tiêu chuẩn hoá là một trong ba mặt của hoạt động quản lý chất
lượng bao gồm tiêu chuẩn hoá, đo lường, quan sát chất lượng đã giúp cho Công ty
Xi măng Hải Phịng nói riêng và các doanh nghiệp nối chung hoạt động ổn định,
cơ cấu sản xuất hợp lý, loại bỏ được những sản phẩm sai lệch tiêu chuẩn, khơng
phù hợp, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, nâng cao uy tín của doanh nghiệp, tạo
lịng tin đối với khách hàng. Chất lượng sản phẩm luôn được nâng cấp, cải tiến
phù hợp với các tiêu chuẩn cao hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường
để đạt tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Thực hiện tốt
bộ tiêu chuẩn này chính là cơ sở, nền tảng quan trọng để cơng ty có thể tiến tới áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000.


III-/ Tình hình sản xuất trong những năm qua
Cơng ty xi măng Hải Phòng đến nay đã trải qua một chặng đường khá dài,
hơn một thế kỉ trôi qua với bao thăng trầm cùng lịch sử, Công ty cũng đã tiến cùng
bước tiến của nền kinh tế Vịêt Nam từ khi cịn lạc hậu, gặp vơ vàn khó khăn, trở
ngại trong các cuộc chiến tranh đến những bước khởi sắc trong đầu thập kỉ 90.
Năm 1986, khi Nhà nước thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, cũng như các doanh nghiệp khác trong cả nước, Cơng ty xi măng
Hải Phịng gặp rất nhiều khó khăn, thử thách tưởng như không trụ lại được, tất cả
đều mới mẻ và bỡ ngỡ. Trước đây, các doanh nghiệp Nhà nước đều được Nhà
nước bao cấp chỉ việc sản xuất theo kế hoạch được giao, đảm bảo số lượng, không
cần quan tâm đến chất lượng của sản phẩm, lãi lỗ doanh nghiệp khơng cần quan
tâm vì đã có ngân sách Nhà nước bù lỗ, doanh nghiệp sản xuất theo kiểu giao nộp
sản phẩm, không quan tâmđến hiệu quả kinh doanh. Khi thực hiện đổi mới, các
doanh nghiệp phải tự hạch tốn kinh doanh, tự tìm đầu vào và đầu ra cho sản xuất,
cho nên nhiều doanh nghiệp quen lối sản xuất cũ, khơng thích ứng kịp thời đã phải
tun bố phá sản. Cơng ty xi măng Hải Phịng khi đó là Nhà máy xi măng Hải

Phịng khơng tránh khỏi những khó khăn ban đầu, điểm yếu nhất của Nhà máy
thời kì đó là vốn ít, sản phẩm nghèo nàn về chủng loại, đơn điệu về mẫu mã, sản
phẩm của các doanh nghiệp khác thì ồ ạt tràn vào chiếm lĩnh thị trường.
Để đứng vững và phát triển, lãnh đạo Nhà máy không thụ động chờ đợi, ỷ lại
mà đoạn tuyệt với cách làm ăn cũ, chủ động tìm cách cải tiến công nghệ chế tạo,
thay đổi mẫu mã bao bì, tạo ra nhiều mặt hàng mới chất lượng tốt, giá cả hợp lý
đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Để đảm bảo uy tín của Nhà máy, lãnh đạo
Nhà máy đã kiên quyết không đưa ra thị trường các sản phẩm có chất lượng thấp,
khơng đảm bảo, ảnh hưởng xấu tới cơng trình, cũng như mạnh dạn phá huỷ những
lô xi măng kém phẩm chất cho dù nó chiếm một phần lớn số vốn lưu động cịn eo
hẹp của Nhà máy. Bên cạnh đó, Nhà máy cịn có những hình thức khuyến mãi, ưu
đãi đối với những khách hàng quen, mua với số lượng lớn, trong thời gian dài.
Nhờ cách làm này mà Nhà máy đã từng bước lấy lại được lòng tin của khách hàng,


giành được thị trường trước sự cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm xi măng cùng
loại.
Đi liền với đầu tư đổi mới cơng nghệ có chiều sâu và có chọn lọc Công ty đã
làm tốt việc đào tạo và đào tạo lại, nâng cao trình độ quản lý điều hành và nghiệp
vụ chuyên môn cho cán bộ, công nhân viên, đội ngũ kĩ sư trẻ đã được đào tạo
chính quy ở trong và ngồi nước. Nhờ vậy, Cơng ty đã tiếp nhận, quản lý, vận
hành an toàn và hiệu quả các thiết bị kĩ thuật công nghệ tiên tiến, hạn chế tối đa
những tai nạn có thể xảy ra do tình trạng quá cũ của nhà xưởng và dây chuyền sản
xuất để làm ra các sản phẩm đảm bảo chất lượng.
Đến hết năm 1999, Công ty đã sản xuất được 40 nghìn tấn xi măng trắng
PCW30; 360 nghìn tấn xi măng xám trong đó có 20 nghìn tấn xi măng PC40 và
340 nghìn tấn xi măng PCB30.
Sản phẩm xi măng PCW30 và PC40 liên tục đạt huy chương vàng tại hội chợ
quốc tế hàng công nghiệp Việt Nam từ năm 1992 đến nay.
 Xi măng PC40 phù hợp Tiêu chuẩn Việt Nam 2682:1999

 Xi măng PCW30 phù hợp Tiêu chuẩn Việt Nam 5691:1992
 Xi măng PCB30 phù hợp Tiêu chuẩn Việt Nam6060:1997
Sản phẩm xi măng Hải Phịng khơng những được tiêu thụ trên thị trường Hải
Phòng mà còn lưu thơng trên các thị trường khác như Thái Bình, Quảng Ninh,
Vĩnh Phú, Nam Định, đặc biệt, xi măng trắng rất được ưa chuộng trên thị trường
các tỉnh phía Nam.
Nhiều cơng trìnhquan trọng của cả nước đã sử dụng xi măng Hải Phịng như
Lăng Bác, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Nhà máy thuỷ điện Hồ Bình...Ngồi ra xi
măng Hải Phịng được dung nhiều trong trang trí,sản xuất các loại gạch bơng,
galito, bả tường... các cơng trình vĩnh cửu như cầu, đường, nhà cao tầng và xây
dựng dân dụng...
Dưới đây là một số thơng tin về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty
trong những năm qua.


Bảng 1: Tình hình sản xuất kinh doanh của Cơng ty

Đơn vị: triệu VND

Chỉ tiêu

Năm 1996

Năm 1997

Năm 1998

Năm 1999

Chi phí sửa chữa

-SC lớn

725

455

10.999

11.191

-SC thường xuyên

145

96

110

131

Doanh thu

432.582

322.907

287.925

328.146


Lợi nhuận

15.053

14.659

13.492

12.274

568

594

562

547

1.200

1.068

1.057

1.106

0.01

<0.01


0

0

Giá thành
(nghìn đ/ tấn)
Lương bình qn
(nghìn đ/tháng)
Tỷ lệ phế phẩm (%)

Phân tích bảng số liệu:
Chi phí sửa chữa lớn năm 1997 giảm khá nhiều so với năm 1996, nhưng
trong năm 1998 và 1999 Công ty đã phải chi một khoản rất lớn do máy móc bị hư
hỏng lớn. Chi phí sửa chữa thường xun nhìn chung khơng nhiều.


Doanh thu từ năm 1996 đến 1998 giảm dần, nguyên nhân là do sản lượng sản
xuất giảm vì nhu cầu thị trường giảm và thời gian này có sự cạnh tranh gay gắt của
Cơng ty xi măng Chinfon Hải Phịng. Năm 1997 giảm 30 % so với 1996, năm
1998 giảm 11% so với 1997. Đến năm 1999, do chất lượng xi măng Hải Phòng
ngày càng được nâng cao, nhu cầu trên thị trường tăng hơn hẳn so với những năm
trước nên Công ty đã tăng sản lượng và doanh thu năm 1999 tăng 14% so với năm
1998, đây là kết quả bước đầu đáng ghi nhận của Công ty xi măng Hải Phòng.
Xu hướng này đang tiếp tục được duy trì trong năm 2000 do xi măng Hải
Phịng đã thực sự khẳng định được chất lượng của mình trên thị trường.
Giá thành sản xuất cũng như tỷ lệ phế phẩm đã giảm theo từng năm do kết
quả của việc tập trung vốn đầu tư cho sửa chữa, nâng cấp máy móc, trang thiết bị
và tay nghề người cơng nhân. Giá thành sản xuất đã giảm 2,7% trong năm 1999;
5,4% trong năm 1998.
Tiền lương của cán bộ công nhân viên Công ty luôn được đảm bảo ổn định.

Qua những thông tin rất cơ bản như trên, chúng ta có thể nhận thấy tình hình
sản xuất kinh doanh của Cơng ty trong những năm vừa qua cịn gặp rất nhiều khó
khăn, tuy nhiên Cơng ty đã từng bước khắc phục những khó khăn này và dần cải
thiện tình hình. Chính vì vậy, những dấu hiệu khả quan đã bắt đầu xuất hiện, tình
hình sản xuất kinh doanh cũng bắt đầu có những thay đổi mới. Năm 2000, năm bắt
đầu một thiên niên kỉ mới sẽ mở ra cho Công ty một tưong lai tươi sáng hơn, tốt
đẹp hơn.
IV-/ Kế hoạch năm 2000
1.

Mục tiêu của Cơng ty
Bất kì một doanh nghiệp nào khi bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh đều

phải đặt ra mục tiêu cho mình để phấn đấu và vươn tới. Mục tiêu chính là cái đích
mà doanh nghiệp mong muốn đạt được. Chính vì vậy, khi xác định mục tiêu cho
doanh nghiệp mình, ban lãnh đạo ln phải xem xét tình hình thực tế của doanh
nghiệp để đề ra mục tiêu sao cho phù hợp với khả năng của doanh nghiệp tránh
tình trạng mục tiêu là cái xa vời chỉ đề ra cho đẹp. Để làm được điều này không


phải là dễ dàng. Với tinh thần quyết tâm và hăng say lao động, cán bộ công nhân
viên Công ty xi măng Hải Phịng ln nỗ lực phấn đấu thực hiện những mục tiêu
mà ban lãnh đạo Công ty đề ra.
Những mục tiêu chung địi hỏi phải có một q trình thực hiện lâu dài vì nó
mang ý nghĩa rất lớn đối với Công ty. Mục tiêu chung là ba mục tiêu sau:
Mục tiêu chất lượng: đóng vai trị quan trọng nhất vì tơn chỉ của Cơng ty là
sản xuất ra sản phẩm xi măng có chất lượng tốt phục vụ người tiêu dùng. Yếu tố
chất lượng luôn được Công ty đặt lên hàng đầu, không một hoạt động nào của
Cơng ty lại khơng tính đến vấn đề chất lượng của sản phẩm. Chỉ cần chất lượng xi
măng không tốt là người tiêu dùng sẽ “không chấp nhận trả tiền” điều đó sẽ dẫn

tới sự diệt vong của Cơng ty. Đây là mục tiêu mang tính chiến lược nên mọi thành
viên trong Cơng ty đã đồng lịng nhất trí hướng tới mục tiêu chất lượng của Công
ty như sau:
Sản xuất đạt và vượt mức 360 nghìn tấn sản phẩm các loại.
100% cán bộ và công nhân kĩ thuật được đào tạo ngắn hạn để nâng cao khả
năng vận hành, quản lý chất lượng và áp dụng các đề tài nghiên cứu khoa học vào
sản xuất.
Giảm thiểu tới mức khơng cịn khiếu nại của khách hàng về chất lượng sản
phẩm trên cơ sở ổn định nguyên nhiên liệu, phối liệu và quy trình vận hành cơng
nghệ trong q trình sản xuất.
Giữ vững và mở rộng thị phần đối với sản phẩm xi măng Hải Phòng ở các
địa bàn truyền thống.
Quyết tâm thực hiện thành công hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
ISO 9002 vào cuối năm 2000.
Mục tiêu lợi nhuận: mọi doanh nghiệp dù sản xuất cái gì, ở đâu, bằng
phương pháp nào thì cung khơng nằm ngồi mục tiêu thu được nhiều lợi nhuận.
Công ty không thể tồn tại được nếu liên tục thua lỗ. Cơ sở chủ yếu của lợi nhuận
chính là chất lượng sản phẩm nên khi đạt mục tiêu chất lượng cũng có nghĩa là
mục tiêu lợi nhuận của Công ty đã được thực hiện. Với mục tiêu quản lý chất


lượng như trên, Công ty mong muốn lợi nhuận của mình liên tục tăng trong thời
gian tới.
Mục tiêu ổn định và phát triển: xuất phát từ mục tiêu chất lượng và mục tiêu
lợi nhuận, Cơng ty xi măng Hải Phịng đề ra mục tiêu cuối cùng là ổn định và phát
triển sản xuất. Mặc dù Công ty xi măng Hải Phòng sẽ chỉ tồn tại đến năm 2004,
nhưng những mục tiêu này nhằm tạo tiền đề, cơ sở vững chắc cho nhà máy mới
phát triển. Chính những cán bộ quản lý có trình độ chun mơn cao, những cơng
nhân có tay nghề vững chắc và lịng tin sẵn có của khách hàng đối với xi măng
nhãn hiệu “Con rồng xanh” sẽ là nguồn vốn ban đầu quan trọng và không thể thiếu

được đối với nhà máy mới. Trong một tương lai gần, xi măng Hải Phòng sẽ xuất
hiện rộng khắp trên các tỉnh bạn cũng như có thể vươn ra thị trường thế giới trên
cơ sở đảm bảo tốt những thị trường truyền thống.
2.

Chính sách chất lượng
Để đạt những mục tiêu đề ra, Cơng ty xi măng Hải Phịng đã đề ra chính sách

chất lượng của mình, tạo lập con đường đi tới thành quả cuối cùng là chất lượng
sản phẩm. Một mục tiêu chất lượng tốt mà chính sách chất lượng tồi thì là một sự
khập khiễng và tất yếu sẽ dẫn đến kết quả tồi. Vì vậy giữa mục tiêu chất lượng và
chính sách chất lượng ln phải có sự phù hợp nhất định.
Chính sách chất lượng là những phương hướng, nguyên tắc, quy chế phục vụ
cho việc giải quyết các vấn đề chất lượng, vấn đề sống cịn của Cơng ty.
Tơn trọng và đảm bảo lợi ích người tiêu dùng là trọng tâm chỉ đạo chiến lược
của Cơng ty xi măng Hải Phịng.
Cán bộ cơng nhân viên Công ty cam kết:
Thường xuyên nắm bắt kịp thời các thông tin về chất lượng sản phẩm và dịch
vụ nhằm thoả mãn nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
Không ngừng cải tiến hệ thống quản lý chất lượng, ứng dụng tiến bộ khoa
học kĩ thuật vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Khơng ngừng nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ cho cán bộ công
nhân viên.


Tồn thể cán bộ cơng nhân viên Cơng ty xi măng Hải Phịng quyết tâm thực
hiện tốt chính sách chất lượng đã cam kết.
Chính sách chất lượng đưa ra phương hướng hết sức ngắn gọn, súc tích
nhưng khi triển khai và thực hiên nó thì là cả một vấn đề lớn địi hỏi phải có sự
đồng tâm, hiệp lực của tập thể cán bộ công nhân viên Công ty, cùng hướng về mục

tiêu chất lượng để lao động, sản xuất, tất cả vì lợi ích của Cơng ty trong đó có lợi
ích của các cá nhân.
3.

Kế hoạch năm 2000 và tình hình sản xuất 9 tháng đầu năm
Với đặc thù là Nhà máy “thế kỉ” qua hơn 100 năm, lại trải qua chiến tranh

phá hoại, với công nghệ lạc hậu, thiết bị xuống cấp không được đầu tư lớn mà chỉ
sửa chữa mang tính tình thế để duy trì và ổn định sản xuất cho đến năm 2004. Do
vậy, Tổng công ty xi măng Việt Nam đã giao kế hoạch, định hướng có tính đến
các đặc thù trên.
Với nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên chức của Công ty, sự hỗ trợ,
giúp đỡ của các công ty thành viên, với kinh nghiệm 100 năm là công ty đầu đàn
trong ngành xi măng Việt Nam nên 9 tháng qua, mặc dù cịn rất nhiều khó khăn về
máy móc trang thiết bị, cạnh tranh về giá thành với các đơn vị sản xuất kinh doanh
xi măng, đặc biệt phải đối đầu trực tiếp với Công ty xi măng Chinfon Hải Phịng,
nhưng Cơng ty đã hồn thành tốt kế hoạch được giao. Quý 4 là mùa khô và là mùa
xây dựng, nhu cầu về xi măng của Tổng công ty xi măng Việt Nam sẽ tăng hơn
33% so với năm 1999. Đây là cơ hội tốt cho Công ty xi măng Hải Phịng hồn
thành và hồn thành vượt mức kế hoạch được giao.


Bảng 2: Tình hình sản xuất 9 tháng đầu năm 2000

Chỉ tiêu

Kế hoạch
2000

Tình hình SX


Mức thực hiện
kế hoạch

Klinker (tấn)

340.000

252.716

74,33%

Xi măng bao (tấn)

330.000

257.398

78,00%

335.000

300.529

89,71%

Khối lượng tiêu thụ
(tấn)
Doanh thu


195,4

(tỉ đ)
Nộp ngân sách

11,0

(tỉ đ)
Lợi nhuận

12,2

(tỉ đ)
Giá thành
(nghìn đ/ tấn)

550

541

Như vậy trong 9 tháng đầu năm 2000, trên cơ bản, Cơng ty hồn thành kế
hoạch đặc biệt chỉ tiêu tổng khối lượng sản phẩm tiêu thụ đã đạt 89,71% kế hoạch
giao cho cả năm. Trên thực tế, trong gần một tháng trở lại do một số trục trặc của
các nhà máy xi măng khác và điều quan trọng hơn là người tiêu dùng tin vào chất
lượng của xi măng Hải Phòng mà lượng xi măng Hải Phòng được tiêu thụ một
cách liên tục, sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Xi măng trong kho liên tục xuất
ra để phục vụ, đây là một dấu hiệu đáng mừng và hết sức lạc quan cho tương lai
của Công ty. Nắm bắt được cơ hội này, Công ty xi măng Hải Phòng đã tập trung
dồn sức sản xuất, nâng cao năng suất và sản lượng hơn nữa, trên cơ sở này, giá
bán xi măng cũng được tăng theo nhu cầu của thị trường góp phần tăng lợi nhuận

của Công ty.


Bên cạnh những thành tựu đạt được như vậy, do những nguyên nhân khách
quan cũng như chủ quan, Công ty xi măng Hải Phịng khơng thể tránh khỏi một số
vướng mắc gây khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Cơng ty. Đó là
vấn đề cạnh tranh và chất lượng của xi măng.
Trước hết, về vấn đề cạnh tranh. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch
hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đồng nghĩa với thị trường tự do, cạnh tranh lành
mạnh giữa các doanh nghiệp với nhau. Nhìn chung cạnh tranh tự do trên thị trường
đem lại nhiều ích lợi cho doanh nghiệp mà tiêu biểu là buộc các doanh nghiệp phải
tự tìm cách hồn thiện mình, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, phục
vụ tốt người tiêu dùng, tạo lợi thế so với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, chính
cạnh tranh lại gây ra khó khăn cho những doanh nghiệp quá “già” như xi măng
Hải Phịng. Sở dĩ như vậy là vì doanh nghiệp “già” thì tính năng động, nhạy bén
kém, bất cứ sự chuyển đổi nào cũng cần phải có thời gian nhất là đối với một cơng
ty có quy mơ tương đối như Cơng ty xi măng Hải Phịng. Bên cạnh đó, các máy
móc thiết bị đều có tuổi thọ quá cao, chi phí sửa chữa quá lớn trong điều kiện
nguồn vốn eo hẹp. Trong khi đó, các doanh nghiệp mới thành lập với sức trẻ của
mình ln vận động sáng tạo, chuyển đổi, thích ứng nhanh chóng với điều kiện
mới.
Đứng về phía người tiêu dùng thì cạnh tranh đã đem lại nhiều cơ hội lựa
chọn, người tiêu dùng có thể tự do lựa chọn những gì mình ưa thích, những sản
phẩm tốt nhất, có chất lượng cao nhất, mà chi phí cho nó lại thấp nhất. Vì thế, lợi
ích của người tiêu dùng được nâng lên rõ rệt, không như trước đây họ buộc phải
nhận sự phân phối của Nhà nước mà khơng có quyền lựa chọn.
Vấn đề mà Cơng ty phải đối mặt trong q trình cạnh tranh là vấn đề giá, giá
thành sản xuất cao dẫn đến giá bán cao. Giá thành cao là do công nghệ lạc hậu, lực
lượng lao động đông (trên 3200 công nhân).

Trên thị trường Hải Phòng xi măng Chinfon đang là đối thủ cạnh tranh số
một của Công ty với công nghệ tiên tiến, hiện đại, chính sách giá cả mềm dẻo, linh


hoạt, chính sách khuyến mại với quy mơ lớn... nên đã gây rất nhiều khó khăn cho
việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
Song với chất lượng truyền thống của “con rồng xanh”, Công ty tiến hành
tiếp cận với nông dân trong chính sách “Đường-trường-trạm” và “Cơng nghiệp
hố kênh mương”. Vì thế, Cơng ty vẫn chiếm lĩnh được 40% thị phần Hải Phịng.
Vấn đề nâng cao sức cạnh tranh ln là mối quan tâm hàng đầu của Công ty,
Công ty xi măng Hải Phịng ln xác định chất lượng là nhân tố quyết định đối với
việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
Vấn đề thứ hai mà Công ty xi măng Hải Phịng cần quan tâm khắc phục đó là
một số tồn tại nhỏ về chất lượng của sản phẩm như: trọng lượng bao chưa thật sự
ổn định, trọng lượng phần lớn vượt quá mức 50 kg/bao, như vậy vơ hình chung đã
gây thiệt hại cho Cơng ty. Thứ hai, độ mịn của xi măng còn dao động nhiều vì
máy nghiền xi măng của Cơng ty là máy nghiền bì, chu trình hở, khơng có máy
phân li. Hai tồn tại trên cơ bản đều xuất phát từ nguyên nhân khách quan là máy
móc q cũ và lạc hậu.
Cơng ty hiện nay đang tiến hành áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn ISO 9002, quản lý chỉ đạo tốt khâu phối liệu, tăng cường công tác vận
hành và công tác tư tưởng làm cho công nhân ý thức được trách nhiệm, tự giác cao
trong công việc, tăng cường kiểm tra tốt khâu đầu vào và các quá trình kiểm tra
theo tiêu chuẩn ISO 9002.
V-/ Một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm xi măng Hải Phịng
1.

Các giải pháp mang tính tình thế, ngắn hạn
1.1 Đầu tư đổi mới và sửa chữa máy móc thiết bị, cơng nghệ có chọn lọc và có


trọng điểm
Theo quyết định của thủ tướng chính phủ, Cơng ty chỉ tồn tại đến năm 2004
nên nguồn vốn đầu tư cho Công ty là rất ít, khơng thể đáp ứng việc đổi mới một
cách toàn diện và đồng bộ. Mặt khác, máy móc thiết bị của Cơng ty đã q cũ.
Cho nên để đảm bảo chất lượng sản phẩm Công ty phải sửa chữa kịp thời những
thiết bị nào bị hư hỏng có khả năng làm ảnh hưởng đến chất lượng xi măng.


Vấn đề này là một khó khăn rất lớn đối với Cơng ty. Đối với các bộ phận lị
nung và nghiền tháo, những bộ phận quan trọng, phải thường xuyên kiểm tra đẻ có
biện pháp sửa chữa kịp thời đáp ứng điều kiện dây chuyền sản xuất liên tục, không
ảnh hưởng đến kế hoạch và đảm bảo chất lượng cho người tiêu dùng.
1.2 Phòng ngừa và kiểm tra các khâu trong quá trình sản xuất
Đây là biện pháp hết sức quan trọng để góp phần nâng cao chất lượng của xi
măng Hải Phịng. Để có thể đầu tư sửa chữa đổi mới cơng nghệ một cách có hiệu
quả thì cán bộ nhân viên công ty phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát, phát hiện
những hư hỏng và sửa chữa kịp thời. Hơn nữa do nhà máy với bề dày lịch sử trên
100 năm, máy móc thiết bị có tuổi thọ quá cao nên việc kiểm tra càng trở nên cần
thiết.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, cùng tiến tới nền kinh tế tri thức
trong tương lai, để nâng cao chất lượng sản phẩm, người ta cần coi trọng phịng
ngừa hơn là kiểm tra. Phịng ngừa có nghĩa là phải thực hiện kiểm soát trong tất cả
các khâu của q trình sản xuất, từ đó phát hiện những sai sót để kịp thời sửa chữa,
giảm thiểu phế phẩm do những sai sót đó gây nên.
1.3 Nâng cao trình độ và ý thức quản lý chất lượng của cán bộ lãnh đạo
Như ông Joshph Jusan, tiến sĩ về quản lý chất lượng người Mỹ đã nói: “Đa
số (80%) các vấn đề chất lượng xuất phát từ những sai lầm do quản lý yếu kém
chứ khơng phải do trình độ lao động không cao trong các phân xưởng sản xuất”.
Vai trị của những nhà quản lý trong cơng tác quản lý chất lượng là rất quan trọng.
Muốn các thành viên trong công ty thực hiện tốt các biện pháp để nâng cao chất

lượng sản phẩm thì trước hết các cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu thực hiện những
kế hoạch, phương pháp mà mình đề ra. Cũng theo ơng Joshph Jusan thì “lối thốt
cho những hoạt động khắc phục 90% sẽ xuất phát từ những công việc cụ thể và chỉ
có 10% từ những lời hơ hào chứ khơng thể ngược lại được”. Vì vậy muốn quản lý
chất lượng thành cơng thì các lãnh đạo phải có kế hoạch cụ thể cho từng cơng
việc, từng giai đoạn vì “chất lượng khơng phải là kết quả ngẫu nhiên mà nó cần
phải được kế hoạch hoá”. Nghĩa là ban lãnh đạo phải:
 Xác định những mục tiêu cụ thể cần đạt được.


 Xây dựng các kế hoạch để đạt được mục tiêu này.
 Phổ biến rõ ràng và chính xác về trách nhiệm để đạt được mục tiêu.
 Khen thưởng đối với cá kết quả tốt đẹp đã đạt được.
Đánh giá vai trị của người lãnh đạo, ơng Ichiro Inưmarư, chủ tịch tập đồn
khách sạn Imperial Nhật Bản đã nói: “Điều tiên quyết để một doanh nghiệp đạt
hiệu quả cao trong hoạt động của mình là teong doanh nghiệp đó phải thiết lập
được tinh thần làm việc hợp tác hoặc sự thoả thuận giữa mọi người trong tập thể.
Tôi thường so sánh ban lãnh đạo doanh nghiệp như một đội bóng bầu dục. Ơng
chủ tịch, phó chủ tịch và các ơng giám đốc điều hành là các cầu thủ của hàng tiền
đạo, các quản đốc và các thuộc hạ của họ tạo thành hàng trung vệ và hậu vệ. Kết
quả của trận đấu sẽ phụ thuộc vào những cú sút của các tiền đạo”.
1.4 Biện pháp khuyến khích, khen thưởng
Cơng ty phải luôn quan tâm đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của các
thành viên trong Công ty. Khi người lao động yên tâm về cuộc sống của mình thì
họ sẽ làm việc hăng say với tinh thần trách nhiệm và hiệu quả cao, đồng thời tránh
được các hiện tượng tiêu cực như: làm ẩu, bỏ việc giữa chừng, ăn bớt nguyên vật
liệu...Như vậy sẽ tạo điều kiện tốt để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Bên cạnh đó, Cơng ty cần có những hoạt động khen thưởng kịp thời cho
những cá nhân có thành tích tốt trong việc thực hiện u cầu cơng việc hoặc có
những ý kiến sáng tạo để họ đóng góp tích cực hơn cho tồn bộ Cơng ty. Các biện

pháp đó có thể là tăng lương, khen thưởng, đề bạt họ lên những vị trí cao hơn
trong Công ty.
Công ty không chỉ cần những biện pháp khuyến khích trong nội bộ mà cịn
nên có những chương trình khuyến mại đối với khách hàng. Ví dụ, đối với khách
hàng quen thuộc, mua với số lượng lớn thì có thể giảm giá, giảm chi phí vận
chuyển, tặng q... Đối với những khách hàng mới, Cơng ty có thể hướng dẫn chi
tiết cách sử dụng, bảo quản xi măng, cung cấp cá mẫu cơng trình có sử dụng xi
măng Hải Phịng... Chính những hoạt động này sẽ tạo nên mối quan hệ tốt đẹp


giữa Công ty và khách hàng, đồng thời giúp Công ty thu thập được những ý kiến
đóng góp từ phía khách hàng đối với sản phẩm xi măng Hải Phòng.
1.5 Biện pháp tun truyền
Cơng ty phải tích cực tun truyền tới tận người tiêu dùng về chất lượng,
mẫu mã của sản phẩm xi măng Hải Phịng để khách hàng có thể phân biệt được
hàng thật, hàng giả, hàng kém phẩm chất, để họ có thể kịp thời phát hiện và thơng
báo cho Cơng ty để Cơng ty có những biện pháp xử lý kịp thời. Như vậy, Công ty
sẽ bảo vệ được uy tín của mình trên thương trường.
2.

Các biện pháp mang tính lâu dài
Bên cạnh những biện pháp có thể áp dụng, thực hiện ngay và có thể mang lại

hiệu quả nhanh chóng, để nâng cao chất lượng sản phẩm, Cơng ty xi măng Hải
Phịng cịn cần áp dụng những biện pháp mang tính lâu dài. Để áp dụng những
biện pháp này địi hỏi phải có thời gian và nguồn kinh phí đầu tư lớn, nhưng nó sẽ
đem lại hiệu quả cao hơn rất nhiều và sẽ tạo lập tính ổn định và bền vững đối với
chất lượng của xi măng Hải Phịng trong tương lai. Nhóm biện pháp này rất thích
hợp khi Cơng ty xi măng Hải Phịng chuyển sang cơ sở mới với cơ sở vật chất,
trang thiết bị hiện đại tại Tràng Kênh, Hải Phòng vào năm 2004.

2.1 Biện pháp giáo dục, đào tạo
Trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, con người ln đóng vai trị trung
tâm, có ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm. Vì vậy, để có được những sản
phẩm với chất lượng cao thì khơng thể thiếu nguồn nhân lực có trình độ.
Khác với trước đây, đội ngũ cơng nhân Nhà máy thường là khơng qua trường
lớp đào tạo, thì hiện nay để chuẩn bị cho việc nhà máy mới chính thức đi vào hoạt
động Công ty đang tiến hành đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công nhân cho từng
phần việc, từng khâu sản xuất. Các công nhân trước khi được tuyển vào làm việc
tại Công ty phải trải qua kỳ thi trình độ tay nghề. Thơng qua việc đào tạo, người
lao động sẽ sử dụng tốt các trang thiết bị, dây truyền công nghệ hiện đại nhập từ
nước ngoài.


Song song với công tác đào tạo này, phải đặc biệt chú trọng tới việc đào tạo
đội ngũ cán bộ quản lý. Một ban lãnh đạo kém “chất lượng” thì không thể chỉ đạo
sản xuất ra những sản phẩm chất lượng được.
Phải đào tạo không chỉ về nghiệp vụ chuyên mơn mà cịn cần chú trọng giáo
dục cả về tư tưởng chính trị, văn hố, nghĩa là giáo dục đào tạo đồng bộ và tồn
diện.
Cơng ty cần thực hiện phương châm: Nâng cao chất lượng sản phẩm phải
xuất phát từ nâng cao chất lượng con người.
2.2 Triệt để thực hiện chuyển đổi mơ hình quản lý chất lượng
Trước đây, cũng như các doanh nghiệp trong cả nước, Nhà máy xi măng Hải
Phịng áp dụng mơ hình quản lý chất lượng theo kế hoạch hố tập trung, khơng
quan tâm đến vấn đề chất lượng mà cốt sao chỉ cần đảm bảo đủ số lượng theo chỉ
tiêu được giao. Hiện nay, Công ty đang vận dụng mơ hình quản lý chất lượng mới
theo tiêu chuẩn quốc tế. So sánh hai mơ hình này, chúng ta sẽ thấy tầm quan trọng
và tính tất yếu phải chuyển đổi.

Mơ hình cũ


Mơ hình mới


1. Cơ cấu cồng kềnh với nhiều cấp

1. Cơ cấu gọn, cải tiến thông tin và

bậc
2. Quan hệ nhân sự dựa trên chức

chia sẻ quyền lực
2. Coi trọng năng lực con người

vụ, địa vị
3. Ra quyết định dựa trên kinh

3. Trên cơ sở dữ kiện, phân tích,

nghiệm, đơi khi là cảm tính

đánh giá, có tham khảo ý kiến
chun gia

4. Người lãnh đạo ra mọi quyết

4. Có cơ chế uỷ quyền quyết định,

định


hỗ trợ, khuyến khích nhân viên
quyết định và chịu trách nhiệm
với công việc

5. Người quản lý kĩ thuật, kiểm sốt

5. Nhân viên làm việc theo các

theo hình thức thứ bậc
6. Người lãnh đạo giữ bí mật thơng

nhóm tự quản, tự kiểm sốt
6. Chia sẻ thơng tin

tin
7. Trốn tránh trách nhiệm, khơng
coi trọng ý kiến người khác

7. Chú trọng tìm ngun nhân dẫn
đến sai sót, và khuyến khích sáng
tạo

Từ sự so sánh trên, xét một cách khách quan, muốn nâng cao chất lượng sản
phẩm thì Cơng ty cần có những biện pháp nhằm thiết lập một mơ hình quản lý phù
hợp. Sự phù hợp ở đây mang ý nghĩa tương đối. Khơng thể có một mơ hình nào là
hồn tồn phù hợp với các loại hình doanh nghiệp mà cơ sở vật chất và các yếu tố
quản lý cịn có khoảng cách quá xa so với mặt bằng các doanh nghiệp trên thế
giới. Trong khi đó, với chính sách tự do hoá thương mại và yêu cầu hội nhập quốc
tế, việc cạnh tranh trên thị trường trong nước và mở rộng ra thị trường nước ngoài



như là nhu cầu sống cịn của doanh nghiệp nói chung và của cơng ty xi măng Hải
Phịng nói riêng thì sự phù hợp cịn phụ thuộc vào nỗ lực chủ quan, khả năng sáng
tạo và lòng quyết tâm của mọi thành viên trong Công ty để biến cái chưa hồn
tồn phù hợp thành cái phù hợp. Mơ hình phù hợp khơng chỉ là phù hợp với bên
trong mà cịn phải phù hợp với bên ngoài. Đây sẽ là bước cơ sở để tạo tiền đề cho
công ty tiến tới áp dụng mơ hình chất lượng tiên tiến, hiện đại trên thế như ISO,
TQM.
2.3 Đầu tư cải tiến và đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm
Chúng ta đang sống trong thời đại thông tin, khoa học-kĩ thuật phát triển như
vũ bão, nếu Công ty không đổi mới cải tiến mà chỉ “đứng im” thì sẽ bị tụt hậu.
Nhưng theo quan điểm cũ cho rằng, muốn cải tiến nâng cao chất lượng thì phải có
một lượng vốn rất lớn. Mặt khác, việc theo dõi, tính tốn, và đánh giá hiệu quả cụ
thể của chi phí do chất lượng đem lại cịn gặp nhiều khó khăn. Những trở ngại này
làm cho doanh nghiệp có nguồn tài chính eo hẹp đã ngần ngại quan tâm đến chất
lượng hoặc “cố tình phớt lờ” việc xây dựng cho mình một chương trình cải tiến,
nâng cao chất lượng sản phẩm làm ảnh hưởng đến lợi ích người tiêu dùng.
Theo quan điểm hiện nay, thì những chi phí này là những gì làm cho sản
phẩm phù hợp với nhu cầu và mục đích sử dụng của khách hàng. Các chuyên gia
hàng đầu thế giới về chất lượng cho rằng “chất lượng là cái cho không”, “chất
lượng tự trả cho nó”. Khi ta đầu tư cho đổi mới, cải tiến cơng nghệ thì sẽ làm tăng
chất lượng, dẫn tới tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường, nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu
dùng, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nội dung của việc đầu tư cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm bao gồm:
Tăng chi phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh việc áp dụng
khoa học kĩ thuật vào q trình sản xuất.
Tăng chi phí cho việc đánh giá đầu vào, vật tư, nguyên liệu và các hoạt động
dịch vụ khác.
Người lao động cũng tham gia quản lý chất lượng, công nhân là người trực

tiếp phát hiện, xử lý kịp thời các sự cố và đưa ra những sáng kiến, giải pháp thiết


thực nhất. Để khai thác tốt mặt này, phải tăng đầu tư cho đào tạo và bồi dưỡng cho
công nhân những hiểu biết về chất lượng và quản lý chất lượng, biến quản lý chất
lượng thành tự quản lý chất lượng của công nhân.
Tổ chức hội thảo rút kinh nghiệm đưa ra các sáng tạo, ý kiến mới, các đề
xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
Lập các quỹ khen thưởng, khuyến khích các thành viên trong cơng ty hay
những khách hàng có những đóng góp xác đáng trong đổi mới, cải tiến, nâng cao
chất lượng sản phẩm.
2.4 áp dụng phong trào Kiểm sốt tồn cơng ty
Trong xu thế mới, các cơng ty ln có xu hướng thay thế kiểm tra bằng kiểm
soát và phải kiểm soát trên diện rộng, kiểm sốt đồng bộ và tồn diện khơng chỉ
trong dây chuyền sản xuất mà cả trong bộ phận hành chính. Trong suốt vòng tròn
chất lượng từ marketing đến marketing đều phải thực hiện kiểm sốt. Kiểm sốt
khơng chỉ dừng lại ở một phòng ban nào mà phải trở thành phong trào trong tồn
Cơng ty.

1. Marketing
2. Thiết kế
3. Mua vào
4. Sản xuất thử
5. Tiêu thụ thử
6. Sản xuất quy mô
7. Kiểm tra, đóng gói, bảo quản
8. Phân phối
9. Tiêu dùng, sử dụng
10. Dịch vụ sau bán hàng
11. Thanh lý


Theo ông ishi Kawa, một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về chất
lượng. Khi nhìn nhận về phong trào này đã nhận xét: “Những kết quả về quản lý


chất lượng tồn cơng ty là đáng kể khơng chỉ vì lý do đảm bảo chất lượng sản
phẩm cơng nghiệp mà cịn vì những đóng góp to lớn của chúng đối với toàn bộ
hoạt động sản xuất kinh doanh của cơng ty nói chung”. Điều này có nghĩa là chất
lượng không chỉ dừng lại ở chất lượng sản phẩm mà còn bao gồm cả chất lượng
dịch vụ hậu mãi, chất lượng của hoạt động quản lý, chất lượng hoạt động của tồn
cơng ty và chất lượng của mối quan hệ giữa các thành viên trong công ty.
2.5 áp dụng và phổ biến phong trào 5S trong cơng ty
“5S” có nguồn gốc từ Nhật Bản, một trong những nước có chất lượng hàng
hố đứng hàng đầu thế giới. Đó là phong trào phát triển nguồn nhân lực, nâng cao
chất lượng sản phẩm nhằm mục đích tăng trưởng doanh nghiệp. “5S” là Seiri
(phân loại), Seiton (chỉnh đốn), Seise (quét dọn), Seiketsu (sạch sẽ), Shitsuke (tự
giác). Để giữ nguyên tên “5S” của phong trào thì ta có thể hiểu là:
Sàng lọc, sắp xếp, sạch sẽ, săn sóc và sẵn sàng. Cơng ty nên phổ biến ngay từ
ngày đầu tới mỗi công nhân, thành viên công ty phải hiểu được “5S” là bắt đầu
phải “sàng lọc”, loại bỏ những gì khơng cần thiết, sau đó “sắp xếp” lại để khơng
mất thời gian cho việc tìm kiếm, tiếp đó là giữ vệ sinh nơi làm việc bằng cách qt
dọn, kiểm tra định kì máy móc, duy trì sự “sạch sẽ” bằng việc lập kế hoạch “săn
sóc” đến nó. Bốn “S” trên được lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi tạo thành thói
quen và tạo nên “S” thứ 5 là sẵn sàng làm những công việc được giao một cách tự
giác. Phong trào “5S” này sẽ tạo cho công nhân Công ty cách làm việc khoa học,
có hiệu quả, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh
cho Công ty. Phong trào được thực hiện càng sâu rộng thì hiệu quả kinh doanh
càng được nâng cao.
2.6 Tiến tới tham gia vào Hội đồng doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có hội đồng này nhưng trong tương lai gần sẽ

được triển khai vì hoạt động này mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, góp
phần nâng cao chất lượng sản phẩm và danh tiếng của doanh nghiệp.
2.7 Xây dựng các nhóm chất lượng (Quality Control Circles)
Đây là biện pháp đã dược áp dụng rất thành công ở các nước rong khu vực,
đặc biệt là ở Nhật Bản. Đối với Công ty xi măng Hải Phòng, ban lãnh đạo sẽ chia


×