LUẬN VĂN:
Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn
thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty
Thương mại Xuất nhập khẩu Hà Nội
Lời nói đầu
Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất
nước trong bối cảnh thế giới có nhiều thuận lợi. Các tổ chức kinh tế, thương mại
khu vực và thế giới đã và đang hoạt động có hiệu quả. Đảng và Nhà nước ta đã gia
nhập vào ASEAN, AFTA và đang trong quá trình hội nhập vào WTO… Hội nhập
với kinh tế trong khu vực và thế giới là yêu cầu tất yếu, khách quan của sự phát
triển kinh tế trong từng nước cũng như toàn thế giới. Nền kinh tế mở cửa đã tạo
điều kiện cho thương mại quốc tế phát triển nhằm đảm bảo cho sự phát triển lưu
thông hàng hoá với nước ngoài, khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta và
của thế giới trên cơ sở phân công lao động quốc tế. Để đạt được mục tiêu phát triển
của mình các quốc gia phải không ngừng phát triển mọi mặt của hoạt động kinh tế
đối ngoại trong đó có hoạt động nhập khẩu
Hoạt động nhập khẩu là một trong những bộ phận quan trọng của thương mại
quốc tế. Nhập khẩu cho phép bổ sung những sản phẩm trong nước chưa sản xuất
được hoặc sản xuất không hiệu quả và đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Đặc
biệt là đối với Việt Nam đang tiến lên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, trong khi sản xuất công nghiệp chưa phát triển thì nhu cầu hàng nhập khẩu
ngày càng tăng.
Công ty Thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước
được thành lập từ những năm 1980, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Sở Thương mại
Hà Nội. Là một doanh nghiệp đa ngành hàng với hoạt động kinh doanh nhập khẩu
là hoạt động chủ đạo, đem lại doanh thu và lợi nhuận chủ yếu cho công ty. Trong
suốt quá trình hoạt động kinh doanh của mình, công ty đã sớm khặng định vai trò
trong việc phục vụ tiêu dùng và sản xuất trong nước, góp phần vào công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong quá trình thực tập, nhận thức rõ vai trò của hoạt động nhập khẩu,
những thành quả cũng như những tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Công ty,
được sự giúp đỡ tận tình của ban Lãnh đạo, đặc biệt là Phòng Kinh doanh Xuất
nhập khẩu I và sự chỉ bảo động viên của giảng viên- Thạc sỹ Bùi Huy Nhượng, em
mạnh dạn chọn đề tài " Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động
nhập khẩu tại Công ty Thương mại Xuất nhập khẩu Hà Nội".
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Nhằm hệ thống hoá những vấn đề lý luận
liên quan đến hoạt động nhập khẩu. Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu tại
Công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội trong
giai đoạn 1999-2002.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Là hoạt động nhập khẩu tại
công ty thương mại xuất nhập khẩu Hà Nội trong giai đoạn 1999-2002.
Với mục đích và đối tượng nghiên cứu như trên luận văn được kết cấu thành
ba chương.
Chương I: Những vấn đề chung về hoạt động nhập khẩu hàng hoá
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty Thương mại Xuất
nhập khẩu Hà Nội thời gian qua
Chương III: Những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công
ty Thương mại Xuất nhập khẩu Hà Nội
Chương I
Những vấn đề chung về nhập khẩu hàng hóa
i. Khái niệm, chức năng và vai trò của nhập khẩu hàng hoá trong nền
kinh tế quốc dân.
1. Khái niệm nhập khẩu.
Khái niệm: Nhập khẩu được hiểu là việc mua bán và trao đổi hàng hoá dịch
vụ của nước này với nước khác và dùng ngoại tệ để trao đổi.
Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu.
+ Hoạt động nhập khẩu là hoạt động mua bán ở phạm vi quốc tế, nó không chỉ
là hành vi mua bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán rất phức tạp,
có tổ chức từ bên trong ra bên ngoài. Vì thế, hoạt động nhập khẩu hàng hoá một
mặt đem lại nhiều hiệu quả kinh tế cao, mặt khác nó có thể gây ra những hậu quả
khôn lường bởi vì nó phải đối đầu với cả một hệ thống kinh tế ở bên ngoài, mà một
nước tham gia nhập khẩu không dễ dàng khống chế được.
+ Hoạt động nhập khẩu là hoạt động giao dịch buôn bán giữa những người có
quốc tịch khác nhau, thị trường vô cùng rộng lớn, khó kiểm soát, đồng tiền thanh
toán là ngoại tệ mạnh, các quốc gia khác nhau tham gia vào hoạt động giao dịch,
buôn bán này phải tuân thủ theo những tập quán, thông lệ quốc tế cũng như của các
địa phương.
+ Hoạt động nhập khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng về cả không gian lẫn thời
gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, song cũng có thể kéo dài hàng
năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ một nước hoặc của nhiều nước khác.
+ Hoạt động nhập khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện từ nhập
khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị và cả công nghệ
kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích
cho các quốc gia.
+ Hoạt động nhập khẩu là hoạt động được tổ chức, thực hiện với nhiều nhiệm
vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu,
thương nhân giao dịch, các bước tiến hành đàm phán kí kết hợp đồng, tổ chức thực
hiện hợp đồng cho đến khi nhận hàng hoá và thanh toán. Mọi khâu, mọi nhiệm vụ
đòi hỏi phải được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt được lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất,
phục vụ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
2. Chức năng của nhập khẩu.
Nhập khẩu có một số chức năng cơ bản sau
+ Hoạt động nhập khẩu làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của tổng sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân theo hướng có lợi cho việc đẩy mạnh phát triển sản
xuất và nâng cao mức sống của nhân dân trong nước. Chức năng này thể hiện ở
việc hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng làm lợi
cho nền kinh tế quốc dân về mặt giá trị sử dụng, góp phần làm cho nền kinh tế đất
nước phát triển một cách nhịp nhàng, cân đối và đạt tốc độ tăng trưởng cao.
+ Hoạt động nhập khẩu góp phần nâng cao hiệu quả nền kinh tế quốc dân nhờ
việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên cơ sở sử dụng triệt để những khả năng và lợi
thế của phân công lao động quốc tế, nhằm nâng cao năng suất lao động, cải tiến
chất lượng, khai thác các năng lực của nền kinh tế thế giới.
+ Hoạt động nhập khẩu khai thác mọi năng lực và thế mạnh về hàng hoá, công
nghệ, vốn… của các nước và các khu vực trên thế giới phù hợp với hoàn cảnh trong
nước để thúc đẩy quá trình tái sản xuất, tiêu dùng phát triển kịp thời với tiến trình
chung của nhân loại. Trên cơ sở đó nền sản xuất trong nước tiếp thu được những
tiến bộ về kinh tế và công nghệ của thế giới, sử dụng những hàng hoá và dịch vụ tốt
và rẻ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tiêu dùng.
+ Hoạt động nhập khẩu tạo điều kiện đưa các nước khác hướng vào nước ta
vừa làm kinh tế vừa phát triển sản xuất giúp nền kinh tế nước ta hướng ra nước
ngoài, sẽ có điều kiện cân đối xuất nhập khẩu, tiến lên có thể xuất siêu. Và như vậy
có thể tích luỹ và tăng tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng, kinh tế quốc dân vững
mạnh thì uy tín chính trị cao và có điều kiện góp phần thúc đẩy tiến bộ chung của
của nhân loại .
+ Hoạt động nhập khẩu phát triển có liên quan mật thiết và thúc đẩy các hoạt
động kinh tế đối ngoại khác như: Thông tin và liên lạc quốc tế, tài chính tín dụng
quốc tế, du lịch quốc tế…tạo điều kiện cho việc mở rộng, hợp tác đầu tư quốc tế và
hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
+ Hoạt động nhập khẩu góp phần làm cho quá trình liên kết kinh tế xã hội
nước ta với nước ngoài chặt chẽ và mở rộng, góp phần vào sự ổn định kinh tế chính
trị của đất nước.
3. Vai trò của nhập khẩu.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng trong thương mại quốc tế. Nhập khẩu
tác động một cách trực tiếp và quyết định đến tình hình sản xuất, đời sống. Nhập
khẩu để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản
xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản
xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế nghĩa là nhập khẩu
những thứ mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Làm như vậy
tác động tích cực tới sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng thế mạnh của nền
kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn, cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học công
nghệ. Nhìn chung hoạt động nhập khẩu có những vai trò chủ yếu sau:
a. Đối với nền kinh tế thế giới.
+ Thông qua hoạt động nhập khẩu, nền kinh tế của các quốc gia có điều kiện
“xích lại” gần nhau hơn, góp phần vào xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá nền
kinh tế, các nước trên thế giới có thể khai thác được lợi thế của nước mình, sử dụng
tốt các nguồn tài nguyên, nhân lực
+ Hoạt động nhập khẩu sẽ tạo cơ hội cho các quốc gia cùng nhau trao đổi
phương pháp quản lý, thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến… Đây là yếu tố then
chốt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nó không những làm
tăng khối lượng sản phẩm mà còn phát triển chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí
lao động xã hội.
+ Hoạt động nhập khẩu góp phần tạo sự liên kết kinh tế giữa các nền kinh tế
của các quốc gia trên thế giới, thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động kinh tế đối
ngoại khác như hoạt động dịch vụ thương mại, bảo hiểm, du lịch quốc tế…
+ Hoạt động nhập khẩu tăng cường hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế, là một
mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động quốc tế, góp phần vào nâng
cao uy tín của quốc gia trên thị trường quốc tế.
+ Hoạt động nhập khẩu kích thích sản xuất và tiêu dùng trong mỗi quốc gia, từ
đó làm cho khối lượng sản phẩm và nhu cầu trong nền kinh tế thế giới tăng lên
b. Đối với nền kinh tế Việt Nam.
Với mỗi chức năng cơ bản nói trên, chúng ta thấy rằng nhập khẩu có vai trò vô
cùng quan trọng đối với nền kinh tế nước ta, cụ thể như sau:
+ Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bởi
vì nhập khẩu đòi hỏi sự đồng bộ về kỹ thuật nên sẽ tạo ra dây chuyền hiện đại kéo
theo sự đổi mới trong đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý, tạo ra kỷ luật chặt chẽ
trong đội ngũ nhân công, gây ý thức lao động hiệu quả.
+ Nhập khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung ứng đầu vào cho sản xuất,
nâng cao khả năng sản xuất trong nước, giúp quốc gia khai thác đựơc lợi thế so
sánh của mình, khai thác được tính lợi thế nhờ quy mô khi tham gia vào thương mại
quốc tế. Nhập khẩu thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm được
chi phí và thời gian, tạo sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế xã hội, góp phần
xoá bỏ tình trạng độc quyền trong nước.
+ Nhập khẩu bổ xung kịp thời những mất cân đối của nền kinh tế, bù đắp
những thiếu hụt về cầu do sản xuất trong nước không đáp ứng được. Không những
thế nhập khẩu còn tạo ra những nhu cầu mới cho xã hội, tạo nên sự phong phú cho
chủng loại hàng hoá, mẫu mã sản phẩm, chất lượng cho thị trường. Điều đó có
nghĩa là nhập khẩu góp phần tạo ra sự cân đối giữa cung và cầu trong nước, đảm
bảo cho sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác một cách tối đa tiềm năng và khả
năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
+ Nhập khẩu cũng là đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, quy cách, mẫu mã,
chất lượng các loại hàng hoá góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân.
Nhập khẩu máy móc thiết bị, đầu tư xây dựng là nơi thu hút hàng triệu lao động,
vừa giải quyết công ăn việc làm, hạn chế tệ nạn xã hội, đẩy mạnh sản xuất kinh
doanh.
+ Nhập khẩu tạo ra sự phát triển thực chất của sản xuất xã hội và thanh lọc các
đơn vị sản xuất yếu kém. Nhờ nhập khẩu mà các luồng thông tin được khai thông,
các mối quan hệ được sử dụng tích cực.
+ Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu, góp phần nâng cao chất
lượng sản xuất hàng xuất khẩu tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá ra
nước ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu.
+ Nhập khẩu tạo cơ sở để các nước mở rộng các quan hệ với các nước khác
trên thế giới, đồng thời gắn liền sản xuất trong nước với phân công lao động thế
giới. Chính vì vậy mà hoạt động nhập khẩu là một trong những nội dung chính
trong chính sách kinh tế đối ngoaị của mỗi nước đối với phần còn lại của thế giới.
Như vậy có thể nói đẩy mạnh nhập khẩu sẽ tạo động lực cần thiết cho việc
giải quyết các vấn đề thiết yếu của nền kinh tế mỗi quốc gia, thúc đẩy quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giúp các nước khai thác triệt để lợi thế của
mình trong phân công lao động quốc tế. Điều này nói lên tính khách quan của việc
tăng cường nhập khẩu trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước.
c. Đối với các doanh nghiệp.
+ Qua hoạt động nhập khẩu, các sản phẩm nhập ngoại có tính cạnh tranh cao,
chất lượng, mẫu mã tốt buộc các doanh nghiệp sản xuất trong nước phải đổi mới,
cải tiến công nghệ chất lượng, dịch vụ sản phẩm để tăng sức cạnh tranh của sản
phẩm nội địa. Qua đó hiệu quả sản xuất được nâng cao, người lao động tìm được
việc làm, đời sống cán bộ công nhân được nâng cao.
+ Hoạt động nhập khẩu là hoạt động trên phạm vi quốc tế rất phức tạp vì có sự
giao lưu của nhiều nền kinh tế khác nhau về văn hoá, chính trị, tập quán, ngôn
ngữ… Vì vậy, buộc các doanh nghiệp nhập khẩu phải luôn hoàn thiện và đổi mới
công tác quản trị kinh doanh, các cán bộ, các cá nhân luôn luôn phải học hỏi kinh
nghiệm, nâng cao nghiệp vụ … Điều đó làm nâng cao năng lực chuyên môn của các
thành viên trong doanh nghiệp.
+ Hoạt động nhập khẩu hàng hoá có vai trò làm tăng thế lực và uy tín của
công ty cả ở thị trường trong nước và trị thường quốc tế. Lợi nhuận do kinh doanh
đem lại cho phép công ty đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng các lĩnh
vực kinh doanh cả về chiều sâu lẫn chiều rộng, góp phần giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên, góp phần giải
quyết các vấn đề bức xúc của xã hội, cải thiện và phát triển các mối quan hệ trong
kinh doanh.
+ Hoạt động nhập khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên doanh liên kết
giữa các chủ thể trong và ngoài nước một cách tự giác, xuất phát từ lợi ích của cả
hai bên, tạo ra sức mạnh chủ thể trong doanh nghiệp một cách thiết thực.
Như vậy nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của một quốc
gia, nó tồn tại như là một nhu cầu cần thiết mà không một quốc gia nào có thể phủ
nhận. Một quốc gia muốn phát triển mạnh đòi hỏi phải có một chiến lược nhập
khẩu hợp lý và hiệu quả.
II. Các hình thức nhập khẩu hàng hoá.
Trong sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới thì hoạt động xuất nhập
khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng cũng phát triển phong phú với nhiều hình
thức. Tuy nhiên, có một số hình thức nhập khẩu sau đây hay được sử dụng rộng rãi
trong các doanh nghiệp .
1. Hình thức nhập khẩu trực tiếp ( Nhập khẩu tự doanh)
a. Khái niệm:
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp hay còn gọi là nhập khẩu tự doanh là hình
thức nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp thực hiện nhập khẩu trực tiếp các
hàng hoá và dịch vụ mà không qua một tổ chức trung gian nào.
b. Đặc điểm:
+ Doanh nghiệp phải chịu mọi chi phí và rủi ro cũng như phải chịu mọi trách
nhiệm pháp lý về hoạt động nhập khẩu của mình.
+ Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu
nhiều hơn so với các hình thức nhập khẩu khác. Doanh nghiệp nhập khẩu đóng vai
trò là người bán trực tiếp, do đó nếu nhập khẩu có quy cách, chất lượng tốt, mẫu mã
đẹp, giá cả phù hợp sẽ nâng cao uy tín doanh nghiệp , thu được lãi cao.
+ Doanh nghiệp phải chịu mọi nghĩa vụ thuế liên quan đến lĩnh vực nhập khẩu
như thuế nhập khẩu, thuế mặt hàng…
c. Quy định của chính phủ Việt Nam đối với hình thức nhập khẩu trực tiếp.
Pháp luật Việt Nam quy định về quyền kinh doanh nhập khẩu như sau:
+ Thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập
theo quy định của pháp luật được phép nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã
đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Các chi nhánh thuộc Tổng công ty, công ty được nhập khẩu theo uỷ quyền
của Tổng giám đốc Tổng công ty, giám đốc công ty phù hợp với nội dung trong
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Tổng công ty, công ty.
+ Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp phải
đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu tại cục hải quan tỉnh, thành phố.
Tổng cục hải quan xây dựng hệ thống mã số nói trên và hướng dẫn việc đăng ký mã
số doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu.
+ Đối với doanh nghiệp thành lập theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
hoạt động nhập khẩu được thực hiện theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và
các văn bản pháp luật có liên quan.
2. Nhập khẩu uỷ thác.
a. Khái niệm
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp có vốn
ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một loại hàng hoá nhưng lại không có
quyền tham gia nhập khẩu trực tiếp, đã uỷ thác cho một doanh nghiệp có chức năng
trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên
uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với nước ngoài để nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu
của bên uỷ thác và được nhận một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.
Hay nói cách khác nhập khẩu uỷ thác là doanh nghiệp nhập khẩu đóng vai
trò trung gian nhập khẩu, làm thay cho đơn vị cần nhập khẩu nhữmg thủ tục cần
thiết để nhập hàng và hưởng phầm trăm chi phí ủy thác theo giá trị hàng nhập khẩu.
b. Đặc điểm của nhập khẩu uỷ thác.
+ Trong hoạt động nhập khẩu này doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ
vốn, xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường hàng nhập mà chỉ
đóng vai trò làm đại diện bên uỷ thác giao dịch với nước ngoài, kí kết hợp đồng và
làm các thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi
thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
+ Bên uỷ thác phải tự nghiên cứu thị trường, lựa chọn mặt hàng, đối tượng
giao dịch và chịu mọi chi phí có liên quan.
+ Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp chỉ được tính phí uỷ thác
chứ không được tính doanh thu và không phải chịu thuế doanh thu.
+ Khi nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp nhận uỷ thác phải lập hai hợp đồng:
Một hợp đồng ngoại giữa doanh nghiệp nhập khẩu với đối tác nước ngoài và một
hợp đồng nội giữa doanh nghiệp nhận uỷ thác với doanh nghiệp uỷ thác.
+ Hình thức nhập khẩu uỷ thác có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm
ít, người đứng ra nhập khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, đặc
biệt là không cần vốn để mua hàng, phí uỷ thác tuy ít nhưng nhận tiền nhanh và ít
thủ tục và rủi ro.
c. Quy định của chính phủ Việt Nam về nhập khẩu uỷ thác.
Pháp luật Việt Nam quy định rõ về điều kiện doanh nghiệp được nhập khẩu uỷ
thác như sau:
+ Thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc mã số doanh
nghiệp kinh doanh nhập khẩu được uỷ thác nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội
dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+Thương nhân đã đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu được
nhận uỷ thác nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh.
+ Việc uỷ thác nhập khẩu và việc nhận uỷ thác nhập khẩu các mặt hàng nhập
khẩu có điều kiện do bộ thương mại hướng dẫn cụ thể.
+ Nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên uỷ thác nhập khẩu và bên nhận uỷ thác
nhập khẩu được quy định cụ thể trong hợp đồng uỷ thác nhập khẩu do các bên tham
gia kí kết thoả thuận.
3. Hình thức nhập khẩu liên doanh.
a. Khái niệm
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết
kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra
chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động
này phát triển theo hướng có lợi nhất cho hai bên theo nguyên tắc lãi cùng chia, lỗ
cùng chịu.
b. Đặc điểm
+ So với nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp ít chịu rủi ro hơn bởi vì mỗi
doanh nghiệp nhập khẩu chỉ phải góp phần vốn nhất định và quyền hạn và trách
nhiệm của mỗi bên cũng tăng lên theo vốn góp. Việc phân chia chi phí, các loại
thuế theo tỷ lệ góp vốn, lãi lỗ tuỳ theo hai bên thoả thuận phân chia.
+ Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng về sẽ được
tính kim ngạch nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ thì chỉ tính doanh số trên
số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế doanh thu trên số hàng đó.
+ Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp phải thực hiện hai hợp đồng. Một hợp
đồng mua hàng với nước ngoài và một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác.
c. Quy định về hiệp hội ngành hàng nhập khẩu.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì thương nhân kinh doanh cùng
ngành hàng, không phân biệt thành phần kinh tế thì được phép thành lập Hiệp hội
ngành nhập khẩu trên cơ sở tự nguyện để phối hợp hoạt động và nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên đồng thời
đảm bảo lợi ích quốc gia.
4. Hình thức nhập khẩu đổi hàng.
a. Khái niệm.
Nhập khẩu hàng đổi hàng (cùng với trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ
yếu của buôn bán đối lưu) là một phương thức trao đổi hàng hoá, trong đó nhập
khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng
trao đi có giá trị tương ứng bằng lượng hàng nhập về. Mục đích của hoạt động nhập
khẩu đổi hàng là không chỉ thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất
khẩu hàng thu lãi.
b. Đặc điểm.
+ Hàng hoá nhập khẩu và xuất khẩu có sự cân bằng về mặt hàng, giá cả,
tổng giá trị hàng giao nhau và cân bằng về điều kiện giao hàng.
+ Doanh nghiệp nhập khẩu đổi hàng được tính cả kim ngạch nhập khẩu và
kim ngạch xuất khẩu, doanh số trên cả hàng nhập khẩu và xuất khẩu.
+ Hình thức của hợp đồng nhập khẩu đổi hàng là có thể chỉ lập bằng một hợp
đồng với hai doanh mục hàng hoá hoặc hai hợp đồng mà mỗi hợp đồng một danh
mục hàng hoá hay một văn bản nguyên tắc (có thể là một hợp đồng khung, một thoả
thuận chung hoặc bản ghi nhớ) trên cơ sở văn bản nguyên tắc, người ta kí kết các
hợp đồng mua bán cụ thể để thực hiện.
+ Trong hợp đồng nhập khẩu đổi hàng thường có điều kiện đảm bảo đối lưu.
Sự đảm bảo này có thể được thực hiện bởi một trong những phương pháp: dùng thư
tín dụng, dùng một tài khoản đặc biệt tại Ngân hàng, dùng người thứ ba, phạt về
việc giao hàng thiếu hoặc chậm giao…
5. Hình thức nhập khẩu tái xuất.
a. Khái niệm
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu vào trong nước nhưng không phải
để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước khác nhằm thu lợi nhuận, những
hàng nhập khẩu này không qua chế biến ở nước tái xuất. Như vậy, nhập khẩu tái
xuất luôn thu hút ba nước tham gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu,nước tái xuất.
b. Đặc điểm
+ Doanh nghiệp tái xuất phải thực hiện hai hợp đồng: một hợp đông nhập
khẩu và một hợp đồng xuất khẩu.
+ Doanh nghiệp nhập khẩu tái xuất được tính kim ngạch xuất khẩu và nhập
khẩu, doanh số bán tính trên giá trị hàng xuất khẩu do đó phải chịu thuế doanh thu.
+ Hàng hoá nhập khẩu không nhất thiết phải qua nước tái xuất mà có thể
chuyển thẳng sang nước thứ ba nhưng trả tiền phải luôn do nước tái xuất thu từ
người nhập khẩu và trả cho nước xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được
lợi thế về tiền hàng do thu nhanh trả chậm.
6. Hình thức nhập khẩu theo đơn đặt hàng.
a. Khái niệm
Nhập khẩu theo đơn đặt hàng là hình thức đơn vị ngoại thương chịu mọi chi
phí và mọi rủi ro để nhập khẩu hàng hoá cho đơn vị đặt hàng trên cơ sở đơn đặt
hàng của đơn vị đặt hàng còn đơn vị đặt hàng có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền.
b. Đặc điểm
+ Đơn vị ngoại thương phải kí kết hợp đồng với đối tác nước ngoài theo đúng
đơn đặt hàng về các mặt tên hàng, số lượng, quy cách, chất lượng sản phẩm, điều
kiện kỹ thuật và thời hạn giao hàng.
+ Đối với hình thức này phương thức thanh toán thường áp dụng là: nhờ thu
có chấp nhận, có cải tiến.
Với các hình thức nhập khẩu đa dạng như trên, việc áp dụng hình thức nào còn
phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp nhập khẩu (khả năng tài chính, chiến lược
kinh doanh, hiệu quả kinh tế…) nhu cầu trong nước và phù hợp với quy định của
pháp luật.
III. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu hàng hoá
1. Các nhân tố vĩ mô
a. Nhân tố chính trị pháp luật
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được tiến hành thông qua các chủ
thể ở hai hay nhiều môi trường chính trị pháp luật khác nhau, thông lệ về thị trường
cũng khác nhau. Tất cả các doanh nghiệp khi tham gia vào thương mại quốc tế
trước tiên phải tuân thủ pháp luật thương mại trong nước và phải phù hợp với pháp
luật của nước mình giao dịch cũng như pháp luật quốc tế.
Khi doanh nghiệp tiến hành một hoạt động nhập khẩu hàng hoá, trước tiên
phải nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau:
+ Các qui định về khuyến khích, hạn chế hay cấm vận nhập khẩu một số mặt
hàng. Mỗi quốc gia khác nhau có qui định về vấn đề này khác nhau.
+ Các qui định về quyền lợi và nghĩa vụ khi tiến hành nhập khẩu hàng hoá đó.
+ Các qui định chung do pháp luật hay các thông lệ quốc tế đề ra.
b. Các nhân tố kinh tế xã hội
Sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, sản xuất trong nước phát triển sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu phát triển.
Sự phát triển của hoạt động thương mại trong nước và quốc tế cũng góp phần
hạn chế và kích thích nhập khẩu, bởi nó quyết định sự chu chuyển hàng hoá trong
nội bộ nền kinh tế nước nhà và nền kinh tế thế giới. Sự biến động của nền kinh tế
thế giới sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường hàng hoá trong nước và thế giới, do
vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu.
Hệ thống tài chính ngân hàng pháp triển sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
nhập khẩu nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói chung. Hoạt động nhập
khẩu liên quan mật thiết tới hoạt động thanh toán quốc tế thông qua hệ thống các
Ngân hàng giữa các quốc gia. Hệ thống tài chính Ngân hàng phát triển sẽ càng tạo
điều kiện thuận lợi cho cho việc thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng, hoàn hảo
do đó có lợi cho hoạt động nhập khẩu.
Thanh toán quốc tế thường sử dụng những đồng tiền của các quốc gia khác
nhau, do vậy tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng lớn tới hoạt động nhập khẩu.
Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển cũng ảnh hưởng lớn tới hoạt động nhập
khẩu. Bởi vì hoạt động nhập khẩu không thể tách rời khỏi hệ thống thông tin liên
lạc, hệ thống giao thông vận tải, kho tàng bến bãi Hệ thống cơ sở hạ tầng phát
triển sẽ càng thuận lợi và hạ thấp chi phí cho các doanh nghiệp nhập khẩu.
2. Các nhân tố vi mô.
a. Cơ chế tổ chức bộ máy của doanh nghiệp.
Nếu cơ chế bộ máy tổ chức quản lý của doanh nghiệp sắp xếp hợp lý sẽ giúp
cho các nhà lãnh đạo sử dụng tốt hơn nguồn lực của mình, góp phần nâng cao hiệu
quả kinh doanh. Ngược lại, nếu bộ máy cồng kềnh, không hợp lý sẽ lãng phí và hạn
chế hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
b. Nhân tố về con người.
Trình độ chuyên môn và năng lực làm việc của mỗi thành viên trong doanh
nghiệp là yếu tố cơ bản quyết định sự thành công trong kinh doanh. Các nghiệp vụ
kinh doanh xuất nhập khẩu nếu được thực hiện bởi các cán bộ nhanh nhạy, năng
động, sáng tạo, có trình độ cao và có kinh nghiệm thì chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả
cao.
c. Nhân tố về vốn và trang thiết bị vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.
Vốn là yếu tố không thể thiếu trong kinh doanh, doanh nghiệp có vốn lớn thì
càng có nhiều cơ hội nắm bắt những thời cơ hấp dẫn trong kinh doanh và càng có
nhiều lợi nhuận hơn.
Trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật thực chất cũng là vốn của doanh nghiệp.
Nếu trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, hợp lý sẽ góp phần làm tăng tính hiệu
quả trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
IV. nội dung của hoạt động nhập khẩu.
Hình1: Nội dung của hoạt động nhập khẩu.
1. Nghiên cứu thị trường.
Có thể nói rằng thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển
của nền sản xuất hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó xuất
Xây dựng kế
hoạch nhập
khẩu
Nghiên cứu
thị trường
Tổ chức thực
hiện hợp đồng
Nhập khẩu
Giao dịch,
đàm phán và
ký kết hợp
đ
ồng
hiện khái niệm về thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên và rất cần
thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, trong bất kỳ lĩnh vực
nào đặc biệt là doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nghiên cứu thị trường trong kinh
doanh thương mại quốc tế có thể hiểu là một loại các thủ tục, kỹ thuật được đưa ra
để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ thông tin về thị trường từ đó đưa ra các quyết
định chính xác.
Nghiên cứu thị trường là một quá trình tìm kiếm khách quan và có hệ thống,
cùng với sự phân tích các thông tin cần thiết để giải quyết các vấn đề trong hoạt
động thương mại quốc tế. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường đang ngày càng đóng một
vai trò quan trọng để giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong công tác xuất
nhập khẩu.
Nghiên cứu thị trường của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường bao gồm
các công đoạn sau:
a. Nghiên cứu thị trường trong nước và xác định hàng hoá nhập khẩu
Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên của các doanh
nghiệp có ý định gia nhập vào thị trường thương mại quốc tế. Việc đầu tiên là phải
xác định được mặt hàng mình sẽ nhập khẩu sao cho phù hợp với năng lực và đem
lại hiệu quả cao trong kinh doanh.
Mặt hàng mà doanh nghiệp lựa chọn nhập khẩu phải đạt tiêu chuẩn phù hợp
với nhu cầu thị trường trong nước và phù hợp với khả năng cung ứng của doanh
nghiệp. Điều này đòi hỏi phải có sự phân tích, đánh giá kỹ khả năng nội tại của
doanh nghiệp cũng như dự đoán được những khó khăn và thuận lợi của doanh
nghiệp khi quyết định nhập khẩu mặt hàng này để tiêu thụ trong nước. Khi lựa chọn
mặt hàng nhập khẩu, các nhà kinh doanh phải chú ý các vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Mặt hàng thị trường đang cần là gì ?
Doanh nghiệp cần khảo sát kỹ thị trường trong nước để biết được hiện tại thị
trường đang có nhu cầu về những mặt hàng nào mà doanh nghiệp có khả năng nhập
khẩu. Khi nghiên cứu thị trường trong nước doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ khía
cạnh thương phẩm để hiểu rõ giá trị, công dụng, nắm được những đặc tính của nó
và những yêu cầu của thị trường về hàng hoá đó như : quy cách sản phẩm bao bì,
cách trang trí bên ngoài, cách lựa chọn phân loại…
Thứ hai: Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
Mỗi loại mặt hàng đều có thói quen tiêu dùng riêng, thể hiện ở thời gian tiêu
dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu mặt hàng đó.
Thứ ba: Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
Chu kỳ sống của sản phẩm là tiến trình phát triển việc tiêu thụ của sản phẩm
đó bao gồm bốn giai đoạn : (i) thâm nhập, (ii) phát triển, (iii) bão hoà,(iv) thoái
trào. Do vậy doanh nghiệp nhập khẩu phải nắm được mặt hàng doanh nghiệp dự
tính nhập khẩu đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống để đưa ra các biện pháp cần
thiết để nâng cao doanh số bán hàng và thu được nhiều lợi nhuận.
Thứ tư: Tình hình sản xuất mặt hàng đó trong nước như thế nào?
Doanh nghiệp cần nắm được khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu
của mặt hàng đó, thời vụ sản xuất, công nhân, tay nghề, nguyên lý chế tạo, tốc độ
phát triển mặt hàng đó.
Thứ năm: Chính sách quản lý của Nhà nước về mặt hàng đó như thế nào?
Doanh nghiệp cần biết rõ mặt hàng doanh nghiệp dự định nhập khẩu có được
Nhà nước cho phép nhập khẩu hay không ? Có hạn ngạch nhập khẩu hay không?
Có được Nhà nước khuyến khích nhập khẩu hay không?…
b. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Đối với doanh nghiệp nhập khẩu việc nghiên cứu dung lượng thị trường hàng
hoá cần nhập khẩu là rất quan trọng. Có thể hiểu dung lượng thị trường của một
hàng hoá là khối lượng hàng hoá đã được giao dịch trên một phạm vi thị trường
nhất định trong một thời gian nhất định thường là một năm.
Dung lượng thị trường không cố định mà nó thay đổi tuỳ theo tình hình do tác
động của nhiều nhân tố tổng hợp trong những giai đoạn nhất định. Các nhân tố làm
thay đổi có rất nhiều nhưng có thể chia ra làm ba nhóm căn cứ vào thời gian ảnh
hưởng của chúng đối với thị trường.
* Nhóm nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính chất chu kỳ:
Đó là những nhân tố quan trọng như
+ Sự vận động của tình hình kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là
các nước phương Tây: Đây là nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng trực tiếp đến
thị trường hàng hoá. Phân tích ảnh hưởng của sự vận động tình hình kinh tế trên thế
giới đối với sự biến đổi dung lượng thị trường có thể trên phạm vi thế giới, khu
vực. Đặc biệt là sự vận động của các nước giữ vai trò chủ yếu trên thị trường nhập
khẩu hàng hoá chủ yếu thuộc đối tượng nghiên cứu.
+ Tính chất thời vụ trong quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông hàng
hoá: Do đặc điểm của sản xuất lưu thông và tiêu dùng các loại hàng hoá rất khác
nhau nên sự ảnh hưởng của nhân tố này đối với thị trường hàng hoá cụ thể rất đa
dạng về phạm vi và mức độ.
* Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi của dung lượng thị
trường: Các nhân tố thuộc đối tượng này rất nhiều, nó ảnh hưởng tới sự biến đổi
của dung lượng thị trường hàng hoá trong thời gian tương đối dài. Ví dụ như nhân
tố tiến bộ khoa học công nghệ, các biện pháp chính sách của nhà nước, thị hiếu và
tập quán của người tiêu dùng, ảnh hưởng của hàng hoá thay thế.
* Nhóm các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường:
Các nhân tố này như hiện tượng đầu cơ đột biến về cung cầu, các yếu tố tự
nhiên như hạn hán, lũ lụt, động đất…
Trên đây là những nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường. Khi nghiên
cứu thị trường hàng hoá khác nhau phải vào đặc điểm của chúng để đánh giá đúng
ảnh hưởng của các nhân tố. Điều quan trọng là khi phân tích ảnh hưởng của các
nhân tố đối với sự thay đổi dung lượng thị trường là phải xác định nhân tố nào có
nghĩa quyết định tới xu hướng phát triển của thị trường trong giai đoạn hiện nay và
trong tương lai.
c. Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới là vấn đề hết sức quan
trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành nhập khẩu. Giá cả hàng
hoá trên thị trưòng phản ánh quan hệ cung cầu hàng hoá đó trên thị trường thế giới.
Vấn đề xác định đúng đắn giá cả hàng hoá trong kinh doanh thương mại quốc tế có
ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả của hoạt động nhập khẩu.
Trong buôn bán quốc tế giá cả hàng hoá được coi là giá tổng hợp, trong đó bao
gồm giá vồn hàng bán, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các loại chi
phí khác tuỳ theo các bước thực hiện của các bên tham gia. Nghiên cứu giá cả hàng
hoá bao gồm nghiên cứu giá cả của mặt hàng nhập khẩu tại từng thời điểm trên
từng thị trường, xu hướng biến động của giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng
tới nó.
Khi nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới cần nghiên cứu các
vấn đề sau:
* Giá quốc tế:
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị
trường thế giới. Giá đó phải là giá của những giao dịch thương mại thông thường,
không kèm theo một điều kiện giao dịch nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do
chuyển đổi được.
Trong thực tiễn kinh doanh thương mại quốc tế những giá sau được coi là giá
quốc tế:
+ Đối với những hàng hoá không có trung tâm giao dịch thuyền thống trên thế
giới thì có thể lấy giá của những nước xuất khẩu hoặc của những nước nhập khẩu
chủ yếu biểu thị bằng ngoại tệ có thể tự do chuyển đổi được.
Ví dụ như giá than có thể lấy giá than xuất khẩu của Mỹ hoặc có thể lấy giá
nhập khẩu của Nhật Bản tính bằng USD của Mỹ
+ Đối với những hàng hoá thuộc đối tượng buôn bán ở sở giao dịch hoặc ở các
trung tâm bán đấu giá thì có thể tham khảo giá ở các trung tâm này.
+ Đối với máy móc thiết bị việc định giá quốc tế tương đối khó bởi vì máy
móc thiết bị rất đa dạng vì vậy trong thực tế người ta căn cứ vào giá cả của các
hãng sản xuất và cung trong thị trường đóng vai trò chủ yếu.
* Dự đoán xu hướng biến động của giá cả.
Xu hướng biến động của giá cả các loại hàng hoá trên thế giới biến động rất
phức tạp. Có lúc tăng giảm cá biệt, có trường hợp ổn định nhưng nói chung xu
hướng đó có tính chất tạm thời. Để có thể dự đoán được xu hướng biến động của
giá cả trên thị trường phải dựa vào các kết quả ngiên cứu và dự đoán tình hình thị
trường từng loại hàng hoá, đồng thời đánh giá các nhân tố tác động đến xu hướng
biến đổi giá cả. Các nhân tố tác động đến giá cả hàng hoá trên thị trường hàng hoá
rất nhiều nhưng có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau. Sau đây xin giới thiệu
một số nhân tố tác động đến biến động hàng hoá trên thế giới:
+ Nhân tố chu kỳ.
Chu kỳ tức là sự vận động có tính chất quy luật tình hình kinh tế của các nước
phương Tây. Nhân tố này ảnh hưởng rất lớn tới xu hướng biến động của giá cả các
loại hàng hoá trên thị trường thế giới. Sự vận động có tính chất quy luật của các
nước phương Tây sẽ làm cho quan hệ cung cầu thay đổi do đó làm thay đổi dung
lượng thị trường thị trường.
+ Nhân tố lũng đoạn và giá cả.
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đối với việc hình thành và biến động giá cả
hàng hoá trên thị trường thế giới. Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá khác
nhau đối với một loại hàng hoá, thậm chí có trường hợp trên cùng một thị trường.
Tuỳ theo người mua và người bán mà trên thị trường thế giới xuất hiện hai loại giá
lũng đoạn cao và giá lũng đoạn thấp. Giá lũng đoạn cao là giá bán các thiết bị máy
móc do các nhà tư bản công nghiệp ở các nước tư bản có nền công nghiệp phát triển
tạo ra, giá lũng đoạn thấp là giá nguyên vật liệu của các nhà sản xuất nhỏ ở các
nước kém phát triển bán cho các nhà tư bản ở các nước phát triển.
+ Nhân tố cạnh tranh: Cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo xu hướng
khác khau, nó phụ thuộc vào đối tượng tham gia cạnh tranh là người mua hay người
bán.
Cạnh tranh giữa những người bán với nhau xảy ra khi lượng cung trên thị
trường cao hơn lượng cầu trên thị trường, kết quả là làm cho giá sẽ giảm xuống.
Cạnh tranh giữa những người mua với nhau xảy ra khi lượng cầu trên thị
trường cao hơn lượng cung trên thị trường, kết quả là làm cho giá sẽ tăng lên.
+ Nhân tố lạm phát.
Giá của hàng hoá không những được quyết định bởi giá trị của hàng hoá mà
còn quyết định bởi giá trị của tiền tệ của những nước có vị trí quan trọng trong
thương mại quốc tế: Ví dụ như USD, Fr…. Do đặc điểm của nền kinh tế hiện nay
giá trị đồng tiền luôn luôn thay đổi, nó gắn liền với vấn đề lạm phát. Lạm phát làm
cho giá cả hàng hoá tăng lên ở các mức độ khác nhau.
Ngoài các nhân tố trên giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới còn phụ thuộc
vào một số nhân tố như tính thời vụ, chính sách của Nhà nước, an ninh chính trị
quốc gia…
Trên đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới sự biến động giá cả hàng
hoá trên thị trường thế giới. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của các nhân tố không
phải cố định mà tuỳ theo tình hình thị trường trong từng giai đoạn cụ thể mà có
những thay đổi nhất định.
d. Lựa chọn đối tác kinh doanh.
Lựa chọn đối tác kinh doanh bao gồm vấn đề lựa chọn nước để giao dịch và
lựa chọn thương nhân giao dịch.
* Lựa chọn nước giao dịch.
Để lựa chọn nước giao dịch doamh nghiệp cần nghiên cứu các yếu tố sau:
+ Tình hình sản xuất của nước đó.
+ Khả năng và chất lượng hàng nhập khẩu .
+ Chính sách và tập quán thương mại của nước đó.
+ Tình hình kinh tế, chế độ chính trị và thái độ của chính phủ nước đó đối với
mặt hàng mà doanh nghiệp định nhập khẩu.
* Chọn thương nhân để giao dịch.
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những
người hay tổ chức có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp nhằm thực hiện các hợp
đồng mua bán hàng hoá hay các dịch vụ, các hợp đồng hợp tác kinh tế hoặc hợp tác
kỹ thuật liên quan tới việc cung cấp hàng hoá. Xét về tính chất hay mục đích hoạt
động, khách hàng trong thương mại quốc tế có thể chia làm ba loại: các hãng công
ty, các liên đoàn kinh doanh và các cơ quan Nhà nước.
Những nội dung cần thiết nghiên cứu để lựa chọn thương nhân bao gồm:
+ Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh và
khả năng cung cấp hàng hoá của hãng.
+ Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
+ Thái độ và quyết định kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng lấy
độc quyền về hàng hoá.
+ Uy tín của bạn hàng.