Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.05 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Khoa: MỸ THUẬT CƠNG NGHIỆP

Mơn: Luật bản quyền
Đề tài:
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VÀ THỰC
TIỄN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
TRONG LUẬT BẢN QUYỀN

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 12 năm 2021


MỤC LỤC

Lời mở đầu
Nội dung
I. Tổng quan về luật bản quyền
1. Khái niệm sở hữu trí tuệ
2. Khái niệm bản quyền
3. Trách nhiệm pháp lý về luật bản quyền
4. Vai trị của trách nhiệm pháp lý về sở hữu trí tuệ
II. Cơ sở pháp về trách nhiệm pháp lý của luật bản quyền
1. Cơ sở pháp lý của luật bản quyền
2. Biện pháp dân sự
3. Biện pháp hành chính
4. Biện pháp hình sự
III. Thực tiễn pháp lý về trách nhiệm pháp lý của luật bản quyền
1. Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
2. Nguyên nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
3. Giải pháp nâng cao trách nhiệm pháp lý
Kết luận


Tài liệu tham khảo


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, không chỉ các nước phát triển mà tồn thế giới đều dần hiểu
được vai trị quan trọng của vấn đề bản quyền và trách nhiệm pháp lý về
quyền bản quyền. Tài sản trí tuệ khơng chỉ là một trong những yếu tố cơ bản
tạo nên giá trị cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường mà còn là vấn đề
kinh tế và pháp lý trọng tâm của nhiều nước cũng như trong thương trường,
các tranh chấp quốc tế.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông
tin, việc sao chép, quảng bá nội dung thơng tin dưới các dạng hình thức văn
bản, hình ảnh, âm thanh,… ngày cảng trở nên dễ dàng tồn tại hành động vi
phạm lớn đối với lĩnh vực phần mềm hay bản quyền trong văn học, nghệ
thuật. . Xu thế hội nhập cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức nước ngoài, bảo đảm được
lợi ích quốc gia, đồng thời tơn trọng các Điều ước quốc tế về quyền bản
quyền mà Việt Nam đã tham gia.
Hệ thống Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam được ra đời và phát triển trong
khoảng 20 năm trở lại đây, kể từ khi Việt Nam chuyển mình sang nền kinh tế
thị trường. Sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung bởi
Luật Sở hữu trí tuệ 2009 và Luật Sở hữu trí tuệ 2019 đã đánh dấu những bước
phát triển quan trọng và thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong hoạt
động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và trách nhiệm pháp lý về bản
quyền đối với cá nhân và tổ chức.
Tuy nhiên, việc trách nhiệm pháp lý về các sản phẩm trí tuệ ở Việt Nam
cịn quá lỏng lẻo và không được phổ biển rộng rãi dẫn đến tình trạng vi phạm
lớn và nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến nhiều phương diện. Vì vậy, việc hiểu
những vấn đề về trách nhiệm pháp lý luật bản quyền trở nền cần thiết để tránh
các tổn thất không đáng có.



NỘI DUNG
I. Tổng quan về luật bản quyền

1. Khái niệm sở hữu trí tuệ:
Sở hữu trí tuệ là việc sở hữu các tài sản trí tuệ – những kết quả từ hoạt
động từ tạo của con người . Đối tượng của loại sở hữu này là các tài sản phi
vật chất nhưng trị kinh tế , tinh thần to lớn góp phần quan trọng trong q
trình hình thành và phát triển nền văn minh , khoa học , công nghệ của nhân
loại . Đó là các tác phẩm văn học , nghệ thuật , các cơng trình khoa học kỹ
thuật ứng dụng cũng như các tên gọi , hình ảnh được sử dụng trong các hoạt
động thương mại.
Ở nhiều quốc gia, khi một người sáng tạo một tác phẩm nguyên gốc, cố
định trong một phương tiện hữu hình, thì người này nghiễm nhiên sở hữu bản
quyền đối với tác phẩm đó. Với tư cách là chủ sở hữu bản quyền, chỉ riêng
người này mới có quyền sử dụng tác phẩm. Trong hầu hết các trường hợp, chỉ
chủ sở hữu bản quyền mới có thể cho phép người khác sử dụng tác phẩm đó.
2. Khái niệm bản quyền:
Bản quyền là quyền tác giả ( tổ chức , cá nhân ) đối với các tác phẩm mà
họ sáng tạo ra hoặc sở hữu , nhằm bảo vệ quyền lợi kinh tế của tác giả . Tác
phẩm ở đây bao gồm các tác phẩm văn học , báo chí , các chương trình máy
tính , ... Quyền tác giả phát sinh từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo và được
thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định . Đó là quyền được phép sử
dụng phần mềm đó một cách hợp pháp . Việc sử dụng phần mềm khơng có
bản quyền hợp pháp nào cũng được xem như sao chép phần mềm trái phép .
Bảo vệ bản quyền giúp cho chủ bản quyền có quyền kiểm sốt nhất định đối
với tác phẩm của mình trong sản xuất , sử dụng , chào bán , hay xuất khẩu , ...
Trong đó quan trọng nhất là quyền kiểm soát việc sao chép , điều chỉnh và
truyền tải nội dung . Bản chất độc quyền của bản quyền là chỉ chủ bản quyền

mới có thể quyết định ai tham gia vào những hoạt động liên quan đến nội
dung của họ hay mới có quyền khiếu nại về bản quyền . Tuy nhiên việc sở
hữu bản quyền cũng có giới hạn . Bản quyền được bảo vệ lâu hơn một số hình
thức sử hữu trí tuệ khác . Nhiều nước cũng có các trung tâm bản quyền quốc
gia để quản lí hệ thống bản quyền . Bản quyền mang tính chất quốc gia , khu
vực , thế giới . Nghĩa là có trường hợp tác phẩm của bạn được cấp bản quyền
ở nơi này nhưng không được cấp bản quyền ở nơi khác , hay có nơi được coi
là cấp bản quyền tính từ thời điểm đăng ký nhưng có nơi lại tính từ thời điểm


sử dụng . Bản quyền không bảo vệ ý tưởng hay quy trình mới ; nếu ý tưởng
hay quy trình được bảo hộ thì sẽ được bảo hộ trong bằng sáng chế
3. Trách nhiệm pháp lý về luật bản quyền:
Từ góc độ vật chất, trách nhiệm pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ là nhằm
đảm bảo cho người sáng tạo có thể khai thác giá trị kinh tế từ các sản phẩm
sáng tạo của mình để bù đắp lại công lao sáng tạo.
trách nhiệm pháp lý về sở hữu trí tuệ là việc xác lập và bảo vệ quyền của
tổ chức hoặc cá nhân đ ối với tài sản trí tuệ của mình. Cá nhân hay tổ chức có
thể tự mình hoặc thơng qua cơ quan có thẩm quyền thực hiện thiết lập và bảo
vệ bản quyền về đối với Bản quyền tác giả, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng cơng nghi ệp, nhãn hi ệu hàng hóa, bí quyết thương mại, tên thương
mại… trách nhiệm pháp lý về bản quyền nhằm đảm bảo cho người sáng tạo
có thể khai thác giá trị kinh tế từ các sản phẩm sáng tạo của mình để bù đắp
lại cơng lao sáng tạo. Việc trách nhiệm pháp lý về bản quyền ln gắn với
thời hạn trách nhiệm pháp lý về. Ví dụ tác phẩm điện ảnh được trách nhiệm
pháp lý về 50 năm, thiết kế bố trí mạch tích hợp có thời hạn trách nhiệm pháp
lý về là 10 năm. Hết thời hạn này, các sáng tạo trở thành tài sản chung c ủa
nhân loại và tất cả m ọi người có thể khai thác, sử dụng mà khơng phải xin
phép ho ặc trả thù lao cho người sáng tạo. bản quyền được trách nhiệm pháp
lý về dưới dạng sở hữu trí tuệ độc quyền, nhằm khuyến khích năng lực sáng

tạo của các chủ thể, là động lực thúc đẩy văn hóa, kinh tế, xã hội, khoa
học-cơng nghệ của một quốc gia phát triển. Nhưng việc trách nhiệm pháp lý
về bản quyền là có chọn lọc, phải đảm bảo lợi ích của nhà nước, xã hôi, công
dân. bản quyền được trách nhiệm pháp lý về có thời hạn và muốn được trách
nhiệm pháp lý về phải đáp ứng các yêu cầu luật định.
5. Vai trò của trách nhiệm pháp lý về sở hữu trí tuệ:
Sở hữu trí tuệ khơng đơn giản chỉ là những tấm bằng sáng chế đang nắm
giữ trong tay. Tùy từng trường hợp, nó cịn có thể là thương hiệu, hình ảnh,
âm điệu, phần mềm, các tác phẩm hội họa, nói tóm lại là bất cứ sản ph ẩm gì
do lao động trí óc tạo ra. Khi xã hội phát triển, nhu cầu vật chất thiết yếu được
đáp ứng đầy đủ thì những giá trị tinh thần này càng được coi trọng. Nếu người
nắm giữ sản phẩm vô hình này khơng biết cách bảo vệ, rất dễ dàng chúng sẽ
“trơi tuột” vào tay kẻ khác. Chính vì thế, vấn đề về bản quyền, bằng sáng chế,
đăng kí th ương hiệu luôn được đặt ra như một trong những điều kiện tiên
quyết đối với sự thành bại của doanh nghiệp. Dù đó chỉ là cái tên hay một đặc
trưng nào đó của sản phẩm/ dịch vụ, thì giải quyết tốt vấn đề sở hữu trí tuệ sẽ
giúp doanh nghiệp duy trì bước phát triển bền vững cũng như đón đầu đối thủ
trong các chiến lược cạnh tranh. Xuất phát điểm đầu tiên của sở hữu trí tuệ


phải nằm trong chính kế hoạch kinh doanh tổng thể của doanh nghiệp. Trong
đó, cần chú trọng những điểm sau:
• Bằng sáng chế: Đó là những văn bằng hợp pháp miêu tả
chi tiết những phát minh kĩ thuật, cho phép người sở hữu, trong
thời gian hiệu lực nhất định, khai thác, hưởng lợi từ phát minh
đó, đồng thời có quyền ngăn cấm bất kì ai khác sử dụng chúng.
• Bản quyền: là sự bảo vệ hợp pháp đối với 1 sản phẩm
mang tính sáng tạo, ví dụ: tác phẩm hội họa, âm nhạc, văn
chương, các bộ phim, chương trình phát sóng, các bản thu âm,
phần mềm máy tính... Khác với bằng sánh chế, bản quyền tự

động phát sinh ngay từ khi tác phẩm được tạo lập và xuất bản.
Bản quyền có thể bảo vệ quyền lợi của người sở hữu khi khơng
có bằng sáng chế.
• Nhãn hiệu được đăng ký: là cơ sở pháp lý để xây dựng và
phát tri ển th ương hi ệu, là công cụ để tạo nhận thức và gây ấn
tượng về sản phẩm/ dịch vụ trong tâm trí người tiêu dùng.
Một trong những lợi ích thiết thực dễ thấy nhất từ sở hữu trí tuệ là đặc
quyền sử dụng phát minh, sáng chế, thương hiệu. Điều này tạo ra vị thế cạnh
tranh rõ rệt đối với các đối thủ trên thương trường. Không những thế, bản chất
của những sản phẩm mang tính sáng tạo là khả năng tạo ra lợi nhuận cao. Do
đó, quản lý tốt vấn đề sở hữu trí tuệ có ảnh hưởng trực ti ếp và quan trọng
doanh thu, lợi nhuận cũng như các chỉ số tăng trưởng hàng năm của doanh
nghiệp. Đối với những doanh nghiệp đang tìm cách tăng vốn, quản lý sở hữu
trí tuệ có thể là 1 cơng cụ hữu ích, bởi nó làm tăng niềm tin của các nhà đầu
tư cũng như các nhà phân tích. Ví dụ, 1 doanh nghiệp nắm trong tay càng
nhiều bằng sáng chế thì càng được định giá cao, cả trước và sau khi phát hành
cổ phiếu.

II. Cơ sở pháp về trách nhiệm pháp lý của luật bản
quyền:

Xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nghèo và chậm phát triển do bị
thực dân Pháp đơ hộ. Vì vậy, luật về sở hữu trí tuệ của chúng ta ra đời muộn
hơn ở những nước khác.
- Năm 1957, Miền Nam mới ban hành Luật Thương hiệu và
năm 1958, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành "Thể lệ
về thương phẩm và thương hiệu". Tuy nhiên, giá trị thực tiễn của các
văn bản này chưa cao.
- Năm 1976, Việt Nam tham gia vào Tổ chức Sở hữu Trí tuệ
Thế giới (WIPO). Ngày 14/12/1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành

Nghị định 197/HDBT ban hành "Điều lệ về Nhãn hiệu hàng hoá."


Đây là văn bản đầu tiên chính thức nhắc đ ến v ấn đ ề b ảo h ộ đ ộc
quy ền trong sở hữu công nghiệp.
- Hàng loạt các pháp lệnh, nghị định, công ước…. và văn bản
liên quan đ ến s ở h ữu trí tu ệ đã ra đời từ năm 1982 - 2005, tạo tiền
đề phát triển cho công cuộc đổi m ới như: Nhãn hi ệu hàng hố ngày
14/2/1982; Điều lệ Kiểu dáng Cơng nghi ệp ngày 13/05/1988; Pháp
lệnh Chuyển giao Công nghệ từ Nước ngoài vào Việt Nam ngày
5/12/1988; Nghị Định 49/HĐBT ngày 4/03/1991 hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam;
BLDS 1995 và Nghị định 63/CP về sở hữu công nghi ệp (ngày
24/10/1996) và Nghị định 12/1999/NĐ-CP ngày 8/3/1999 về xử phạt
hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp; Công ước Paris;
Công ước Washington và …..
- Năm 2005, tại phiên họp Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 (từ
ngày 18/10/2005 đến 29/11/2005), Quốc Hội đã thơng qua Luật Sở
hữu trí tuệ- Luật số 50/2005/QH11. Lu ật này có hiệu lực thi hành
vào ngày 01/07/2006, bao gồm 6 phần 18 chương và 222 điều. - Năm
2009, tại kỳ họp Quốc hội khóa XII, kỳ hợp thứ 5, Quốc đã thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ số
50/2005/QH11 – Luật số 36/2009/QH12, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2010. Phần lớn nội dung tập trung đi ều chỉnh các quyền
về tác giả, tác phẩm, kiểu dáng công nghiệp.…
5. Cơ sở pháp lý của luật bản quyền:
Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành quy định tại Điều 199 có
những biện pháp sau để xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả:
“Điều 199. Biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
1. Tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của

tổ chức, cá nhân khác thì tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, có
thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự.
2. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có
thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp kiểm sốt hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, biện pháp
ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.”

2.Biện pháp dân sự


Sử dụng biện pháp dân sự nếu thấy cần thiết. Biện pháp dân sự được áp
dụng để xử lý hành vi xâm phạm theo yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí
tuệ hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, kể cả
khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện
pháp hình sự.
Thơng qua tồ án, chủ thể có quyền có thể u cầu toà án áp dụng
những biện pháp dân sự đối với người vi phạm. Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2005 ( sửa đổi bổ sung 2009) quy định tòa án áp dụng các biện pháp dân
sự sau đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ:
-Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm.
- Buộc xin lỗi, cải chính cơng khai.
-Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
-Buộc bồi thường thiệt hại.
-Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không
nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, ngun liệu, vật liệu
và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng
hóa xâm phạm quyền tác giả trong luật sở hữu trí tuệ với điều kiện
khơng làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể

quyền sở hữu trí tuệ.
Như vậy bảo vệ quyền tác giả bằng biện pháp dân sự là việc Tòa án ra
quyết định áp dụng các chế tài dân sự để bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu
quyền. Yếu tố về chứng cứ thiệt hại đóng vai trị quan trọng.
Ngun đơn khởi kiện phải chứng minh quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm
phạm. Khi yêu cầu bồi thường thiệt hại phải đáp ứng các điều kiện sau:
Có hành vi xâm phạm
Có thiệt hại thực tế xảy ra (thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần)
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế.
“Điều 585. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các
bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng
tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi
thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm
mức bồi thường nếu khơng có lỗi hoặc có lỗi vơ ý và thiệt hại q
lớn so với khả năng kinh tế của mình.
3. Khi mức bồi thường khơng cịn phù hợp với thực tế thì bên bị
thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tịa án hoặc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.


4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì khơng
được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường
nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý
để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình”
3. Biện pháp hành chính
Biện pháp hành chính được áp dụng khi:

Có các hành vi xâm phạm thuộc một trong các trường hợp tại Điều 211
luật sở hữu trí tuệ :
“1. Tổ chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ sau đây bị xử phạt vi phạm hành chính:
a) Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ
sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội;
b) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, bn bán hàng hóa giả mạo
về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 của Luật này hoặc giao cho
người khác thực hiện hành vi này;
c) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn
hoặc vật phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo
hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này.
2. Chính phủ quy định cụ thể về hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ bị xử phạt vi phạm hành chính, hình thức, mức phạt và thủ tục
xử phạt.
3. Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành
mạnh về sở hữu trí tuệ thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật về cạnh tranh.”
Có yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại
do hành vi xâm phạm gây ra, tổ chức, cá nhân phát hiện hành vi xâm phạm
hoặc do cơ quan có thẩm quyền chủ động phát hiện.
Các biện pháp xử lý hành chính bao gồm: biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng; Đưa vào các cơ sở giáo dục bắt
buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. (Điều 2-3 Luật xử lý vi phạm
hành chính). Biện pháp này áp dụng đối với hành vi xâm phạm nhưng chưa
đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Biện pháp này do cơ quan công
an, quản lý thị trường, thanh tra, hải quan và ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền ra một quyết định hành chính để xử lý vi phạm hành chính về sở hữu
trí tuệ.
Các biện pháp hành chính bao gồm:

-Cảnh cáo
-Phạt tiền (mức phạt không quá 500 triệu đồng)


Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà cơ quan nhà nước có thẩm
quyền sẽ áp dụng các biện pháp bổ sung như:
-Tạm giữ người
-Tạm giữ hàng hóa, tang vật, phương tiện vi phạm.
-Khám người và phương tiện vận tải, đồ vật…
Các điều kiện cơ bản để áp dụng:
-Hành vi trái pháp luật vi phạm các nguyên tắc quản lý nhà nước.
-Hành vi do tổ chức, cá nhân thực hiện một các vô ý hoặc cố ý.
-Mức độ nguy hiểm cho hành vi thấp hơn tội phạm.
-Pháp luật quy định hành vi đó phải bị xử phạt hành chính.
Ngồi các điều kiện trên thì để thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện
pháp hành chính cịn phải đáp ứng thêm điều kiện là có quy định pháp luật về
hành vi vi phạm, hình thức xử phạt hành vi vi phạm hành chính phải được
pháp luật quy định.
Ưu điểm: xử lý nhanh do thẩm quyền xử lý được trao cho nhiều cơ quan
có chức năng khác nhau.
Nhược điểm: nếu có sự kết hợp khơng đồng bộ hay thiếu sự liên kết giữa
các cơ quan chức năng sẽ đưa đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm. Sự quá tải
của các cơ quan tư pháp và trong một chừng mực nào đó cịn do sự non kém
về kinh nghiệm xử lý các tranh chấp liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ. Ngồi
ra, biện pháp này chủ yếu sử dụng hình thức xử phạt là phạt tiền và số tiền
này sẽ được xung vào cơng quỹ, do đó thiệt hại của chủ sở hữu quyền tác giả
không được đền bù thỏa đáng.
4. Biện pháp hình sự
Biện pháp hình sự được áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thông qua
việc quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu

bị coi là tội phạm.
“Điều 212. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử lý hình sự
Cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố cấu
thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật hình sự”
Như vậy, biện pháp hình sự được áp dụng đối với hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ ở mức nghiêm trọng, hành vi đó là hành vi nguy hiểm
cho xã hội và được quy định trong Bộ luật Hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm
hình sự chỉ truy cứu khi: Có yêu cầu của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền
liên quan (đối với tội xâm phạm quyền tác giả).
“Điều 225. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
1. Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền
liên quan mà cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây, xâm


phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang được bảo hộ tại Việt Nam
với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng
đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác
giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
b) Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi
âm, bản sao bản ghi hình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan
500.000.000 đồng trở lên;
đ) Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị
phạt như sau:
a) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều
này với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000
đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể
quyền tác giả, quyền liên quan từ 300.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 300.000.000
đồng đến dưới 500.000.000 đồng; thu lợi bất chính từ 100.000.000
đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể
quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới
300.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000
đồng đến dưới 300.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết
án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm, thì bị phạt tiền
từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì
bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc
đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm;


c) Pháp nhân thương mại cịn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000
đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong
một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03

năm”.
Việc xác định các nhóm hành vi xâm phạm với mức độ, tính chất nguy hại
cho xã hội khác nhau thì sẽ áp dụng các biện pháp khác nhau, trao quyền chủ
động cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, chủ sở hữu, sử dụng hợp pháp các
quyền SHTT trong việc đấu tranh chống các hành vi xâm phạm.
Do đó, để bảo vệ tốt quyền tác giả, bản thân tác giả nên đăng ký quyền tác
giả, và bản thân Nhà nước cũng khuyến khích việc đăng kí quyền tác giả tại
Cục bản quyền tác giả. Đây khơng phải là thủ tục hành chính bắt buộc để xác
lập quyền tác giả vì quyền tác giả trong luật sở hữu trí tuệ đã được hình thành
ngay khi tác phẩm được sáng tác ra. Tuy nhiên, việc làm này sẽ là biện pháp
đảm bảo nhằm ngăn ngừa các rắc rối khi có tranh chấp xảy ra.
Ngồi ra, tác giả và các chủ thể khác của quyền tác giả có quyền tự bảo vệ
tác phẩm của mình. Điều 43 của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP có quy
định: “Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm
quyền tác giả, quyền liên quan quy định tại điểm a khoản 1 Điều 198 của Luật
Sở hữu trí tuệ là việc các chủ thể quyền đưa các thông tin quản lý quyền gắn
với bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng; đưa thông tin quản lý quyền xuất hiện cùng với việc truyền đạt tác
phẩm tới công chúng nhằm xác định tác phẩm, tác giả của tác phẩm, chủ sở
hữu quyền, thông tin về thời hạn, điều kiện sử dụng tác phẩm và mọi số liệu
hoặc mã, ký hiệu thể hiện thơng tin đó để bảo vệ quyền tác giả, quyền liên
quan. Đồng thời các chủ thể quyền có thể áp dụng các biện pháp công nghệ để
bảo vệ các thông tin quản lý quyền, ngăn chặn các hành vi tiếp cận tác phẩm,
khai thác bất hợp pháp quyền sở hữu của mình theo quy định của pháp luật”.
Theo quy định trên, chủ thể có quyền tự bảo vệ trước hành vi xâm phạm.
Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền tác
giả là việc các chủ thể quyền đưa các thông tin quản lý quyền gắn với bản gốc
hoặc bản sao tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, hoặc
đưa thơng tin quản lý quyền xuất hiện cùng với việc truyền đạt tác phẩm tới
công chúng nhằm xác định tác phẩm, tác giả của tác phẩm, chủ sở hữu quyền,

thông tin về thời hạn, điều kiện sử dụng tác phẩm và mọi số liệu hoặc mã, ký
hiệu thể hiện thơng tin đó để bảo vệ quyền tác giả. Đồng thời các chủ thể
quyền có thể áp dụng các biện pháp cơng nghệ để bảo vệ các thông tin quản lý
quyền, ngăn chặn các hành vi tiếp cận tác phẩm, khai thác bất hợp pháp quyền
sở hữu của mình theo quy định của pháp luật.


III. Thực tiễn pháp lý về trách nhiệm pháp lý của luật
bản quyền

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn cầu, vấn đề bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ trở nên đặc biệt quan trọng và trở thành mối quan tâm
hàng đầu trong quan hệ kinh tế quốc tế. Từ khi Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), vấn đề bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ, chống sản xuất, buôn bán hàng giả ngày càng được quan tâm hơn.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, tình trạng xâm phạm sở hữu trí tuệ ở nước
ta hiện nay vẫn khá phổ biến và ngày càng phức tạp, đòi hỏi phải tiếp tục có
những giải pháp mạnh mẽ và có hiệu quả hơn.
1. Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Theo báo cáo sơ kết cơng tác phịng ngừa, đấu tranh chống sản xuất, buôn
bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ của Bộ Cơng an, trong 5 năm
(2002-2007), lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế của 43 địa phương
đã phát hiện 1092 vụ sản xuất, bn bán hàng giả. Ngồi ra mỗi năm, các cơ
quan chức năng đã phát hiện hàng ngàn vụ sản xuất, buôn bán hàng giả và
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong năm 2006, thanh tra chun ngành văn
hố – thông tin tiến hành kiểm tra 20.414 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá,
phát hiện 5.647 cơ sở vi phạm; đã cảnh cáo 519 cơ sở; đình chỉ hoạt động của
289 cơ sở; tạm giữ giấy phép kinh doanh của 160 cơ sở; chuyển xử lý hình sự
09 trường hợp; xử phạt hành chính 10.891.780.000 đồng. Thanh tra chuyên
ngành khoa học và công nghệ tiến hành thanh tra, kiểm tra 1.536 cơ sở về

chấp hành các quy định sở hữu công nghiệp, xâm phạm quyền sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp và cạnh tranh không lành mạnh đã phát hiện 107 cơ sở sai
phạm, buộc tiêu huỷ và loại bỏ các yếu tố vi phạm khỏi sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ và phạt tiền 224.900.000 đồng. Thanh tra Bộ Văn hố – Thơng tin
tiến hành kiểm tra và phát hiện nhiều cơ sở kinh doanh máy tính lắp đặt, xây
dựng các trang Web, cung cấp cho khách hàng các phần mềm Windows,
Micrrosoft office, Vietkey… vi phạm pháp luật về bản quyền.
Nhóm tội phạm thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ có đặc điểm rất phức tạp vì
chủ thể của tội phạm hầu hết là những người có điều kiện kinh tế, trình độ
chun mơn, kỹ thuật, tay nghề cao, am hiểu những lĩnh vực mình đang quản
lý, một số người cịn có chức vụ, quyền hạn nhất định. Bên cạnh đó, sự bùng
nổ của khoa học, cơng nghệ đã tạo nhiều thiết bị, công cụ, phương tiện phạm
tội ngày càng tinh vi nên rất khó phát hiện. Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
đã gây ra hoặc đe dọa đến thiệt hại nền kinh tế của cả nước cũng như từng
lĩnh vực, từng ngành, ảnh hưởng đến tài sản, sức khoẻ và tính mạng con
người, tác động đến với cả cộng đồng, triệt tiêu sức sáng tạo và khiến giới đầu
tư e ngại.


Tuy nhiên, việc xử lý tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cịn gặp nhiều
khó khăn và bất cập. Các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ xảy ra ngày một gia
tăng nhiều hơn nhưng khó bị phát hiện và khi bị phát hiện thì thường chỉ bị xử
lý bằng các biện pháp dân sự hoặc hành chính. Điều này cho thấy, cơng tác
đấu tranh phịng chống tội xâm phạm sở hữu trí tuệ hiện cịn nhiều hạn chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu bảo quyền sở hữu trí tuệ một cách hiệu quả trước
các hành vi xâm phạm ngày một gia tăng và phức tạp, cũng như trước các yêu
cầu cấp thiết khi Việt Nam tham gia vào các điều ước quốc tế về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập thương mại quốc tế của mình.
2. Nguyên nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Có nhiều ngun nhân khác nhau dẫn đến tình trạng vi phạm sở hữu trí

tuệ ngày một gia tăng.
Thứ nhất, hành visản xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ
ln tạo ra “siêu lợi nhuận” nên rất có sức hút, lơi kéo được nhiều đối tượng
tham gia, kể cả những người lao động thuần túy, trên nhiều địa bàn và nhiều
lĩnh vực khác nhau.
Thứ hai, trong q trình hội nhập, ngồi những tác động tích cực góp phần
làm nên những kết quả đáng kể trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố,
xã hội, cịn phát sinh những yếu tố tiêu cực xâm nhập vào nền kinh tế nhiều
thành phần với tính cạnh tranh cao và diễn biến phức tạp của nước ta. Các mặt
hàng nội địa tuy đa dạng, phong phú và có cải tiến nhưng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu cho người tiêu dùng, nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân
thấp, giá hàng hoá sản phẩm phục vụ sinh hoạt cao tạo nên sự bất cân đối. Vì
vậy, nhiều người tiêu dùng ưa lựa chọn những sản phẩm giả nhưng mẫu mã,
kiểu dáng cơng nghiệp “như thật” mà lại có giá bán thấp. Lợi dụng tình trạng
này, khơng ít doanh nghiệp thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, thiếu sự tơn trọng
người tiêu dùng, vì mục tiêu lợi nhuận sẵn sàng làm giả, làm nhái những sản
phẩm được bảo hộ có uy tín, chất lượng, kiểu dáng để gây nhầm lẫn đối với
người tiêu dùng. Vì vậy, việc sao chụp, mô phỏng, làm nhái các sản phẩm của
nhau để giành giật thị trường trở thành hiện tượng phổ biến. Đây là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến sản xuất, bn bán hàng giả và xâm phạm
sở hữu trí tuệ tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động.
Thứ ba, phần lớn các chủ sở hữu trí tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo
vệ quyền lợi của mình, chưa có ý thức cao trong việc đăng ký bảo hộ nhãn
hiệu hàng hố, trong khi trình độ và hiểu biết về tác hại của xâm phạm sở hữu
trí tuệ đối với sức khoẻ, lợi ích của cộng đồng cịn rất hạn chế. Hiện nay rất ít
doanh nghiệp có bộ phận chun chăm lo về sở hữu trí tuệ, hầu như chưa có
doanh nghiệp nào có chiến lược về sở hữu trí tuệ, coi vấn đề sở hữu trí tuệ là
bộ phận trong chiến lược phát triển của mình. Tài sản trí tuệ chưa trở thành
đối tượng quản lý như quản lý tài sản thông thường. Trong thời gian qua, các



doanh nghiệp đã chú trọng vào việc xây dựng thương hiệu, kiểu dáng cơng
nghiệp, tên gọi, chất lượng hàng hóa nhưng lại quên mất khâu đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu hàng hố của mình ở những khu vực thị trường đã và sẽ phát triển.
Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc phát hiện và ngăn ngừa việc
làm giả các sản phẩm của mình, chưa chủ động phối hợp với các cơ quan
chức năng trong việc kiểm tra, kiểm sốt. Có những doanh nghiệp do sợ bị
ảnh hưởng đến doanh số và mức tiêu thụ sản phẩm, không dám cơng khai về
sản phẩm bị làm giả. Có những sản phẩm làm giả tinh vi đến mức chính
doanh nghiệp sản xuất cũng không phát hiện được, đến khi biết, tuy có một số
biện pháp khắc phục nhưng khơng đáng kể, coi như “chấp nhận sống chung
với hàng giả”.
Thứ tư, các quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ
cịn chưa tập trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản, như: Hiến pháp năm
1992, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1997 (sửa đổi
bổ sung năm 2002, 2008), Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm
2001), Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000, Pháp lệnh Giống cây trồng
năm 2004, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 (sửa đổi, bổ sung 2011), Luật Hải quan năm 2002… và trong nhiều văn
bản hướng dẫn, thi hành các luật, pháp lệnh nêu trên.
Trong khi đó, những quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở
hữu trí tuệ lại chưa thật đầy đủ, chưa đồng bộ, đặc biệt là những quy định về
các biện pháp và chế tài xử lý mới chủ yếu dừng ở các hình thức xử lý hành
chính, chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa đủ sức răn đe đối tượng vi
phạm. Chế tài về hình sự chỉ được áp dụng với cá nhân, trong khi nhóm tội về
sở hữu trí tuệ chủ yếu là do tổ chức thực hiện, vì vậy, khơng thể truy cứu
trách nhiệm hình sự với pháp nhân được. Các quy định về yếu tố cấu thành
của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tội xâm phạm quyền tác giả, tội
sản xuất, buôn bán hàng giả chưa cập nhật được những nội dung mới trong
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, chưa phù hợp với yêu cầu của các điều ước

quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, như Hiệp định thương mại
Việt-Mỹ và các hiệp định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Thứ năm, trên thực tế, tổ chức và hoạt động của các cơ quan có trách
nhiệm đấu tranh với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn thiếu
đồng bộ và chồng chéo, nhiều tầng nấc xử lý khiến hiệu lực thực thi bị phân
tán, phức tạp. Hiện có tới 6 loại cơ quan (UBND các cấp, thanh tra khoa học
và công nghệ, thanh tra văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan)
cùng có thẩm quyền xử phạt vi phạm. Theo thơng lệ ở các nước trên thế giới
thì tịa án phải đóng vai trị rất quan trọng trong việc xử lý các vi phạm về sở
hữu trí tuệ, nhưng ở Việt Nam thì ngược lại, vai trị của tịa án rất mờ nhạt so
với các cơ quan hành chính. Mỗi năm có tới hàng nghìn vụ vi phạm sở hữu trí
tuệ được xử lý bởi các cơ quan hành chính, nhưng số vụ được đưa ra xét xử


tại tịa án lại khơng q 10 trường hợp. Chưa kể, trình độ chun mơn, nghiệp
vụ của phần lớn đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật còn hạn chế,
đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến sở hữu trí tuệ, tài chính, ngân
hàng, chứng khốn, cơng nghệ máy tính…
3. Giải pháp nâng cao cho trách nhiệm pháp lý:
Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ theo Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030
Chiến lược đặt ra hàng loạt nhiệm vụ, giải pháp nhằm đạt được mục tiêu
đó, từ các giải pháp về chính sách, pháp luật, về tổ chức bộ máy, về nguồn
nhân lực… cho đến các hoạt động hỗ trợ.
1. Tinh giản đầu mối cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính
Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, Tịa án, Thanh tra chuyên ngành,
Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm
quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong đó, việc áp dụng
biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra, Công an,

Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban nhân dân các cấp.
Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cần
thiết phải thực hiện rà soát, đánh giá hiệu lực, hiệu quả và sự phù hợp của hệ
thống tổ chức và cơ cấu bộ máy bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiện có để làm
căn cứ xây dựng và thực hiện phương án sắp xếp, phân công lại trong bộ máy.
Việc sắp xếp, phân cơng lại bộ máy các cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần đảm bảo theo
hướng thu gọn đầu mối, phù hợp với tính chất dân sự của quyền sở hữu trí tuệ,
xóa bỏ tình trạng hành chính hóa các quan hệ dân sự về sở hữu trí tuệ.
Việc thu gọn đầu mối cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần được thực hiện đồng thời với việc
phân định rõ thẩm quyền của mỗi cơ quan và tăng cường chất lượng hoạt
động trên cơ sở thực hiện chuyên mơn hóa về tổ chức và nhân sự trong các cơ
quan này.
Ngoài ra, cần thiết lập cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin, chuyên môn
giữa cơ quan xác lập quyền với các cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và
giữa các cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ với nhau nhằm tạo sự nhất quán
trong nhận định và cách thức xử lý các vụ việc có cùng bản chất. Các cơ quan
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng cần cơng bố cơng khai các vụ việc được xử
lý, các trường hợp xâm phạm điển hình, qua đó, rút kinh nghiệm trong hoạt
động của mỗi cơ quan.
2. Nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp kiểm sốt hàng hóa xuất, nhập
khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ


Kiểm sốt hàng hóa xuất, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ tại biên
giới đóng vai trị ngày càng quan trọng trong việc phát hiện, ngăn chặn hàng
hoá giả mạo và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đưa vào thị trường trong
nước.
3. Thúc đẩy phát triển dịch vụ giám định sở hữu công nghiệp, đội ngũ

giám định viên sở hữu công nghiệp
Giám định sở hữu công nghiệp là một khâu quan trọng để xác định hành
vi, tính chất, mức độ xâm phạm và xác định thiệt hại trong quá trình xử lý các
vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Mặc dù các văn bản pháp luật quy định về hoạt động giám định đã tương
đối đầy đủ song trên thực tế, hiện nay, mới chỉ có 01 tổ chức giám định được
thành lập (Viện Khoa học sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Cơng nghệ) và
cũng chỉ có 04 người được cơng nhận là giám định viên sở hữu cơng nghiệp,
trong đó, 02 người đang “hoạt động trong tổ chức giám định, dưới danh nghĩa
của tổ chức” (Viện Khoa học sở hữu trí tuệ), 02 người còn lại “hoạt động độc
lập”.
Thực trạng nêu trên xuất phát từ việc tổ chức kiểm tra nghiệp vụ sở hữu
công nghiệp để cấp thẻ giám định viên, một yêu cầu bắt buộc cho việc thành
lập tổ chức giám định, chưa được thực hiện. Các quy định của Luật Sở hữu trí
tuệ về các chuyên ngành giám định quá rộng, khơng hồn tồn phù hợp với
các lĩnh vực chun mơn thực tế của đội ngũ chun gia, vì vậy, khó có thể có
những chuyên gia đáp ứng được yêu cầu để được cấp Thẻ giám định viên.
Để tăng cường hiệu quả của hoạt động giám định, cần nghiên cứu, xây
dựng khung chương trình đào tạo và sát hạch nghiệp vụ giám định sở hữu
cơng nghiệp; và có cơ chế để huy động những người có trình độ chun mơn
sâu nhờ kinh nghiệm công tác vào đội ngũ giám định viên sở hữu cơng nghiệp,
ví dụ, bổ sung điều kiện được đặc cách cấp thẻ giám định viên đối với người
đã qua thực tế hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực pháp luật về sở hữu trí
tuệ và lĩnh vực chuyên ngành giám định từ 15 năm trở lên.


KẾT LUẬN
Nguy cơ chiếm đoạt các sản phẩm trí tuệ là nguy cơ thường xuyên và
ngày càng nghiêm trọng trong các nền kinh tế cơng nghiệp hố. Bởi vậy, việc
ngăn chặn nguy cơ này là vấn đề ám ảnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài,

họ sẽ chỉ chấp nhận chuyển giao công nghệ và thực hiện các biện pháp đầu tư,
nếu họ nhận thấy đủ cơ hội khai thác an tồn, hiệu quả cơng nghệ đó ở quốc
gia dự định đầu tư. Cần thấy rằng, các nhà đầu tư nước ngồi có xu hướng lo
sợ rằng bảo hộ sở hữu trí tuệ lỏng lẻo sẽ dẫn đến việc thiếu kiểm sốt đối với
cơng nghệ được chuyển giao và như vậy công nghệ chuyển giao này sẽ dễ trở
thành mục tiêu bị vi phạm bản quyền. Vì lẽ đó, xác lập được một hệ thống
bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả và việc tuân thủ hệ thống quản lý bảo hộ sở hữu
trí tuệ một cách nghiêm túc sẽ là một điều kiện tiên quyết tác động đến quyết
định đầu tư và chuyển giao của các công ty nước ngồi.
Vì vậy, đối với một nước đang phát triển và nỗ lực hội nhập kinh tế khu
vực và toàn cầu như Việc Nam, việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
thành cơng là điều kiện tiên quyết để thu hút vốn đầu tư nước ngoài một
nguồn lực rất lớn giúp chúng ta phát triển.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/>am-pham-quyen-lieu-co-gi-moi-trong-luat-shtt-sua-doi-sap-toi.html
/>0-2005-QH11-7022.aspx
/>spx
/> />


×