ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC
HỌC PHẦN
HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ
Giảng viên hướng dẫn : Phạm Thanh Sơn
Sinh viên thực hiện
Lớp
Mã sinh viên
: Ngô Thu Hằng
: 18J9.KT
: 18041633
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2021
Câu 1: Phân tích ảnh hưởng của Covid19 lên thị trường kinh tế vĩ mơ Việt Nam
(Thị trường hàng hóa, lao động, và vốn).
1. Bối cảnh
Đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả
quốc gia và khiến kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Việt Nam là một
trong những quốc gia chịu nhiều tác động của dịch bệnh Covid-19. Mặc dù nước ta đã
có sự kiểm sốt dịch bệnh thành cơng bước đầu, nhưng Covid-19 đã ảnh hưởng không
nhỏ đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, gây gián đoạn chuỗi cung ứng sản xuất và
lưu thông hàng hóa, một số ngành như: xuất, nhập khẩu, hàng khơng, du lịch, dịch vụ
lưu trú, ăn uống, y tế, giáo dục, lao động, việc làm bị tác động trực tiếp; nhiều doanh
nghiệp phá sản, giải thể, tạm dừng hoạt động, thu hẹp quy mô, v.v.
2. Ảnh hưởng của Covid-19 lên thị trường hàng hố
Dịch Covid-19 xảy ra và nhanh chóng lan rộng trên toàn thế giới làm sức mua
của nền kinh tế toàn cầu giảm, hoạt động giao thương hạn chế, dẫn đến việc giãn, huỷ,
hoãn các đơn đặt hàng, gây sụt giảm kim ngạch xuất khẩu và làm giảm sản lượng, doanh
thu của doanh nghiệp. Điều này ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp ở nhiều ngành, lĩnh
vực khác nhau.
Theo Bộ Công Thương, dịch Covid-19 lây lan mạnh tại nhiều quốc gia và khu
vực trên thế giới từ giữa tháng 3/2020 đã gây ra sự gián đoạn đối với chuỗi thương
mại tồn cầu và ảnh hưởng khơng nhỏ tới hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt
Nam. Sau khi đạt mức tăng trưởng khá tích cực trong quý I/2020, hoạt động thương
mại của Việt Nam từ tháng 4 đã bắt đầu chịu tác động mạnh mẽ từ đại dịch Covid-19.
15 ngày đầu tháng 5/2020, cả nước xuất khẩu được 8,22 tỷ USD. Đây được xem là kỳ
có kim ngạch thấp nhất kể từ đầu năm 2020 đến nay (không tính nửa cuối tháng 1 có
dịp nghỉ Tết Ngun đán). Ở chiều nhập khẩu, 15 ngày đầu tháng 5/2020 đạt kim
ngạch gần 9,2 tỷ USD. Như vậy, cả nước nhập siêu gần 1 tỷ USD trong kỳ đầu của
tháng 5.
Trong tình hình nhiều nước u cầu đóng cửa các thành phố, thậm chí tồn
quốc, người dân được u cầu ở nhà, các đối tác nhập khẩu của Việt Nam thông báo
2
hoãn đơn hàng khiến các mặt hàng như dệt may, da giày, đồ gỗ… gặp khó khăn ở thị
trường đầu ra, đặc biệt EU và Mỹ là hai thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Tình hình sản xuất, xuất khẩu ngành Dệt may tiếp tục gặp nhiều khó khăn do thiếu hụt
đơn hàng xuất khẩu. Nhiều lĩnh vực sản xuất của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào
nguồn nguyên, nhiên liệu nhập khẩu, chủ yếu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Mỹ, EU... Khi dịch Covid-19 xảy ra, việc hạn chế đi lại, thông thương đã ảnh hưởng
đến nguồn nguyên, vật liệu đầu vào của doanh nghiệp , bao gồm các doanh nghiệp
sản xuất hố chất nơng nghiệp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; các doanh nghiệp
dệt may, da giầy, sản xuất giấy, sản phẩm từ gỗ, sản xuất kinh doanh thép; các doanh
nghiệp khai khoáng xây dựng...
Covid-19 hạn chế hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp trong
lĩnh vực nông lâm nghiệp thuỷ sản. Trong quý I/2020 nhiều mặt hàng nông - thuỷ sản
gặp khó khăn khi xuất khẩu ra các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ,
EU, ASEAN. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong quý 1/2020 giảm
8% và sản lượng sản xuất các sản phẩm phụ trợ nơng nghiệp (hố chất, phân bón, thiết
bị) giảm. Ngun nhân do lệnh phong toả, hạn chế đi lại, nhiều hợp đồng bị huỷ bỏ.
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ quý I năm 2021 tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước – mức tăng thấp nhất của quý
I trong giai đoạn 2016-2021. Trước những ảnh hưởng của dịch Covid-19, thị trường
bán lẻ thay đổi dần từ kênh bán hàng truyền thống và hiện đại sang kênh bán hàng trực
tuyến, các doanh nghiệp linh hoạt thích ứng với sự thay đổi về hành vi mua sắm và thị
hiếu của người tiêu dùng, trong đó hình thức mua sắm trực tuyến ngày càng được ưa
chuộng.
3. Ảnh hưởng của Covid-19 lên thị trường lao động
Thị trường lao động đang bị ảnh hưởng nặng nề do dịch COVID-19. Riêng
trong Quý I/2020 đã có 35.000 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, đây là một con số
kỷ lục từ trước tới nay. Hơn 75% số doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô lao động và có
tới gần 10% phải giảm tới một nửa quy mơ lao động. Nhu cầu tuyển dụng lao động rất
3
thấp so với cùng kỳ năm 2019 (tại Thành phố Hồ Chí Minh giảm 28%, Hà Nội giảm
23%,…).
Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2020, khoảng 1,4 triệu người mất việc làm, trong đó
lao động mất việc làm do các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh phá sản, giải
thể hoặc thu hẹp sản xuất là gần 900 nghìn người. Trong bối cảnh lao động mất việc
làm liên tục gia tăng thì kết quả giải quyết việc làm trong 6 tháng đầu năm rất thấp,
ước đạt 540.000 lao động. Tính đến tháng 12 năm 2020, cả nước có 32,1 triệu người
từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19. Trong đó, 69,2% người bị
giảm thu nhập, 39,9% phải giảm giờ làm/nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên và khoảng
14,0% buộc phải tạm nghỉ hoặc tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Dịch Covid-19 đã đẩy nhiều lao động vào tình trạng khơng có việc làm đồng
thời khiến cho nhiều người trong số họ buộc phải trở thành lao động có việc làm phi
chính thức. Tính chung cả năm 2020, số lao động có việc làm phi chính thức là 20,3
triệu người, tăng 119,1 nghìn người, số lao động có việc làm chính thức là 15,8 triệu
người giảm 21,1 nghìn người so với năm 2019. Đại dịch Covid-19 trong năm 2020 đã
khiến nền kinh tế gặp phải nhiều khó khăn, các doanh nghiệp buộc phải chống đỡ bằng
nhiều biện pháp trong đó có cả các biện pháp tinh giảm lao động (cắt giảm, nghỉ luân
phiên,…), tuyển dụng lao động thời vụ, lao động tạm thời để duy trì hoạt động.
Sự bùng phát của đại dịch Covid-19 đã làm tình trạng thiếu việc làm lan rộng
sang cả khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chứ không chỉ tập trung ở khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản như trước đây. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong
độ tuổi năm 2020 ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 4,68%, khu vực công
nghiệp và xây dựng là 1,50%; khu vực dịch vụ là 1,74% (năm 2019 tương ứng là
3,45%; 0,43%; 0,87%).
So với năm 2019, thu nhập bình quân tháng của người lao động năm 2020 giảm
ở cả ba khu vực kinh tế. Trong năm 2020, thu nhập bình quân của người lao động là
5,5 triệu đồng, giảm 2,3% so với năm 2019 (tương ứng giảm 128 nghìn đồng). Thu
nhập của lao động ngành dịch vụ bị giảm sâu nhất, giảm 215 nghìn đồng; tiếp đến là
ngành nơng, lâm nghiệp và thủy sản, giảm 156 nghìn đồng. Mức giảm thu nhập của
4
lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng là thấp nhất, giảm 100 nghìn
đồng/người/tháng.
4. Ảnh hưởng của Covid-19 lên thị trường vốn
Đại dịch Covid-19 bắt đầu ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán Việt Nam từ
cuối tháng 1/2020, đã dẫn đến một đợt sụt giảm nhanh và mạnh chưa từng thấy.VNIndex chỉ trong hai tháng sau đó đã sụt giảm 33,51%, xuống mức thấp nhất trong vòng
ba năm. Nhiều nhà đầu tư bán cổ phiếu bằng mọi cách, các cơng ty chứng khốn kích
hoạt lệnh bán khống với các tài khoản vượt ngưỡng an tồn, dùng địn bẩy cao, vay ký
quỹ (margin). Nhiều người bị thiệt hại nặng về tài sản, "cháy" tài khoản.
Trong 6 tháng đầu năm 2020, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 3,4% so với cùng kỳ
năm trước - mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016 - 2020, trong đó khu vực nhà
nước tăng 7,4%; khu vực ngoài nhà nước tăng 4,6% và khu vực FDI giảm 3,8%. Như
vậy, nhu cầu đầu tư của 2 khu vực: khu vực ngoài nhà nước và khu vực FDI sụt giảm
trong 6 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư khu vực FDI giảm
mạnh nhất, từ tăng trưởng 9,7% 6 tháng đầu năm 2019 xuống tăng trưởng âm 3,8% so
với cùng kỳ năm 2020; tăng trưởng vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước sụt giảm từ
16,4% 6 tháng đầu năm 2019 xuống còn 7,4% năm so với cùng kỳ năm 2020. Tuy
nhiên, điểm sáng duy nhất là vốn đầu tư của khu vực nhà nước tăng từ 3% 6 tháng đầu
năm 2019 lên 7,4% so với cùng kỳ năm 2020. Trong thời điểm nền kinh tế gặp khó
khăn và tổng cầu suy giảm, Nhà nước đã đóng vai trị quan trọng nhằm hạn chế sự suy
giảm của tổng cầu.
Câu 2: Chính phủ Việt nam đã có những chính sách kinh tế vĩ mơ gì để đối phó
với những ảnh hưởng này.
1. Chính sách tài khố
Về thu ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính đã chỉ đạo cơ quan Thuế, Hải quan
khẩn trương triển khai các giải pháp thu ngân sách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám sát, giảm thiểu việc lợi dụng
chính sách để trục lợi. Thực hiện giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm 30%
thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay; giảm tiền thuê đất; gia hạn nộp thuế giá
5
trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất; gia
hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô-tô sản xuất, lắp ráp trong nước, tiếp tục miễn
thuế sử dụng đất nông nghiệp, thực hiện miễn, giảm hàng chục loại phí, lệ phí cho
người dân và doanh nghiệp...
Về chi ngân sách nhà nước, trong bối cảnh thu ngân sách giảm, cân đối ngân
sách khó khăn, nhưng vẫn bảo đảm bổ sung nguồn tăng chi cho cơng tác phịng, chống
dịch bệnh, hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Đến hết tháng 112020, ngân sách đã chi hơn 17,9 nghìn tỷ đồng cho cơng tác phịng, chống dịch và hỗ
trợ cho trên 12,95 triệu người dân, hơn 30,3 nghìn hộ kinh doanh gặp khó khăn do đại
dịch COVID-19. Nhằm chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và người dân, đã yêu cầu
các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương triệt để tiết kiệm chi ngân sách nhà nước,
rà soát cắt giảm tối thiểu 70% kinh phí hội nghị, cơng tác phí trong và ngồi nước, tiết
kiệm thêm 10% chi thường xuyên, hủy dự toán một số nhiệm vụ chi sử dụng không
triển khai thực hiện,.... Đồng thời, Bộ Tài chính cũng trình Quốc hội cho lùi thời hạn
tăng lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang nhân dân để chia sẻ
khó khăn giữa nhà nước và người dân. Đối với cấp ngân sách địa phương, thì cịn u
cầu cắt giảm thêm nguồn dự phịng, sử dụng các nguồn lực hợp pháp tại chỗ để đảm
bảo cân đối trong bối cảnh thu sụt giảm.
Mô đồ thể hiện tác động của chính sách tài khố: Chính sách tài khóa mở rộng
nên đường IS dịch sang phải, thu nhập Y1 tăng lên Y2 và lãi suất tăng từ r1 lên r2.
6
2. Chính sách tiền tệ
Chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Thứ nhất, điều hành đồng bộ, linh hoạt các cơng cụ chính sách tiền tệ để ổn
định thị trường, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ kinh tế ứng phó với tác động bất lợi của
đại dịch Covid-19.
Thứ hai, liên tục điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất với quy mô lớn để
hỗ trợ nền kinh tế. Đồng thời, chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động cân đối khả năng
tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý; triệt để tiết giảm chi phí hoạt động, tập
trung mọi nguồn lực để giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh
nghiệp, người dân vượt qua khó khăn..
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN
ngày 13/3/2020 quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ
cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ ngun nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách
hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19, tạo hành lang pháp lý, cơ chế đột phá để các
tổ chức tín dụng tháo gỡ khó khăn về vốn vay cho khách hàng (cơ cấu lại nợ gốc và
lãi, không chuyển nhóm nợ, khơng tính lãi phạt, miễn, giảm lãi, phí), đồng thời liên
tục tổ chức các hội nghị kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp trên toàn quốc, khảo sát
thực địa, tiếp nhận và giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc của người dân, doanh
nghiệp.
Thứ tư, trong bối cảnh cầu tín dụng của nền kinh tế suy yếu do tác động tiêu
cực của dịch bệnh Covid-19, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập
trung mọi nguồn lực, cải thiện quy trình, thủ tục cho vay để nâng cao khả năng tiếp
cận vốn của nền kinh tế, giảm lãi suất cho vay và lợi nhuận để hỗ trợ khách hàng;
đồng thời, Ngân hàng Nhà nước chủ động thường xuyên rà soát để điều chỉnh chỉ tiêu
tăng trưởng tín dụng cho các tổ chức tín dụng có khả năng mở rộng tín dụng an tồn,
lành mạnh.
Thứ năm, điều hành, công bố tỷ giá trung tâm linh hoạt hàng ngày, phù hợp với
thị trường trong và ngồi nước, cân đối kinh tế vĩ mơ, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền
tệ; góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ và hấp thu các cú sốc đối với
7
nền kinh tế. Đồng thời, kết hợp với các giải pháp điều tiết thanh khoản hợp lý, chủ động
truyền thông, can thiệp mua/bán ngoại tệ với tổ chức tín dụng để bình ổn thị trường, ổn
định kinh tế vĩ mơ, góp phần kiểm sốt lạm phát.
Thứ sáu, chính sách tiền tệ cũng được điều hành phối hợp chặt chẽ với chính
sách tài khóa và các chính sách khác. Ngân hàng Nhà nước thường xuyên trao đổi thông
tin, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành trong công tác điều hành chính sách tiền tệ, giá
hàng hóa dịch vụ, dự báo lạm phát; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính trong
trao đổi thơng tin về tiền gửi có kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước tại hệ thống ngân hàng.
Mơ đồ thể hiện tác động của chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ được nới lỏng
nên đường LM dịch sang phải, thu nhập tăng từ Y1 lên Y2, lãi suất giảm từ r1 xuống r2.
Câu 3: (Bonus) Trình bày cơ chế ảnh hưởng của những chính sách can thiệp của
chính phủ, đánh giá tác dụng phụ có thể có trong ngắn hạn và dài hạn.
Chính sách tiền tệ nới lỏng trong các gói kích thích kinh tế có thể kéo theo hệ lụy
là gia tăng nợ xấu. Đây sẽ là một thách thức lớn với Việt Nam trong giai đoạn phục hồi
và tăng trưởng. Do vậy, các biện pháp của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2020 như
tăng trưởng tín dụng theo nhu cầu, khơng khiên cưỡng, đi đơi với an tồn, bảo đảm cung
ứng vốn cho các lĩnh vực ưu tiên, kiểm sốt tín dụng với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, cần
được tiếp tục duy trì.
Do thâm hụt ngân sách kéo dài trong nhiều năm, cùng với việc chính sách tiền
tệ bị ràng buộc với các mục tiêu về lạm phát và tỷ giá, Việt Nam không thể theo đuổi
8
các chính sách vĩ mơ theo cách tương tự như các nước lớn trên thế giới. Nới lỏng tiền
tệ với quy mơ lớn có thể dẫn đến mất giá nội tệ, môi trường đầu tư trở nên rủi ro hơn,
làm trì hỗn các dịng vốn đầu tư nước ngồi vào Việt Nam.
Chính sách tiền tệ nới lỏng, thậm chí siêu nới lỏng ở nhiều nước, có thể tiềm tàng
các rủi ro với thị trường tài sản như bất động sản, chứng khốn. Ở Việt Nam, cho dù các
bong bóng chứng khoán hay bất động sản chưa xuất hiện, nhưng cần chú ý một số dấu
hiệu tăng trưởng nóng của thị trường chứng khốn trong thời gian vừa qua.
Chính sách tiền tệ cực đoan có xu hướng làm hạn chế phạm vi tạo tín hiệu chính
sách trong tương lai, làm giảm hiệu quả của công cụ lãi suất, một công cụ mạnh để gây
ảnh hưởng đến sản lượng và việc làm trong điều kiện bình thường. Thứ hai, những chính
sách đó có thể làm trầm trọng thêm mức độ dễ bị tổn thương vốn đã đe dọa nền kinh tế
thế giới từ trước đại dịch, không chỉ liên quan đến tăng dư nợ, phân bổ tín dụng tùy tiện
và dư thừa thanh khoản trong khu vực doanh nghiệp (với quá nhiều cơng ty có vấn đề
trên bảng cân đối tài sản của họ). Những quan ngại đó dẫn đến ý thứ ba: mở rộng các
chương trình tín dụng của nhà nước có thể đẩy thêm nợ vào các doanh nghiệp khơng có
khả năng tạo giá trị từ nợ. Đây là quan ngại ở hầu hết các quốc gia, nhưng đặc biệt cần
quan tâm ở Việt Nam vì nợ đang tập trung ở một số ít các doanh nghiệp do mức độ tài
chính tồn diện trong nước cịn hạn chế.
Các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ trong khủng hoảng COVID-19 đã chuyển
một lượng vốn mới vào nền kinh tế trong nước nhưng lại làm giảm dư địa tài khóa.
Lượng vốn mới giúp bù đắp phần nào cho suy giảm nhu cầu của tư nhân và nước
ngồi. Nhưng chính sách hỗ trợ lại làm giảm dư địa tài khóa, làm đảo ngược xu hướng
quan sát được ít nhất cho đến quý cuối của năm 2019. Chính phủ bị giảm thu từ đầu
năm 2020 trong khi phải chi tiêu nhiều hơn. Tổng thu trong chín tháng đầu năm 2020
giảm 10,8% so với cùng kỳ năm 2019. Giảm thu từ thuế chủ yếu phát sinh ở thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng và thuế xuất nhập khẩu. Trong khi đó, tổng
chi tăng 8,1% so với chín tháng đầu năm 2019, tính cả số tăng chi đầu tư nêu. Đồng
thời, Chính phủ vẫn có khả năng cắt giảm chi thường xuyên do tạm hoãn tăng lương
9
và cắt giảm chi phí đi lại. Chi trả lãi cũng được giảm nhờ lãi suất thấp ở cả thị trường
trong nước và quốc tế.
Tài liệu tham khảo
1. TS. Trần Thị Thu Hương, TS. Phạm Tiến Mạnh (2021), “Đánh giá tác động của
đại dịch Covid-19 đến các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Tài chính.
2. TS. Hà Huy Tuấn (2021), “Những vấn đề nổi bật của thị trường tài chính thế
giới trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và một số lưu ý cho năm 2021”, tạp chí
Thị trường Tài chính - Tiền tệ.
3. Thu Hường (2021), “Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2020 và triển
vọng năm 2021”, Tạp chí con số & sự kiện.
4. Nguyễn Minh Cường (2021), “Chính sách tiền tệ trong phục hồi và tăng trưởng
kinh tế hậu đại dịch Covid-19”, Tạp chí Ngân hàng.
5. Mai Anh (2020), “Doanh nghiệp chú trọng phát triển thị trường nội địa trong
bối cảnh Covid-19”, Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương (MOIT).
6. Bảo Ngọc (2020), “Ảnh hưởng mạnh từ dịch Covid-19, xuất khẩu giảm”, Báo
Công thương.
7. ThS. Phạm Thanh Hà (2021), “Điều hành chính sách tiền tệ hỗ trợ nền kinh tế
chống đỡ với đại dịch Covid-19 và định hướng năm 2021”, Tạp chí Ngân hàng.
10